Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HÀ NAM

NGUYỄN THỊ THẢO

HÀ NỘI -2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HÀ NAM

NGUYỄN THỊ THẢO
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN NHƢ PHÁT

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Như Phát.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực, chính xác và khách quan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của cơ
quan, tập thể và cá nhân. Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo
sau Đại học - Trường Đại học Mở Hà Nội cùng tập thể các thầy, cô giáo đã giảng
dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn, lòng kính trọng tới thầy giáo PGS.TS Nguyễn Như Phát Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cám ơn tới Ban lãnh đạo Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm
tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học
tập, thu thập số liệu thực hiện luận văn.
Tôi muốn cảm ơn những đồng nghiệp nơi tôi công tác và bạn bè tôi những người đã ủng hộ, giúp đỡ tôi về mặt tinh thần cũng như chia sẻ những khó
khăn trong những năm tháng học tập, nghiên cứu.
Và trên hết, tôi xin dành lời cảm ơn thiêng liêng nhất đến gia đình tôi những người đã luôn sát cánh, động viên, khích lệ và tạo điều kiện để tôi học tập,
nghiên cứu trong suốt khóa học vừa qua.
Xin trân trọng cám ơn!


Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1 .......................................................................................................... 8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN THỰC PHẨM.............. 8
1.1. Thực phẩm và vấn đề an toàn thực phẩm .................................................. 8
1.1.1. Khái niệm thực phẩm .............................................................................. 8
1.1.2. Khái niệm an toàn thực phẩm ................................................................. 9
1.1.3. Tầm quan trọng của vấn đề an toàn thực phẩm ................................... 10
1.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ........................... 11
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính ............................................................. 11
1.2.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính và các yếu tố cấu thành vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ................................................ 13
1.3. Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực
phẩm ................................................................................................................ 19
1.3.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực
phẩm ................................................................................................................ 19
1.3.2. Đặc điểm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP ........ 19
1.3.3. Nguyên tắc xử phạt VPHC trong lĩnh vực ATTP .................................. 20
1.3.4. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả ............................ 21
1.3.5. Thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính ............................................................................................. 23
1.3.6. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về ATTP........................ 27
1.3.7. Thi hành Quyết định xử phạt VPHC ..................................................... 29

Kết luận chương 1 ........................................................................................... 30


Chương 2 ......................................................................................................... 31
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ........................................... 31
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VPHC TRONG LĨNH VỰC AN
TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN ........................................................ 31
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY .......................................................................... 31
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
ATTP. .............................................................................................................. 31
2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực ATTP .............................................................................. 31
2.1.2. Các quy định về hành vi VPHC trong lĩnh vực an toàn thực phẩm ..... 34
2.2. Thực tiễn công tác thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Hà Nam .......................... 36
2.2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Nam ............ 36
2.2.2. Tình hình thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ..... 39
2.2.3. Tình hình vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực ATTP tại tỉnh Hà Nam từ năm 2013 - 2018 ............................................. 40
2.2.4. Ưu điểm, hạn chế trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực ATTP tại tỉnh Hà Nam....................................................................... 48
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 56
Chương 3 .......................................................................................................... 57
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM ............................................ 57
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Hà Nam ................................... 57
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Hà Nam ................ 59



3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy đối với hoạt động quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm ................................................................................................ 60
3.2.2. Đầu tư các nguồn lực cho hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực an toàn thực phẩm ............................................................................. 61
3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an
toàn thực phẩm ................................................................................................ 63
3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với cơ sở thực
phẩm, sản phẩm thực phẩm. ........................................................................... 65
3.2.5. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
toàn thực phẩm ................................................................................................ 66
3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm .......................... 67
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 71


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATTP

An toàn thực phẩm

LATTP

Luật An toàn thực phẩm

NSNN


Ngân sách nhà nước

QLNN

Quản lý nhà nước

UBND:

Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính.

VSATTP

Vệ sinh an toàn thực phẩm

VSTP

Vệ sinh thực phẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
An toàn thực phẩm (ATTP) đã và đang trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu
của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, của mỗi quốc gia và của toàn cầu. ATTP không
những chỉ ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên đến sức khỏe con người, đến sự
phát triển giống nòi, mà còn tác động đến quá trình sản xuất, xuất khẩu hàng hóa,

phát triển thương mại, du lịch và uy tín quốc gia. Việc đảm bảo ATTP sẽ giúp tăng
cường nguồn lực con người, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ
quốc tế. Đầu tư cho ATTP phải được coi là đầu tư cho phát triển bền vững, an toàn
và an sinh xã hội mà trước hết phải coi trọng đầu tư hoàn thiện các chính sách, pháp
luật mới là cơ sở đảm bảo tính thượng tôn pháp luật trong xã hội.
Tuy nhiên, công tác bảo đảm ATTP ở nước ta còn nhiều khó khăn, thách
thức. Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới
sức khỏe cộng đồng. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm ở nước ta cơ bản vẫn là nhỏ
lẻ, quy mô hộ gia đình nên việc kiểm soát an toàn thực phẩm rất khó khăn. Mặc dù
Việt Nam đã có những tiến bộ rõ rệt trong bảo đảm an toàn thực phẩm trong thời
gian qua song công tác quản lý an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém, bất cập, hạn
chế về nguồn lực và đầu tư kinh phí và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Vì vậy, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế nói chung và lĩnh vực
ATTP nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động QLNN nhằm duy trì trật tự,
kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên
quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
hết sức quan tâm. Trong những năm qua, ngành Y tế đã phối hợp chặt chẽ với các
Bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai nhiều hoạt động bảo đảm ATTP
rộng khắp trên toàn quốc. Cùng với việc xây dựng hành lang pháp lý, hệ thống quản
lý chuyên ngành thuộc ngành Y tế và ngành Nông nghiệp được hình thành từ Trung
ương xuống địa phương.

1


Để công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP đạt được hiệu
quả cao, phát huy được vai trò trong hoạt động QLNN về ATTP, cần nghiên cứu
những quy định của pháp luật về ATTP, về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực ATTP từ thực tiễn tỉnh Hà Nam, chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế
của những quy định đó và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật

về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP hiện nay.
Với những lý do trên, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” là việc
làm vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cao trong hoạt động QLNN về
ATTP nói chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP
đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau. Có thể
thấy điều này qua một số đề tài, bài viết có liên quan:
1. Luận văn thạc sỹ “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an toàn thực phẩm” của tác giả Đinh Thị Quế bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học
Luật - Đại học Huế
Luận văn làm rõ những vấn đề pháp lý về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực ATTP, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành, đánh giá thực trạng và thực
tiễn áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP từ đó đề xuất
các giải pháp để hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.[19]
2. Luận văn thạc sỹ “Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực
phẩm trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Lê Thị Linh, bảo vệ năm 2016 tại Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn phân tích thực trạng thực hiện pháp luật VSATTP trên địa bàn Hà
Nội; phân tích các nguyên nhân gây mất an toàn thực phẩm. Tác giả cũng phân tích

2


những quy định của pháp luật về VSATTP trong Luật An toàn thực phẩm số
55/2010; Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi năm 2015 và Nghị định số 178/2013/NĐCP quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm. Từ đó tác giả đánh
giá thực trạng áp dụng pháp luật về VSATTP trên địa bàn Hà Nội thông qua việc
phân tích những thuận lợi, khó khăn và kết quả đạt được trong quá trình thực hiện

pháp luật VSATTP và tác giả đưa ra 7 nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực VSATTP.[13]
3. Luận văn “Thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở cấp phường
trên địa bàn thành phố Hà Nội”, của tác giả Trần Mai Vân, bảo vệ năm 2013, tại
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ của chính quyền
cấp phường trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm. Phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật Việt Nam về an toàn thực phẩm trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân; cụ
thể việc thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn
thành phố Hà Nội, đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp
luật về việc thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm.[20]
4. Bài viết “Thực trạng công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
trên địa bàn tỉnh Nghệ An”, Tạp chí KH-CN Nghệ An, số 11/2017
Bài viết đã nêu lên thực trạng công tác quản lý nhà nước về ATTP trên các
lĩnh vực: Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện; Nguồn nhân lực, cơ sở vật
chất, trang thiết bị, phương tiện sử dụng phục vụ quản lý nhà nước về ATTP; Công
tác tuyên truyền cho người dân thực hiện tốt công tác vệ sinh ATTP. Trên cơ sở
thực trạng và những khó khăn ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà nước, từ đó đã
đưa ra các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về ATTP trên địa bàn tỉnh Nghệ An.[30]
5. Bài viết “Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm
giai đoạn 2011-2016” của tác giả Đoàn Hải Yến đăng trên website của Trung tâm

3


Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguồn:
/>Tác giả bài viết đã nêu rõ những kết quả đạt được trong công tác xử lý an
toàn thực phẩm trong năm 2016 trên cả nước (có so sánh số liệu với các năm 2013,
2014, 2015). Bài viết cũng đã chỉ ra những tồn tại, yếu kém trong việc ban hành các

văn bản về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; những chính sách hỗ trợ phát triển sản
xuất, đảm bảo chất lượng ATTP chưa thực sự hiệu quả; chưa xử lý dứt điểm một số
tồn tại như chất cấm trong chăn nuôi, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất, kháng
sinh trong thịt, rau củ quả; công tác xử lý hình sự các hành vi phạm tội chưa đạt
hiệu quả mong muốn; tỷ lệ xử phạt vi phạm hành chính còn thấp, chưa có nguồn lực
tương thích để thực hiện quản lí an toàn thực phẩm…Đồng thời phân tích các
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những tồn tại, yếu kém nói trên.[32]
6. Bài viết “Băn khoăn xử lý hình sự vi phạm về an toàn thực phẩm” của tác
giả

Nguyễn

Lê,

đăng

trên

Thời

báo

kinh

tế

online.

Nguồn:


/>Bài viết đã trình bày ý kiến của các đại biểu quốc hội thảo luận về nội dung
của Điều 317 quy định về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Quy định tại
điểm a và điểm b khoản 1 Điều 317 vẫn còn ý kiến trái chiều. Có ý kiến đề nghị bổ
sung định lượng vào các quy định này nhằm tránh việc xử lí hình sự quá rộng. Quan
điểm khác lại đề nghị giữ nguyên quy định như vậy để xử lí nghiêm các trường hợp
vi phạm. Theo Ủy ban Tư pháp, Theo Uỷ ban Tư pháp, điểm a, b và c khoản 1 điều
317 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định cấu thành hình thức, chỉ cần có hành vi,
chưa cần có hậu quả trên thực tế đã xử lý hình sự là quá nặng.[29]
7. Bài viết “Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong năm BLHS
2015 và dự kiến sửa đổi, bổ sung năm 2017” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, đăng
trên Tạp chí Kiểm sát online.

4


Tác giả bài viết đã khái quát tình hình kiểm tra, thanh tra, xử lí vi phạm hành
chính về an toàn thực phẩm cũng như tình hình xử lí hình sự về hành vi này trên cơ
sở Báo cáo số 211/BC-CP ngày 18/5/2017 của Chính phủ về tình hình thực thi
chính sách, pháp luật về quản lí an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016. Bài viết
cũng phân tích những hạn chế, bất cập của quy định tại Điều 244 BLHS 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009); đánh giá quy định của Điều 317 BLHS 2015 (dự kiến sửa
đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Từ đó, tác
giả chỉ ra những điểm mới trong quy định của Điều 317 BLHS 2015 so với những
quy định của Điều 244 BLHS 1999.[25]
Qua khảo sát tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác giả nhận
thấy các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều ít nhiều đề cập đến việc bảo đảm
an toàn thực phẩm, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Tuy
nhiên, do thời điểm, cách thức tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chưa có
công trình nghiên cứu, bài viết nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ
thống việc thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm nói chung và thực tiễn thi hành tại tỉnh Hà Nam nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực ATTP;
- Đánh giá và phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam thời
gian qua;
- Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực ATTP.

5


Thực tiễn nghiên cứu của đề tài được giới hạn cụ thể là tình hình áp dụng
những quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP trên
địa bàn tỉnh Hà Nam trong 05 năm gần đây (2013 - 2018)
4. Mục đích và đối tƣợng của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu là nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý
trong xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm gắn với thực tiễn tại tỉnh
Hà Nam, cụ thể:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực ATTP;
- Phân tích và làm rõ một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP từ đó chỉ ra những ưu điểm và hạn
chế của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP;
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam; luận
văn đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành trong
lĩnh vực ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.

Đối tượng của việc nghiên cứu là những văn bản pháp luật của Việt Nam quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử; tư duy, quan điểm, đường lối về phát triển kinh tế nhiều thành phần, xây
dựng nhà nước pháp quyền trong cơ chế thị trường của Đảng và Nhà nước ta. Đây
là những phương pháp luận khoa học được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận
văn để đánh giá khách quan hệ thống pháp luật thực định về ATTP và thực tiễn
ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
theo tư tưởng và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phương hướng xây
dựng và quản lý vấn đề ATTP; đồng thời luận văn cũng sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể khác như tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, chứng minh,
diễn giải, khái quát hóa…
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện một số vấn đề lý luận và pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật và
trong công tác thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam thời gian qua, từ đó đề ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật và công tác thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
ATTP trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Hà Nam thời
gian qua
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa
bàn tỉnh Hà Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN
THỰC PHẨM
1.1. Thực phẩm và vấn đề an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm thực phẩm
Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt thì thực phẩm là một dạng thức ăn nói
chung, thức ăn như thịt, cá, trứng, rau…ăn kèm với những thức ăn cơ bản là lương
thực (gạo, mì…). Thực phẩm hầu như xuất hiện xuyên suốt trong bữa ăn hàng ngày
của con người, cung cấp năng lượng cho con người duy trì sự sống.
Với một cách tiếp cận rộng hơn, theo từ điển Tiếng Việt thì thực phẩm hay
còn được gọi là thức ăn được xem là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm chủ yếu các
chất: chất bột (cacbohydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein), hoặc nước, mà
con người hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ bản là thu nạp

các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích cơ bản. Các thực
phẩm có nguồn gốc từ thực vật, động vật, vi sinh vật hay các sản phẩm chế biến từ
phương pháp lên men như rượu, bia. Mặc dù trong lịch sử thì nhiều nền văn minh
đã tìm kiếm thực phẩm thông qua việc săn bắn và hái lượm, nhưng ngày nay chủ
yếu là thông qua gieo trồng, chăn nuôi, đánh bắt và các phương pháp khác.
Dưới góc độ pháp luật, Thực phẩm được hiểu “là sản phẩm mà con người
ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm
không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm” - Điều 3,
Luật An toàn thực phẩm năm 2010. Định nghĩa ngắn gọn nêu trên của Luật An toàn
thực phẩm năm 2010 giúp chúng ta hình dung về thực phẩm một cách khá rõ ràng
và toàn diện. Theo đó, thực phẩm không chỉ ở dạng tươi sống mà còn ở dạng đã qua
sơ chế, chế biến, bảo quản. Với cách định nghĩa này, các cơ quan chức năng sẽ dễ

8


dàng hơn trong việc xác định trách nhiệm đối với các chủ thể có hành vi vi phạm về
ATTP.
1.1.2. Khái niệm an toàn thực phẩm
Hiện nay có hai khái niệm đang được sử dụng rộng rãi: VSTP (food hygiene)
và ATTP (food safety).
Vệ sinh thực phẩm:
Vệ sinh, tùy vào mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khác nhau mà “vệ sinh” được định
nghĩa theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, một cách chung nhất có thể hiểu đơn
giản “vệ sinh” là “làm sạch”.
Ví dụ: “vệ sinh đường phố” được hiểu là thực hiện một số biện pháp để đạt
được mục đích là làm sạch sẽ đường phố; “vệ sinh môi trường” là làm sạch môi
trường, làm cho môi trường không bị ô nhiễm, nhiễm bẩn,…
VSTP là một khái niệm khoa học để nói thực phẩm không chứa vi sinh vật
gây bệnh và không chứa độc tố. Khái niệm VSTP còn bao gồm khâu tổ chức vệ

sinh trong chế biến bảo quản thực phẩm. [18]
An toàn thực phẩm:
Từ góc độ khoa học, ATTP được hiểu là khả năng không gây ngộ độc của
thực phẩm đối với con người. [18]
Trên phương diện pháp lý, ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây
hại đến sức khỏe, tính mạng con người [14]
Như vậy, so với “vệ sinh thực phẩm”, “an toàn thực phẩm” là khái niệm có
nội dung rộng hơn do yếu tố gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người có trong
thực phẩm không chỉ giới hạn ở vi sinh vật.
Từ khái niêm nêu trên, có thêm một khái niệm thứ ba được dùng khá phổ
biến trong đời sống hàng ngày, trong sách báo pháp lý và trên truyền thông VSATTP. Theo đó, hiểu theo nghĩa rộng, VSATTP là toàn bộ những vấn đề cần xử

9


lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức
khỏe của người tiêu dùng - Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
1.1.3. Tầm quan trọng của vấn đề an toàn thực phẩm
Như đã đề cập ở phần mở đầu, thực phẩm và sử dụng thực phẩm là nhu cầu
thiết yếu của mọi người, mọi nhà, mọi lúc, mọi nơi, mọi thời đại. ATTP là yếu tố
cần thiết để bảo vệ sức khỏe người dân, vì thực phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe và tính mạng của mỗi người, tác động đến sự phát triển kinh tế, thương
mại, du lịch và an sinh xã hội, ảnh hưởng đến tuổi thọ, đến chất lượng cuộc sống và
về lâu dài còn ảnh hưởng đến sự phát triển nòi giống dân tộc.
Tầm quan trọng của ATTP đối với sức khỏe, bệnh tật: mọi người trong
chúng ta đều nhận thấy rằng ăn uống là một nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống, con
người muốn sinh tồn và khỏe mạnh đều phải có một cơ chế ăn uống hợp lý. Trước
mắt, thực phẩm là một nguồn cung cấp chất dịnh dưỡng cho sự phát triển của cơ
thể, bảo đảm sức khỏe cho con người, đảm bảo duy trì sự sống của xã hội loài
người. Tuy nhiên, chúng tạ cũng phải hết sức thận trọng bởi lẽ thực phẩm cũng

đồng thời có thể là nguồn gây bệnh, nghiêm trọng hơn nữa nó có thể tước đi mạng
sống của chúng ta nếu nó không được đảm bảo vệ sinh, an toàn. Như vậy, nếu đã
không đảm bảo được an toàn đến mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng con
người thì giá trị dinh dưỡng từ thực phẩm này sẽ trở về con số “0” và thậm chí quay
ngược lại làm hại đến sức khỏe chúng ta. Về lâu dài thực phẩm không những có tác
động thường xuyên đến sức khỏe mỗi con người mà còn ảnh hưởng đến nòi giống
của dân tộc. Hiện nay, tình hình thực phẩm không đảm bảo an toàn xuất hiện tràn
lan làm cho người sử dụng những loại thực phẩm này phải gánh chịu những hậu quả
khó lường. Từ những biểu hiện ngộ độc cấp tính với nhiều triệu chứng khác nhau
tùy vào mức độ không đảm bảo an toàn của thực phẩm. Nguy hiểm hơn nữa khi
chúng ta không phát hiện được và sử dụng nó lâu dài sẽ gây nên hiện tượng tích lũy
dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể, lúc này sức khỏe con người sẽ
phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng, những căn bệnh khó chữa được phát

10


hiện hoặc nguyên nhân này có thể gây ra các dị tật, dị dạng cho thế hệ mai sau nếu
không được khắc phục kịp thời. Mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe đó phụ thuộc vào
các tác nhân gây bệnh.
ATTP tác động đến kinh tế xã hội: từ những tác nhân ảnh hưởng quan trọng
đến sức khỏe, đời sống con người, ATTP tác động lớn đến kinh tế - xã hội của dân
tộc. Người ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm là một
sản phẩm mang tính chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã
hội rất quan trọng. Những thiệt hại khi không đảm bảo an toàn thực phẩm gây nên
rất nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mãn tính đến tử vong. Thiệt hại chính
do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám chữa bệnh, chi phí
phục hồi sức khỏe, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm chữa bệnh hoặc chăm sóc
người thân,…Đây là những thiệt hại mà cá nhân phải gánh chịu khi vấn đề ATTP
tác động đến. Đối với các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải

thu hồi, lưu giữ, hủy bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận,…một khi sản
phẩm là thực phẩm làm ra không đảm bảo an toàn, ảnh hưởng đến sức khỏe người
tiêu dùng. Hơn thế nữa, thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin với người tiêu dùng ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh sau này của nhà sản xuất. việc này kéo theo các hệ
lụy khó lường của nền kinh tế - xã hội nước nhà.
Do vậy, vấn đề đảm bảo ATTP, phòng tránh các bệnh gây ra từ thực phẩm có
ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi
trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu chung
của công tác đảm bảo ATTP là “kiểm soát an toàn thực phẩm trong toàn bộ chuỗi
cung cấp thực phẩm được thiết lập, phát huy hiệu quả, chủ động trong việc bảo vệ
sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng”.[10]
1.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là phải có vi phạm hành chính.
Hay nói cách khác, xác định đúng vi phạm hành chính thì mới có có thể thực hiện

11


việc xử phạt vi phạm hành chính một cách chính xác. Do vậy, việc nghiên cứu khái
niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa quan trọng, chỉ khi định nghĩa đúng về vi
phạm hành chính thì mới có thể xác định được từng vi phạm hành chính cụ thể
trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, để từ đó có thể áp dụng chính xác chế tài xử
phạt nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
Hiện nay, khái niệm “vi phạm hành chính” được thể hiện rõ tại Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá
nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính”. [15]

Vi phạm hành chính về ATTP là một bộ phận của vi phạm hành chính được
quy định cụ thể tại Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm. Hiện nay, chưa có định
nghĩa chính thức nào về vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP. Nhưng từ khái
niệm vi phạm hành chính nói chung và khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh
vực y tế nói riêng có thể nêu ra một khái niệm về loại vi phạm hành chính về ATTP
như sau: “Vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP là những hành vi có lỗi do cá
nhân, tổ chức thực hiện vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực ATTP mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính”
Vi phạm các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
được quy định cụ thể tại Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP (sau đây gọi là Nghị định số
178/2013/NĐ-CP), Nghị định số 115/2018/NĐ-CP (thay thế Nghị định số
178/2013/NĐ-CP) và một số Nghị định khác có liên quan: Nghị định số
185/2013/NĐ-CP, Nghị định số 158/2013/NĐ-CP, Nghị định số 80/2013/NĐ-CP,
Nghị định số 119/2017/NĐ-CP...

12


1.2.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính và các yếu tố cấu thành vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
1.2.2.1. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
Thứ nhất, có tính nguy hiểm cho xã hội: gây ra hoặc đe dọa gây ra những
thiệt hại về sức khỏe cho con người. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP hiện
ngày càng phổ biến, với nhiều mức độ hậu quả khác nhau, gây nên tâm lý bất an
cho người tiêu dùng, là một trong những nguyên nhân đáng nói làm gia tăng bệnh
tật, đặc biệt là các bệnh hiểm nghèo trong nhân dân, đẩy các bệnh viện tuyến trên
vào tình trạng quá tải, đặt xã hội trước một trạng thái mất an toàn…Tuy nhiên, mức

độ nguy hiểm cho xã hội của các vi phạm hành chính trong lĩnh vực này thấp hơn
tội phạm, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, nghĩa là những thiệt hại
mà chúng gây ra hoặc đe dọa gây ra cho xã hội là chưa đáng kể.
Thứ hai, là những hành vi (bao gồm cả hành động và không hành động) trái
với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên một lĩnh vực liên quan mật
thiết đến sức khỏe, tính mạng của con người - an toàn thực phẩm - đồng thời còn
trái với đạo đức xã hội, gây bất bình trong dư luận.
Thứ ba, là hành vi có lỗi. Rất nhiều trường hợp vi phạm hành chính về ATTP
với lỗi cố ý gián tiếp (thể hiện sự vô cảm, sự bất lương, hám lợi của không ít các
chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm trong điều kiện nền kinh tế thị
trường).
Thứ tư, được thực hiện bởi các chủ thể có năng lực chịu trách nhiệm hành
chính, bao gồm cả các cá nhân và tổ chức. Chủ thể rất đa dạng: từ những người bán
hàng rong, những người kinh doanh thức ăn đường phố, hộ gia đình đến nhà máy,
nhà hàng, doanh nghiệp…sự đông đảo của các chủ thể vi phạm hành chính trong
lĩnh vực ATTP cho thấy một sự thực: bất kỳ người nào đạt đến độ tuổi luật định và
có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi (năng lực hành vi) cũng có thể trở thành
đối tượng vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP.

13


1.2.2.2. Các yếu tố cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
toàn thực phẩm
Cấu thành pháp lý của VPHC nói chung và VPHC trong lĩnh vực ATTP nói
riêng bao gồm 4 yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Trong
khuôn khổ của luận văn, tôi chỉ tập trung làm rõ những nét đặc trưng cấu thành
VPHC trong lĩnh vực ATTP.
Thứ nhất, mặt khách quan
Mặt khách quan của một VPHC nói chung thường bao gồm các yếu tố: hành

vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi, mối quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm,
công cụ, phương tiện vi phạm… trong đó, hành vi trái pháp luật là dấu hiệu đầu
tiên, không thể thiếu (dấu hiệu bắt buộc). Những yếu tố còn lại, tùy thuộc vào từng
vi phạm cụ thể mà có thể bắt buộc phải có hoặc không.
Hành vi trái pháp luật trong mặt khách quan của các vi phạm hành chính
trong lĩnh vực ATTP được thể hiện dưới 2 dạng: hành động và không hành động.
Điều đáng nói là tỷ lệ hành động và không hành động trái pháp luật khá ngang
nhau.
Hành động trái pháp luật: sử dụng nguyên liệu không bảo đảm an toàn thực
phẩm, không rõ nguồn gốc, xuất xứ hoặc không có giấy chứng nhận xuất xứ do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp để sản xuất, chế biến thực phẩm; sử dụng phụ gia
thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm thuộc danh mục được phép sử dụng
nhưng vượt quá giới hạn cho phép hoặc đã quá thời hạn sử dụng hoặc không có thời
hạn sử dụng, nằm ngoài danh mục cho phép sử dụng của Bộ Y tế, không rõ nguồn
gốc xuất xứ, có chứa chất độc hại… để sản xuất, chế biến thực phẩm; sử dụng vật
liệu bao gói, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm không đáp ứng quy chuẩn kỹ
thuật, quy định an toàn thực phẩm, có chứa chất độc hại hoặc nhiễm chất độc hại để
sản xuất, kinh doanh thực phẩm; sản xuất, kinh doanh thực phẩm, phụ gia thực
phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng,
thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe… không đảm bảo chất lượng, an

14


toàn.[9]; Sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa có chất lượng không phù
hợp với tiêu chuẩn đã công bố áp dụng hoặc không phù hợp với quy định của cơ
quan có thẩm quyền; không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung bắt buộc trên
nhãn hàng hóa hoặc nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn theo tính chất hàng
hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.[6]
Không hành động đúng pháp luật: một số cơ sở có địa điểm sản xuất, kinh

doanh không đáp ứng các yêu cầu về địa điểm môi trường phải xa nguồn ô nhiễm,
chất độc hại, không bị tác động bởi các tác nhân gây ô nhiễm khác từ môi trường
xung quanh làm ảnh hưởng đến chất lượng an toàn thực phẩm của sản phẩm; không
có đủ diện tích để bố trí dây chuyền sản xuất phù hợp với công suất thiết kế của cơ
sở, đảm bảo các công đoạn sản xuất đáp ứng yêu cầu công nghệ và các biện pháp vệ
sinh công nghiệp; không thiết kế nhà xưởng theo nguyên tắc một chiều từ nguyên
liệu đầu vào đến sản phẩm cuối cùng; không bố trí cách biệt giữa các khu vực: Kho
nguyên liệu; kho vật tư, bao bì; kho thành phẩm; khu vực sản xuất; kho hóa chất;
khu tập kết chất thải rắn và hệ thống thu gom xử lý nước thải; các công trình phụ trợ
để tránh lây nhiễm chéo; không có đủ trang thiết bị phù hợp để xử lý nguyên liệu,
chế biến, đóng gói, bảo quản và vận chuyển các loại thực phẩm khác nhau; không
có đủ trang thiết bị, dụng cụ, phương tiện rửa và khử trùng, nước sát trùng; không
thực hiện duy trì các điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm và thực hiện lưu giữ hồ
sơ về nguồn gốc, xuất xứ nguyên liệu thực phẩm và các tài liệu khác về toàn bộ quá
trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm để phục vụ truy xuất nguồn gốc thực phẩm;
không tập huấn xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm và khám sức khỏe định kỳ
cho người tham gia sản xuất thực phẩm theo quy định; không thiết lập và áp dụng
hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP), thực hành vệ sinh tốt (GHP, SSOP), thực
hành nông nghiệp tốt (GAP, VietGAP), phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới
hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác đối với cơ
sở sản xuất, kinh doanh thuộc diện bắt buộc phải áp dụng theo quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền; Không tuân thủ các quy định về vận chuyển, bảo quản
thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu

15


bao gói, chứa đựng thực phẩm; sản xuất, kinh doanh, bảo quản thực phẩm, kinh
doanh dịch vụ ăn uống thuộc đối tượng phải có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện
ATTP mà không có Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo

quy định…[9]; Kinh doanh hàng hóa quá hạn sử dụng ghi trên nhãn hàng hóa hoặc
bao bì hàng hóa; Kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ.[5]
- Hậu quả của hành vi: về cơ bản, các vi phạm hành chính trong lĩnh vực
ATTP có cấu thành hình thức nên không bắt buộc phải có dấu hiệu hậu quả.
- Ngoài ra còn có những yếu tố khác được coi là dấu hiệu bắt buộc trong
không ít cấu thành vi phạm hành chính về ATTP: địa điểm (nơi sản xuất, chế biến,
kinh doanh, bảo quản không cách biệt với nguồn ô nhiễm bụi, hóa chất độc hại và
các yếu tố gây hại khác); thực hành của người trực trực tiếp tiếp xúc với thực phẩm
(không sử dụng găng tay khi tiếp xúc với thực phẩm chín, thức ăn ngay); công cụ,
phương tiện vi phạm (sử dụng dụng cụ chế biến, ăn uống, vật liệu bao gói, chứa
đựng tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm không bảo đảm ATTP; không có bàn, tủ, giá,
kệ, thiết bị, dụng cụ đáp ứng theo quy định của pháp luật để bày bán thức ăn; thiết
bị, phương tiện vận chuyển, bảo quản suất ăn sẵn, thực phẩm dùng ngay không đảm
bảo vệ sinh; gây ô nhiễm đối với thực phẩm; sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ
trợ chế biến thực phẩm thuộc danh mục được phép sử dụng theo quy định nhưng
vượt quá giới hạn cho phép).
* Thứ hai, mặt chủ quan
- Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có trong cấu thành của tất cả các vi phạm
hành chính về ATTP, các hình thức lỗi:bao gồm cả lỗi cố ý và vô ý. Rất nhiều
VPHC trong lĩnh vực này được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý vì cẩu
thả.
- Động cơ và mục đích: không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của
tất cả các vi phạm.
* Thứ ba, chủ thể

16


Khoản 10 Điều 2 và khoản 1 Điều 5 Luật XLVPHC 2012 quy định, chủ thể
thực hiện hành vi VPHC là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành

chính theo quy định của pháp luật hành chính. Đối với chủ thể là cá nhân phải đáp
ứng yêu cầu về nhận thức và độ tuổi theo quy định của pháp luật. Đối với chủ thể là
tổ chức phải có tư cách pháp nhân hoặc được pháp luật thừa nhận, tổ chức nước
ngoài cũng trở thành đối tượng bị xử phạt VPHC ngoại trừ trường hợp được miễn
trừ ngoại giao. Các chủ thể VPHC trong lĩnh vực ATTP là tổ chức hoặc cá nhân
thực hiện các hành vi vi phạm ảnh hưởng trực tiếp hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến
sức khỏe, tính mạng con người.
Chủ thể là cá nhân, gồm:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính
về mọi vi phạm hành chính.
- Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành
chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức
phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan,
đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang
cờ quốc tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Chủ thể là tổ chức, gồm: Tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của
Luật Doanh nghiệp gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị phụ thuộc doanh nghiệp (chi nhánh,
văn phòng đại diện); tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của Luật Hợp tác

17



×