Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

GIÁO TRÌNH LỊCH sử mỹ THUẬT THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.89 MB, 188 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI

HÀ NỘI 2018


VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Chủ biên PGS.TS Hoàng Minh Phúc

GIÁO TRÌNH

LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI

2


HÀ NỘI 2018

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử mỹ thuật là một bộ môn khoa học, thuộc lĩnh vực lịch sử. Trong
quá trình phát triển của văn minh nhân loại lịch sử nghệ thuật dần dần được hình
thành và chưa phân biệt với các bộ môn lịch sử khác. Đến thời kỳ Phục hưng,
khi khoa học, ánh sáng, giải phẫu học và nhiều phát minh khác ra đời, ranh giới
giữa các lĩnh vực mới được định hình trong đó có nghệ thuật. Lịch sử mỹ thuật
thế giới là một môn học thuộc lịch sử nghệ thuật, nghiên cứu: tiểu sử tác giả, nội
dung tác phẩm, phong cách sáng tác, hoạt động nghệ thuật của các nghệ sỹ…
trong bối cảnh lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa ở từng giai đoạn trên nhiều


phương diện và khía cạnh khác nhau trên cơ sở liên ngành với các ngành khoa
học.
Trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành mỹ thuật, lịch sử mỹ
thuật thế giới là một trong những môn học cần thiết giúp sinh viên nắm bắt được
diễn trình phát triển của mỹ thuật. Trên cơ sở đó, nội dung giáo trình Lịch sử mỹ
thuật thế giới được trình bày gồm những chương mục sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung về Lịch sử mỹ thuật thế giới
Chương 2: Mỹ thuật nguyên thuỷ
Chương 3: Mỹ thuật cổ đại
Chương 4: Mỹ thuật Trung cổ
Chương 5: Mỹ thuật Phục hưng
Chương 6: Mỹ thuật thế kỷ XVII, XVIII
Chương 7: Mỹ thuật thế kỷ XIX
Chương 8: Mỹ thuật thế kỷ XX
Mặc dù đã rất nỗ lực trong quá trình biên soạn, song tài liệu khó tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những góp ý của bạn đọc để tài liệu
ngày càng hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
3


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Mục lục

1

Danh mục chữ viết tắt


3

Chương 1: Những vấn đề chung về lịch sử mỹ thuật thế giới

4

Chương 2: Mỹ thuật nguyên thủy

10

1. Nguồn gốc của nghệ thuật tạo hình

10

2. Đặc điểm nghệ thuật thời kỳ nguyên thủy

11

3. Những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu

12

Chương 3: Mỹ thuật cổ đại

23

1. Nghệ thuật Ai Cập cổ đại

23


2. Nghệ thuật Hy Lạp cổ đại

40

3. Nghệ thuật La Mã cổ đại

59

Chương 4: Mỹ thuật Trung cổ

69

1. Nghệ thuật Byzantin

69

2. Nghệ thuật Roman

78

3. Nghệ thuật Gothique

88

Chương 5: Mỹ thuật Phục Hưng

98

Chương 6: Mỹ thuật thế kỷ XVII, XVIII


121

1. Nghệ thuật Baroque

121

2. Nghệ thuật Rococo

129

Chương 7: Mỹ thuật thế kỷ XIX

134

1. Chủ nghĩa Lãng mạn

134

2. Chủ nghĩa Hiện thực

140

3. Chủ nghĩa Ấn tượng

145

4. Chủ nghĩa Tân Ấn tượng

152


5. Chủ nghĩa Hậu Ấn tượng

154
4


Chương 8: Mỹ thuật thế kỷ XX

163

1. Chủ nghĩa dã thú

163

2. Chủ nghĩa lập thể

169

3. Nghệ thuật trừu tượng

176

Tài liệu tham khảo

180

5



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Nxb

Nhà xuất bản

SCN

Sau công nguyên

TCN

Trước công nguyên

Tp

Thành phố

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT THẾ GIỚI
Mục tiêu bài học
- Giúp sinh viên nắm được những khái niệm cơ bản về mỹ thuật và lịch sử
mỹ thuật
- Phương pháp nghiên cứu một tác phẩm mỹ thuật
- Các chủ đề sáng tác cơ bản và chất liệu
1. Khái niệm mỹ thuật và lịch sử mỹ thuật
1.1. Khái niệm về mỹ thuật

Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông định nghĩa mỹ thuật là:
Từ dùng để chỉ các loại nghệ thuật tạo hình chủ yếu là hội họa, đồ họa,
điêu khắc, kiến trúc. Nói cách khác, từ mỹ thuật (đẹp + nghệ thuật) chỉ cái
đẹp do con người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt ta nhìn thấy được, vì lý
do này người ta còn dùng từ nghệ thuật thị giác (art visuel) để nói về mỹ
thuật [16, tr.106].
Trong một số công trình về lịch sử mỹ thuật đã xuất bản, các tác giả thường sử
dụng khái niệm lịch sử nghệ thuật thay vì lịch sử mỹ thuật. Chính vì vậy, chúng
ta cũng có cụm từ nghệ thuật tạo hình. Vậy dùng khái niệm nào cho môn học
này?1
Trong công trình Các thể loại và loại hình mỹ thuật của nhà nghiên cứu Nguyễn
Trân viết:
Nghệ thuật tạo hình là một loại hình nghệ thuật có quan hệ đến sự thụ
cảm bằng thị giác và sự tạo thành hình tượng lấy từ thế giới bên ngoài đưa
lên mặt phẳng hoặc trong không gian nào đấy, mặt phẳng đó có thể là
giấy, bìa, có thể là bản gỗ, tường, trần nhà… Không gian đó có khi ở
ngoài trời, có khi ở trong nhà… Liệt vào nghệ thuật tạo hình còn có cả
kiến trúc và nghệ thuật ứng dụng (trước đây ta thường gọi đó là mỹ thuật
đời sống). Tuy nhiên, kiến trúc và một bộ phận lớn của nghệ thuật ứng
dụng (như bàn ghế, áo quần, ấm chén…) có điểm khác với hội họa, đồ
họa và điêu khắc ở chỗ, chúng luôn cần được tái tạo một cách trực tiếp và
chặt chẽ với thực tế bên ngoài [24, tr.5].
Tiếng Pháp nghệ thuật tạo hình được gọi là Plastic Art, nhưng mỹ thuật là
Beaux Arts (tiếng Anh là Fine Art). Tuy nhiên theo thời gian, khi các loại hình
mỹ thuật phát triển, khái niệm mỹ thuật cũng vì thế mở rộng và chuẩn xác ngữ
nghĩa cho phù hợp với chức năng của nghệ thuật. Ví dụ: Nghệ thuật tạo hình
được gọi là Plastic Art, các lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng được gọi chung là
Applied Art bao gồm: nghệ thuật trang trí là Decorative Art, nghệ thuật thiết kế
Để thống nhất về mặt thuật ngữ và cập nhật tính hiện đại của lịch sử nghệ thuật, trong nội dung Giáo trình tác
giả sử dụng cụm từ mỹ thuật và Lịch sử mỹ thuật cho sát nghĩa với thời điểm hiện tại.

1

7


là Design Art, nghệ thuật thủ công là Craft Art… Hoặc mỹ thuật và kiến trúc
không gọi là nghệ thuật tạo hình nữa mà gọi là Nghệ thuật không gian
(Temporal Arts) để phân biệt với Nghệ thuật thời gian bao gồm văn, thơ, âm
nhạc (Temporal Arts) và Nghệ thuật sân khấu điện ảnh là nghệ thuật không gian
- thời gian (Spacial Temporal Arts)… Những khái niệm này, ở thời kỳ Phục
hưng và các từ điển mỹ thuật thế kỷ XIX trở về trước chưa có. Ngay cả, khái
niệm Nghệ thuật tổng hợp bao gồm nghệ thuật thính giác và thị giác cũng mới
được bổ sung trong thế kỷ XX, XXI.
Do vậy, khái niệm nghệ thuật tạo hình bao gồm cả hội họa, đồ họa, điêu
khắc, kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng hiện nay được thay thế bằng khái niệm mỹ
thuật bao gồm hội họa, đồ họa, điêu khắc, các loại hình nghệ thuật mới (như
instalation, performance, video art…) và được gọi chung là nghệ thuật thị giác
hay Visual Art. Nghệ thuật kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng do sự phát triển đặc
thù đã tách thành những ngành độc lập.
1.2.

Khái niệm Lịch sử mỹ thuật

Lịch sử mỹ thuật là môn học nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của
các loại hình nghệ thuật theo tiến trình thời gian. Tuy nhiên, như khái niệm về
mỹ thuật, các nhà nghiên cứu đi trước do yếu tố lịch sử phần lớn sử dụng khái
niệm lịch sử nghệ thuật. Do vậy, các khái niệm lịch sử nghệ thuật vẫn được dẫn
dắt như là một phần không thể thiếu của lịch sử.
Giáo trình Lịch sử nghệ thuật đã đưa ra khái niệm về Lịch sử nghệ thuật
như sau:

Lịch sử nghệ thuật là lĩnh vực nghiên cứu nghệ thuật với các thành phần:
tác phẩm, hoạt động, nghệ sĩ trong bối cảnh lịch sử gắn với chúng. Các
nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật nhận xét giá trị, định vị tác phẩm, nghệ
sĩ, hoạt động nghệ thuật trong diễn biến văn hóa, xã hội, chính trị của mỗi
giai đoạn, thời kỳ. Bộ môn lịch sử nghệ thuật xem xét nghệ sĩ và tác phẩm
của họ trên nhiều khía cạnh khác nhau: theo biên niên sử với phong cách,
trường phái của từng thời đại và tiểu sử nghệ sĩ, theo chủ đề, theo sự liên
hệ với khảo cổ học [8, tr.11].
Việc nghiên cứu nghệ thuật như một môn lịch sử ra đời từ thế kỷ XVI khi
chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục hưng coi trọng các ý niệm chủ nghĩa cổ điển,
tính chất cổ, sự suy tàn… kết hợp với nghiên cứu tiểu sử tác giả, tác phẩm, sắp
xếp các nghệ sĩ tiền bối hay đương thời theo quan điểm lịch sử. Từ đó, mới có
các công trình nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật, về cuộc đời các họa sĩ, về giáo
trình hội họa hay điêu khắc…
Trên thực tế, khái niệm về lịch sử mỹ thuật có nhiều quan điểm và nhiều
quan điểm trái ngược. Ví dụ:
- Học giả Winckelmann người Đức (1717-1768) quan niệm lịch sử nghệ thuật
như một khoa học đến từ khảo cổ học.
- Học giả Heghel người Đức, trước năm 1828 đã đặt ra hai câu hỏi cơ bản trong
tác phẩm mỹ học của mình: nghệ thuật tự giải phóng khỏi tư tưởng như thế nào?
Và làm sao nghệ thuật của các thời kỳ khác nhau trở thành một bộ phận của đời
8


sống tinh thần hiện tại? Trong khi đó, tinh thần mỗi thời đại phản ánh trong
phong cách, vậy mà nghệ thuật là một trong những yếu tố cấu thành của sự phát
triển của tinh thần.
- Năm 1827, K.F Rumohr - người sáng lập khoa nghiên cứu hiện đại các tư liệu
trong Lịch sử nghệ thuật đã phản đối những quan điểm trên của Winckelmann
và Heghel. Ông là người đầu tiên xây dựng và sắp xếp các tác phẩm tại Bảo tàng

Berlin theo các trường phái nghệ thuật, chú ý tới các kỹ thuật thể hiện tác phẩm
của các nghệ sĩ, tới những yêu cầu của ông chủ đối với các đơn đặt hàng với họa
sĩ… Ông quan điểm, tác phẩm nghệ thuật phải gắn với môi trường, chủng tộc và
phong tục….
Tính đến nay, khi các trường phái, trào lưu nghệ thuật không ngừng được
mở rộng và bộ sưu tập tác phẩm của các nghệ sĩ tại các bảo tàng quốc gia không
ngừng được tăng lên thì vai trò của lịch sử mỹ thuật vẫn tập trung nghiên cứu
những khía cạnh sau:
- Tác phẩm của họa sĩ
- Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ
- Bối cảnh lịch sử và môi trường mà nghệ sĩ sinh sống và sáng tác
Và các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật sẽ xem xét tiểu sử nghệ sĩ, tác
phẩm và hoạt động sáng tác của các nghệ sĩ dựa trên biên niên sử với phong
cách, trường phái của từng thời đại trên cơ sở liên ngành với các lĩnh vực khảo
cổ học, dân tộc học, văn hóa học…
2. Phương pháp học tập và nghiên cứu lịch sử mỹ thuật
2.1.

Phương pháp nghiên cứu một tác phẩm mỹ thuật

Để hiểu được một tác phẩm mỹ thuật, trước hết chúng ta phải xem xét
từng nội dung sau:
- Họa sĩ/Điêu khắc gia: là người sáng tác, tạo ra tác phẩm
- Tác phẩm: là thành quả sáng tạo của người họa sĩ nhờ vào các chất liệu, vật
liệu để làm nên những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ.
- Bối cảnh lịch sử: xã hội đương thời người họa sĩ sinh trưởng và hoạt động
nghề nghiệp. Đây chính là quá trình sáng tạo để tạo ra tác phẩm của người họa
sĩ.

2.2.


Quá trình sáng tạo
Họa sĩ
Điêu khắc gia
Nghiên cứu theo diễn trình lịch sử

Tác phẩm

Phương pháp sử dụng diễn trình lịch sử (biên niên sử) để nghiên cứu lịch
sử mỹ thuật là phương pháp phổ biến và dễ tiếp cận. Ưu việt của phương pháp
này ở chỗ người học dễ dàng định vị được tác phẩm nghệ thuật, nghệ sĩ trong
bối cảnh của thời đại. Nhưng nhược điểm là khó nhận biết, so sánh những đặc
điểm tương đồng hay dị biệt giữa những tác phẩm, tác giả từ những nền văn hóa
khác nhau. Trong trường hợp này, để tìm hiểu kỹ hơn, người học có thể sử dụng
9


các phương pháp khác như: nghiên cứu theo chủ đề sáng tác, nghiên cứu theo
chất liệu, nghiên cứu tiểu sử tác giả…
Mỗi một giai đoạn lịch sử có những biến thiên khác nhau về chính trị, xã
hội, văn hóa, tư tưởng và những yếu tố này tác động đến quá trình nhận thức,
sáng tạo của người nghệ sĩ, từ đó mỗi tác phẩm sẽ có những nội dung khác nhau.
Mỗi một trào lưu, một trường phái, một phong cách cũng dựa trên những đặc
điểm này mà hình thành. Vì vậy, để hiểu rõ về một nghệ sĩ, một tác phẩm và quá
trình hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ, người học cần xem xét đặt đối tượng
nghiên cứu trong một bối cảnh xã hội và lịch sử đương thời.
2.3.

Nghiên cứu theo chủ đề sáng tác


Đề nghiên cứu lịch sử mỹ thuật, ngoài các tiếp cận thông thường theo trình tự
thời gian, chúng ta có thể xem xét tác phẩm nghệ thuật từ chủ đề sáng tác của
người nghệ sĩ. Những chủ đề chính được đề cập đến trong các tác phẩm như sau:
- Chân dung và thân thể con người
- Tĩnh vật
- Phong cảnh
- Đời sống đô thị và nông thôn
- Động vật
- Lịch sử và tôn giáo
- Thần thoại, tưởng tượng và phúng dụ
- Trừu tượng
2.4.

Nghiên cứu theo chất liệu
Các chất liệu hội họa

- Sơn mài
- Sơn dầu
- Lụa
- Màu nước
- Tempera
- Bột màu….
Các chất liệu đồ họa
- Khắc gỗ
10


- Khắc cao su
- Khắc thạch cao
- Khắc bìa

- In đá
- In lưới
- In đồng
- Kẽm
- Inox….
Các chất liệu điêu khắc
- Gỗ
- Đá
- Đồng
- Inox
- Sắt
- Composit
- Thạch cao
- Xi măng….
Câu hỏi ôn tập
1. Anh (chị) hãy nêu khái niệm về mỹ thuật?
2. Anh (chị) hãy nêu khái niệm về lịch sử mỹ thuật?
3. Nêu những phương pháp nghiên cứu và học tập lịch sử mỹ thuật?
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đỉnh và các tác giả (2006), Giáo trình Lịch
sử nghệ thuật, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
2. Đặng Thị Bích Ngân (Chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ
thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11


3. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà
Nội.
4. Xavier Barral I Altet (2003), Lịch sử nghệ thuật, Nxb Thế giới, Hà Nội.


12


Chương 2
MỸ THUẬT NGUYÊN THỦY

Mục tiêu bài học
- Giúp sinh viên nắm được nguồn gốc, sự ra đời nghệ thuật tạo hình
- Các giai đoạn phát triển của mỹ thuật ở thời kỳ nguyên thủy
- Đặc điểm của mỹ thuật thời nguyên thủy
- Con người thời kỳ nguyên thủy đã làm nghệ thuật ra sao
- Vai trò của mỹ thuật ở thời kỳ nguyên thủy
1. Nguồn gốc của nghệ thuật tạo hình
Con người xuất hiện cách đây khoảng hơn 3 triệu năm, từ chỗ phụ thuộc
hoàn toàn vào thiên nhiên, sống bầy đàn đến việc lấy thức ăn từ hái lượm, săn
bắn, lấy tán cây, hang động làm nơi trú ẩn. Dần dần, trong quá trình tiến hóa,
con người đã làm chủ thiên nhiên, phát minh ra lửa, khai thác tự nhiên và tạo
cho mình nơi cư trú cố định. Từ những cơ sở vật chất đơn sơ đó, con người tạo
ra những tác phẩm nghệ thuật. Bằng trí tưởng tượng người nghệ sỹ nguyên thủy
đã tạo ra những tác phẩm hội họa, điêu khắc đầu tiên cho nhân loại, lý do thúc
đẩy sự sáng tạo đó có nhiều giả thuyết cho rằng: có thể bắt nguồn từ tôn giáo, từ
nhu cầu trang trí hang động, hay nhu cầu muốn tái hiện những hình ảnh họ nhìn
thấy được trong cuộc sống hàng ngày như cảnh đi săn, hình ảnh bò rừng, voi,
hươu… lên vách hang động nơi họ sinh sống, trang trí những vật dụng hàng
ngày như đồ gốm, trang trí cơ thể, làm đẹp bản thân... Ở thời điểm đó, chưa xuất
hiện những khái niệm nghệ sĩ và người sáng tác nhưng dù từ lý do nào họ cũng
là những nhà thiết kế đồ trang sức xa xưa nhất, là những người thợ vẽ hoa văn
trang trí gốm tài ba nhất và đã để lại cho nhân loại rất nhiều bằng chứng về
những tác phẩm đầu tiên trong lịch sử nhân loại trên nhiều nơi trên thế giới.
Những tác phẩm được tìm thấy sớm nhất có niên đại khoảng 35.000 năm TCN

và tập trung nhiều ở châu Âu và châu Phi.

13


Ở thời kỳ nguyên thủy, các tác phẩm nghệ thuật từ tạo hình đến đồ gia
dụng đã có mặt trong đời sống của người nguyên thủy tự nhiên như cuộc sống
hàng ngày của họ. Những hình vẽ trên vách hang, trên lăng mộ, trên những
mảnh gốm, những tác phẩm điêu khắc bằng đất nung, bằng đá hình người, hình
thú… từ đơn giản đến phức tạp được lưu giữ cùng thời gian bên cạnh đời sống
của người nguyên thủy.
2. Đặc điểm nghệ thuật thời kỳ nguyên thủy
“Con người thấu hiểu hiện thực khách quan đến đâu, nghệ thuật cùng tiến
thêm đến đó. Tác phẩm nghệ thuật là biểu hiện sự nhận biết về thế giới xung
quanh mình của con người ở thời kỳ sơ khai nhất” [3, tr.10]. Những tác phẩm
thời kỳ này đã thể hiện trình độ sáng tạo, trí tưởng tượng, sự quan sát tinh tế và
đôi bàn tay khéo léo của người nguyên thủy. Từ những hình vẽ độc lập, đơn lẻ
đến các hình tượng theo một chủ đề nhất định cho thấy con người thời kỳ
nguyên thủy có khả năng diễn tả điêu luyện và sống động những động tác
chuyển động và cấu trúc của động vật như bò rừng, ngựa, hươu, sư tử… Những
hình vẽ được đơn giản hóa, sơ đồ hóa hoặc vẽ ước lệ nhưng không kém phần
sinh động, chính điều này đòi hỏi ở họ sự quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo
léo để thể hiện những hình vẽ này.
Theo cách phân kỳ của khảo cổ học, thời kỳ nguyên thủy được gọi là thời
kỳ đồ đá dựa vào công cụ và chất liệu đá mà người nguyên thủy sử dụng trong
giai đoạn này. Thời kỳ nguyên thủy, con người sống với nhau theo chế độ thị tộc
và chia thành từng nhóm nhỏ sống trong hang đá, hoặc trong lòng đất. Họ săn
bắn, đánh cá, hái lượm để lấy thức ăn, cùng làm chung, ăn chung và có quan hệ
họ hàng gần gũi. Những tác phẩm nghệ thuật thường tập trung thể hiện hình
dáng động vật (chủ yếu là hình vẽ trên các vách hang động) và con người (tập

trung vào các tác phẩm điêu khắc nhỏ được làm bằng đá vôi, ngà…). Do vậy,
nghệ thuật nguyên thủy còn được là nghệ thuật hang động. Hình tượng con
người trên vách hang động chỉ chiếm vị trí phụ bên cạnh hình tượng thú. Nhưng
trong điêu khắc lại phát hiện chủ yếu là tượng người, đặc biệt là tượng phụ nữ
14


(venus) được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới với các kích thước to nhỏ khác
nhau bằng các chất liệu như ngà, sừng, xương, đá hoặc đất nung. Nhìn chung,
mảng tượng này đều có chung một đặc điểm là tỷ lệ chung chưa cân đối, các chi
tiết ngực, bụng, mông được cường điệu, phần đầu, chân dung và tay chân diễn tả
đơn giản hoặc gần như không diễn tả.
Bên cạnh các hình vẽ trên hang động, các tác phẩm điêu khắc (tượng
tròn), còn có những tác phẩm được chạm khắc trang trí hoa văn trên dao găm,
trên sản phẩm gốm, đồ trang sức…. chỉ đơn thuần mang tính chất trang trí làm
đẹp cho sản phẩm nhưng đây là tiền thân của nghệ thuật trang trí sau này.
3. Những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu
3.1. Tác phẩm trong hang động
Hang động Altamira (Tây Ban Nha)
Hang Altamira được phát hiện bởi Marcelino Sanz de Santuola năm 1879, nằm
ở thị trấn Santilana del Mar vùng Catabria, cách thành phố Santander 30km và
được Unesco công nhận là Di sản thế giới năm 1985. Hang Altamira với chiều
dài gần 300m, cao 2m, hiện lưu giữ 150 hình vẽ tiêu biểu nhất minh chứng cho
nghệ thuật nguyên thủy thời kỳ đồ đá với niên đại từ 15.000-12.000 năm TCN.

Bò rừng, Hang Altamira, 15.000 năm TCN
Nguồn: 30.000 Years of Art

15



Đề tài trên vách hang động chủ yếu là động vật hoang dã như bò rừng, ngựa, sơn
dương, gấu, hươu nai, sư tử và những dấu vân tay vẽ bằng than màu vàng nâu.
Xung quanh những con vật còn có những đường nét gấp khúc thể hiện không
gian nơi con vật trú ngụ với đường nét mang tính tả thực, sống động, màu sắc
được làm từ khoáng chất khiến màu sắc không phai màu mà tươi sáng… Nhiều
học giả gọi Altamira là thánh đường đồ đá của châu Âu và cho rằng các hình vẽ
trong hang động Altamira ở Tây Ban Nha có nhiều nét tương đồng với những
bích họa trong một số hang động ở Pháp cùng thời kỳ.
Hang Lascaux (Dordogne, Pháp)
Hang Lascaux nằm ở phía Tây Nam nước Pháp được phát hiện năm 1940 có
niên đại 16.000 năm TCN. Nơi đây còn được gọi là Nhà nguyện Sistine thời tiền
sử là một minh chứng quan trọng cho lịch sử nghệ thuật thời tiền sử và được
Unesco xếp hạng Di sản thế giới năm 1979. Các tác phẩm khắc họa trên vách
hang chủ yếu là hình vẽ tả thực về các loài động vật trong cuộc sống như bò
rừng, ngựa, hươu, tê giác, gấu, nai…, những hình người nhảy múa (có thể trong
một lễ nghi nào đó) và một số hình khác trừu tượng khác. Các hình vẽ đề sử
dụng khoáng sản màu để tô, một số hình khác được khắc sâu trên đá cho thấy sự
phát triển về năng lực sáng tạo, khả năng quan sát và đôi bàn tay khéo léo, thành
thạo trong từng nét vẽ. Người nguyên thủy đã tạo ra một thế giới hình ảnh sắc
nét, phong phú và đa dạng nơi mình sinh sống mô tả chi tiết cuộc sống săn bắt
của người tiền sử.
Hang Font de Gaume (Les Eyzies, Pháp)
Được phát hiện năm 1901, Font de Gaume có niên đại khoảng 25.000 năm TCN.
Theo thống kê của các nhà khảo cổ, Font de Gaume có khoảng 230 hình vẽ động
vật từ voi mamut, bò rừng, ngựa, tuần lộc, tê giác… trong đó có 82 hình bò
rừng, 40 hình con ngựa, 20 hình voi mamut. Các con vật được tô vẽ nhiều màu,
màu chủ đạo thường là màu đỏ, nâu và đen; có một số hình ảnh mới được vẽ
chồng lên những hình đã vẽ trước đó, điều này giúp chúng ta có thể phân biệt
được trình tự thời gian của quá trình phát triển nghệ thuật. Bên cạnh những hình

vẽ đã phát hiện từ năm 1901, năm 1966 các nhà khảo cổ học còn tìm thấy những
16


hình phù điêu bò rừng đặc biệt ấn tượng với đường nét tinh xảo, tô màu nâu đỏ
bên trên lớp đá vôi màu vàng, sát phía nền của hang.

Hình vẽ trên vách hang Lascaux (Pháp)

Hình vẽ trên vách hang Font de Gaume (Pháp)

17


Hình vẽ trên vách hang Combarelles (Pháp)

Hình vẽ trên vách hang Chauvet (Pháp)

Hang Combarelles (Pháp)
Được tìm thấy cùng năm với hang Font de Gaume năm 1901, chiều dài hang gần
300m diễn tả rất nhiều hình ảnh ngựa (hơn 100 hình vẽ), tuần lộc, sư tử cái, bò
rừng, voi mamut, những hình kỷ hà về nhân vật nữ (không có đầu)….
Hang Chauvet (Pháp)
Hang Chauvet được phát hiện trong những năm gần đây 1994, nằm gần Pontd’Arc có niên đại từ 30.000 năm TCN. Những tác phẩm tạo hình ở đây rất
phong phú và đa dạng, thể hiện 13 loại động vật khác nhau như ngựa, bò, tuần
lộc, sư tử, báo, gấu, cú, tê giác và linh cẩu. Những hình thức nghệ thuật này
18


cũng phản ánh đời sống tinh thần rất phong phú của người nguyên thủy dựa trên

đời sống, văn hóa và tín ngưỡng từ cách nay 30.000 năm trước. Việc đặt ra câu
hỏi: vậy ý nghĩa của những tác phẩm này là gì? luôn được đặt ra, nhưng không
thể tìm được câu trả lời chính xác. Xã hội nguyên thủy hiện hữu thông qua các
tác phẩm nghệ thuật, khiến nghệ thuật như một lời khẳng định sự hiện diện của
một nền văn hóa, một niềm tin đối với tín ngưỡng, với các linh hồn của thế giới
siêu nhiên.
Hang Niaux (Pháp)
Niaux nằm ở chân đồi phía bắc của dãy núi Pyrenees, ngay phía nam Pháp, được
tìm thấy và công nhận năm 1906 có niên đại 14.000 năm TCN. Hình vẽ trong
hang Niaux với hơn 100 con vật: 29 con ngựa, 52 con trâu, 3 gia súc, thuộc về
dê 15, 2 hươu, 2 cá, 2 hình người, và nhiều dấu hiệu và dấu chấm câu. Đa số
hình vẽ được thể hiện ở khu vực cuối hang. Những hình vẽ này phần lớn thể
hiện đường viền bằng 2 màu đen và đỏ, không tô màu, không gợi khối như
những hình vẽ trong hang động Lascaux hay Altamiral. Theo phân tích hóa học,
người nguyên thủy đã sử dụng mangan và than (gỗ mềm) trộn với chất kết dính
(mỡ động vật, nhựa cây hoặc dầu) để vẽ.

19


Hình ảnh bò rừng, ngựa với mũi tên bị bắn trên cơ thể ở hang Niaux (Pháp)

3.2. Tác phẩm điêu khắc
Venus of Willendorf (Áo)
Tìm thấy năm 1908 tại thị trấn Willendorf (Áo) có niên đại từ 30.000-25.000
năm TCN. Tượng cao 11 cm, phần ngực, bụng và mông được cường điệu, tay và
chân nhỏ, tỷ lệ không cân đối, phần đầu không có chân dung, thay vào đó là
những vòng tròn đều đặn chạy vòng quanh, che kín khôn mặt. Bức tượng được
khắc bằng đá vôi và mang đậm tính phồn thực.


Venus of Willendorf, cao 11cm

Venus of Lespugue, cao 15cm

20


Venus of Laussel, cao 44cm

Brassempouy Venus, cao 3,5

Venus of Lespugue (Pháp)
Được tìm thấy ở vùng Dordogne (Pháp) có niên đại khoảng từ 20.000-18.000
năm TCN (hiện nay không còn nguyên vẹn) nhưng vẫn thể hiện rõ hình dáng.
Tượng được khắc trên ngà voi mamut, cao 15cm, không có bàn tay, bàn chân,
đôi chân thuôn nhọn dần. Phần ngực trên lõm thành một đường cong và uốn lên
trên. Đôi tay thon nhỏ đặt phía trên phần ngực, mông và bụng lớn, khối căng
đầy. Phía sau, từ mông xuống chân có những đường khắc vạch tạo cảm giác
chuyển động và mềm mại.
Venus of Laussel (Pháp)
Cao 44cm, chạm khắc trên đá vôi, tìm thấy ở Dordogne (Pháp), có niên đại từ
29.000-22.000 năm TCN. Hình tượng người phụ nữ khỏa thân, đầu ở tư thế
nghiêng, khuôn mặt không được mô tả (đây cũng là đặc điểm chung đối với các
tượng venus thời kỳ nguyên thủy); ngực, bụng và hông lớn, mái tóc dài, tay phải
cầm chiếc sừng bò hình lưỡi liềm, phía trên sừng bò có khắc vạch, tay trái đặt
lên bụng, đây là tác phẩm đầu tiên thể hiện hình tượng người cầm đồ vật.
Venus of Brassempouy (Pháp)
Bức tượng này chỉ còn lại chiếc đầu, cao 3,65cm, khắc trên ngà voi mamut,
được tìm thấy ở hang Brassempouy (Landes, Pháp), có niên đại 21.000 năm
TCN. Đây là bức tượng có phong cách hiện đại nhất, và mang tính tả thực về

khuôn mặt, kiểu tóc, sống mũi và cổ cao thanh tú.
Bò rừng (Pháp)
Tác phẩm được tìm thấy ở Madeleine
gần Dordogne (Pháp) có niên đại 15.000
năm TCN, miêu tả hình ảnh một con bò
rừng, đầu quay nghiêng đang liếm cơ thể
mình. Loại động vật này nay đã bị tuyệt
chủng và chúng ta thường thấy chúng
trong trang trí nội thất hoặc các hình vẽ
Bò rừng

21


trên vách hang động. Hình dáng con bò được chạm khắc tài tình và trông giống
vũ khí của người nguyên thủy.
3.3. Nghệ thuật kiến trúc thời kỳ tiền sử
Chưa thể đưa nghệ thuật kiến trúc thành một ngành nghiên cứu riêng biệt ở
trong xã hội nguyên thủy, nhưng tạm phân loại một số kiến trúc đơn giản trong
giai đoạn này: 1. Kiến trúc cư trú (nhà ở, hang động); 2. Kiến trúc thờ cúng (mộ
hoặc nơi thực hành nghi lễ thờ cúng).
Do lối sống du mục trong suốt một thời gian dài hàng chục vạn năm sống trong
hang động thiên nhiên và hang động gia công, người nguyên thủy chuyển dần
sang lối sống định cư, tạo nơi ở dù còn rất đơn sơ như đào hầm trong lòng đất,
lấy cây ghép thành lều, sử dụng các liếp chắn gió với các vật liệu dễ tìm như
cành cây, tre, nứa và trát bùn đất hình chóp nón, nhà vuông mái dốc hai bên hay
hình vòm khum (thời kỳ đồ đá cũ); nhà sàn, nhà bằng đất không nung (hậu kỳ đá
mới)…, một số kiến trúc thờ cúng như mộ đá (dolmen), cột đá (menhir), lan can
đá (cromlech) (thời kỳ đồ đồng) ở một số nơi như Anh, Pháp, Đức, Thụy
Điển… Từ nhu cầu định cư, thôn xóm dần được hình thành, làng mạc tập trung,

các hình thức kiến trúc nhà ở khác dần dần ra đời phù hợp với khí hậu, lối sống,
cách sinh hoạt của từng bộ tộc.
a. Dolmen (còn gọi là phòng đá, thạch đài hay bàn đá)
Là ngôi mộ nguyên thủy là nơi mai táng và thờ cúng các lãnh chủ và phù thủy
lúc bấy giờ. Đó là những công trình làm bằng 2 cột đá lớn dựng đứng, bên trên
đặt một tấm đá ngang. Ban đầu kích thước của phòng đá nhỏ (dài 2m và cao
1,5m), dần dần được xây bằng các khối đá lớn hơn đặt cách nhau tới 20m và tấm
đá lợp nặng tới hàng chục tấn. Cách xây dựng phòng đá được dự đoán là : Đầu
tiên người ta dựng những cột đá đứng trước, phủ đá và đất tới cột, nén chặt, tiếp
đó đặt đòn khiên, con lăn trượt tấm đá mái lên. Sau đó tháo dỡ nền đá nhỏ, tháo
đòn khiêng và con lăn. Phòng đá được tìm thấy ở một số nơi như Đức, Thụy
Điển, Pháp, Anh. Phòng đá tìm thấy ở Đức, phía trên còn đắp đất như hình ngôi
mộ đích thực.
22


Dolmen Cour du Breuil, Nantes, miền Bắc nước Pháp
Dolmen (Ille et Vilaine, Brittany, Pháp) 2.500-2.000TCN

b. Menhir (cột đá)
Là những phiến đá dài tới 20m, nặng 300 tấn được dựng làm cột độc lập, thân
cột thường chạm khắc hình cây cối, người, vật. Có thể mỗi cột đá để kỷ niệm
một người chết, cũng có thể tượng trưng cho lòng tin của con người đối với sức
mạnh thiên nhiên. Việc xây dựng cột đá được dự đoán là: con người đẩy cột đá
đến những chiếc hố đào sẵn, buộc dây vào đầu cột, kéo lên và cố định chân cột.
Hiện nay tại vùng Carnac (Bretagne, Pháp) còn giữ được 3000 cột đá chôn thành
nhiều dãy, tạo thành hành lang dài 3km.
c. Cromlech (lan can đá, thạch hoàn)
Là một vòng tròn hoặc những vòng tròn đồng tâm, dựng nên bởi những cột đá,
trên lợp các tấm đá dài tạo thành hình vòng tròn khép kín. Lan can đá dùng để

cúng ma thuật, ở giữa là một tấm đá dùng để đặt vật hy sinh cho lễ cúng.
Newgrange (Ireland)
Nghĩa trang Newgrange được tìm thấy năm 1699, là nơi chôn cất các vị vu dòng
Tara khoảng 3.200-2.500 năm TCN, đây là một trong những đài tưởng niệm ấn
tượng nhất thời tiền sử ở Châu Âu. Nằm ở thung lũng Boyne, Ireland, được
công nhận là Di sản thế giới năm 1993. Chiều dài là 18m, bức tường thành làm
bằng đá khổng lồ, tiếp theo là 35 cột đá nặng từ 20-40 tấn xếp dựng đứng quanh
ụ đá để tạo thành một vòng tròn lớn, phía trong tạo thành hình oval. Nhiều ý
kiến cho rằng đây là nơi chôn cất hoặc tế thần dành cho người Ireland cổ đại
hoặc là một đài thiên văn quan sát mặt trời của đền thờ. Trên những phiến đá

23


xung quanh hầm mộ được trang trí những hình tròn xoắn ốc (một biểu tượng của
người Celt).

Newgrange (Ireland)

Stonehenge (Anh)

Stonehenge (Anh)
Stonehenge là một tượng đài cự thạch và là trung tâm nghi lễ thời kỳ đồ đá mới
và thời kỳ đồ đồng ở miền nam nước Anh. Stonehenge có niên đại từ 3100-2000
năm TCN, được Unesco công nhận là Di sản thế giới năm 1986 và là một trong
những địa điểm tiền sử nổi tiếng thế giới.
Stonehenge bao gồm các công sự bằng đất (xây dựng từ năm 3100-2800 năm
TCN) bao quanh một vòng đá (xây dựng trong khoảng 2500-2000 năm TCN).
Đá có 2 loại: những khối cứng chắc để tạo ra vòng ngoài công trình và những
khối đá mềm hơn (đá xanh) lấy từ các vỉa than và quặng, tạo ra vòng trong của

Stonehenge. Những khối đá nặng từ 25-50 tấn được mang đến từ dãy núi Prezeli
(miền Tây xứ Wales) nằm cách Stonehenge 200km, bằng cách nào đó những
viên đá cực lớn được vận chuyển đến khu với những phương tiện vận chuyển
24


đơn sơ của 3000 năm TCN cho thấy sự nỗ lực, khả năng điều hành và quyết tâm
của người cổ xưa. Đối với Stonehenge đã có rất nhiều giả thuyết về chức năng
và vai trò của nó, nhưng nhiều ý kiến nghiêng về việc khẳng định Stonehenge có
vai trò như một đài quan sát cổ đại, cho phép đo thiên văn cổ xưa, nó có thể xác
định chính xác vị trí của mặt trời và mặt trăng, dự đoán chính xác ngày bắt đầu
làm nông nghiệp, dự đoán nhật thực và các hiện tượng thiên văn khác nhau….

Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích những đặc điểm của Mỹ thuật nguyên thủy?
2. Anh (chị) hãy nêu nhận xét về quá trình phát triển của Mỹ thuật nguyên thủy?
3. Anh (chị) hãy nêu vai trò của mỹ thuật ở thời kỳ nguyên thủy như thế nào?
4. Anh (chị) hãy nêu một số tác phẩm tiêu biểu của các “nghệ sĩ” thời kỳ nguyên
thủy?

Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Chỉnh (2006), Lịch sử mỹ thuật thế giới, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
2. Wend Beckett (Lê Thanh Lộc dịch) (1996), Lịch sử hội hoạ, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
3. (2007), 30,000 years of art: The story of Human Creativity Across Time and
Space, Phaidon Press, London.
4. (2009), 10,000 years of art, Phaidon Press, London.

25



×