Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.86 KB, 37 trang )

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CẢI THIỆN
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1. Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam
2.1.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO.
2.1.1.1. Cơ chế, chính sách.
Việt Nam được coi là quốc gia ổn định, an toàn nhất trên thế giới. Đây đựoc coi là yếu
tố đầu tiên tác động đến thu hút ĐTNN. Các nhà đầu tư tin rằng sự ổn định về chính trị
đồng thời sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt sự rủi ro cho họ. Theo báo
cáo phát triển thế giới 2005 của ngân hàng thế giới, khảo sát hơn 30000 doanh nghiệp
tại 53 nước đang phát triển, ông Martin Rama – chuyên gia kinh tế trưởng của WB đánh
giá môi trường Việt Nam đang rất tốt trong đó có sự tác động dáng kể của hệ thống luật
pháp. Cùng với các nước châu Phi, Việt Nam được coi là điển hình về cải cách thủ tục
pháp lý - một trong những vấn đề cơ bản để cải thiện môi trường đầu tư trong những
năm qua. Môi trường luật pháp này bao gồm các chính sách, quy định cần thiết đảm bảo
sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đính chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư,
Việt Nam có quy định các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn không ít hơn 30%. Hai
đạo luật cơ bản trong hoạy động đầu tư là luật Doanh nghiệp và luật Đầu tư nước ngoài
dược Quốc hội thông qua cuối 2005 đã thiết lập mặt bằng chung cho nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Trước đây, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập cty TNHH, theo
luật mới, họ có thể được mở rộng hình thức đầu tư. Chính phủ Việt Nam cũng cam kết
không tịch thu quốc hữu hoá đối với tài sản của các nhà đầu tư. Trong trường hợp bắt
buộc, đảm bảo an ninh quốc phòng, họ sẽ đươc bồi thường theo quy định. Thêm vào đó,
Việt Nam có những bước tiến lớn về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập công
ước Burn.
- Chính sách thuế: chính phủ có quy định rõ ràng về từng loại thuế (thuế đất đai, thuế
thu nhập doang nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,..), xây dựng danh mục đầu tư, ưu đãi
đầu tư, miễn giảm thuế trong một số lĩnh vực, có chính sách chuyển lỗ vào năm sau,
hoàn thuế do tái đầu tư cho doanh nghiệp.


- Chính sách lệ phí:quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy phép,
dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện nước,giao thông,thông tin liên lạc, thuê đất...) Chính sách 2
giá từng làm nhà đầu tư nước ngoài bất bình cũng đã được bãi bỏ, đối xử bình đẳng đối
với mọi nhà đầu tư.
2.1.1.2. Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng.
Đây là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách.. liên quan
đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Việt Nam nằm ở
trung tâm, có khả năng kết nối với những nước có nền công nghiệp cao như: Nhật Bản,
ĐàiLoan, Singapo, Malaixia... Một trong những điểm thu hút sự đầu tư vào Việt Nam là
những đường bay thẳng tới các địa điểm ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Việc không qua
trạm chung chuyển ở châu Á mang lại lợi ích lớn cho khách hàng đặc biệt là tiết kiệm
thời gian, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Với đường bờ biển kéo dài là một lợi thế của nước
ta trong việc phát triển du lịch, tạo điều kiện thu hút mọi người đến với Việt Nam , hiểu
thêm về con người, văn hoá Việt, có một sự tác động nhất định đến cơ hội đầu tư vào
nước ta.
Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng. Với đặc điểm của một quốc gia có dân
số đông hơn 81 triệu dân sẽ là nguồn cung cấp sức lao động dồi dào. Đồng thời con
người Việt Nam chăm chỉ , cần cù lao động, có trình độ, ham học hỏi.
Song, do Việt nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có ảnh hưởng nhiều đến tuổi thọ
các loại máy móc thiết bị như hiện tượng ăn mòn... Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư cần
có biện pháp khấu hao phù hợp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập, ở những thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh luôn xảy xa tình trạng ách tắc giao thông trong giờ
cao điểm, tổng quan của các khu phố chính cần được qui hoạch tổng thể để có thể xây
dựng được hình ảnh đẹp trong mắt khách du lịch đến tham quan.
Mỗi năm có khoảng một triệu người từ các vùng nông thôn chuyển đến các thành phố
của Việt Nam . Để đối phó với dòng người đổ vào thành thị này, cần phải nâng cao việc
quản lý và lập kế hoạch đô thị. Đặc biệt cần phải kiểm soát tốt hơn những nhu cầu xây
dựng nhà ở không theo qui hoạch và cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản trước khi tiến hành
xây dựng. Trao thêm trách nhiệm cho chính quyền địa phương và thông qua các phương

pháp lập kế hoạch linh động hơn sẽ giúp đạt được yêu cầu trên.
Do Việt Nam đã giảm nghèo, sự khác biệt giữa tỷ lệ nghèo thành thị và nông thôn đang
thu nhỏ lại. Nhưng cùng lúc đó, khoảng cách giữa những người có thu nhập cao nhất và
thu nhập thấp nhất lại tăng lên. Một vấn đề ngày càng trở nên quan trọng hơn là làm thế
nào để tập trung nguồn hỗ trợ tài chính của chính phủ cho cơ sở hạ tầng để mang lại lợi
ích cho những người dân nghèo nhất. Trong đó có con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng
của Việt Nam trong giai đoạn này giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc
tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với
năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các
hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm
1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng khoảng thời gian, số người có hố xí
vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số.
2.1.1.3. Nguồn nhân lực.
Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu, hệ thống giáo dục, đạo
đức... cũng có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Có thể nói rằng
Việt Nam được biết đến là một quốc gia giàu truyền thống văn hoá, có sự đoàn kết giữa
các dân tộc anh em, tôn trọng quyền tự do tôn giáo nhưng vẫn trong khuôn khổ pháp
luật. Tinh thần dân tộc, văn hoá cũng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài dễ
hoà nhập,thuận lợi trong kinh doanh.
Con người Việt Nam luôn cần cù, chăm chỉ,có tinh thần ham học hỏi, sáng tạo, 60%
dân số ra đời sau năm 1975, tỷ lệ biết chữ là 92%. Đây cũng là một thuận lợi đối với
chủ đầu tư nước ngoài trong việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua các
hình thức quảng cáo,mẫu mã sản phẩm. Nguồn lao động trẻ và được đào tạo ngày càng
quy mô hơn. Nguồn nhân lực này được trang bị kiến thức khá tốt (được thể hiện qua số
lượng các sinh viên ngày càng tăng, số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề được thành lập tăng qua các năm) và khá năng động, ham học
hỏi. Trong thời gian qua, đáng chú ý là có sự gắn kết giữa nhà trường và các trung tâm
dạy nghề như thành phố Hồ Chí Minh có 10 trung tâm đào tạo công nghệ thông tin liên
kết với nhà nước. Mặt khác, giá nhân công ở nước ta thấp hơn so với các quốc gia khác:
chỉ bằng 10% giá lao động ở Mỹ, 40% -50% giá lao động Trung Quốc, Ấn Độ.

2.1.1.4. Yếu tố kinh tế.
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định lâu dài đặc biệt năm 2005 tốc độ tăng
trưởng đạt 8,5%. Thêm vào đó chiến lược tăng tính cạnh tranh lành mạnh trong nền
kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng khi tạo thêm động lực cho doanh nghiệp từ 2 góc
độ:
- Phát triển thị trường dịch vụ,chống độc quyền.
- Ký kết hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ và nỗ lực cho việc gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
Giám đốc quốc gia của WB, ông Klaus Rohland nhận định: "Việt Nam thành công vượt
trội trong lĩnh vực giảm nghèo, nhận thức rõ về vấn đề chống tham nhũng và đang có
nhiều biện pháp giải quyết về cơ chế để giảm động cơ tham nhũng". Theo dự báo
chuyên gia công nghệ thông tin cho thấy 4-5 năm nữa số lượng người sử dụng Internet
có thể lên đến 30 triệu.Việc thu hút các tập đoàn lớn, đa quốc gia về công nghệ thông
tin cho thấy Việt Nam đang là thị trường đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, môi trường đầu tư còn nhiều e ngại. So với thị trường công nghệ đã và đang
thu hút mạnh đầu tư từ Mỹ như Trung Quốc, Ấn Độ thì thị trường Việt Nam nhỏ và
thông tin về doanh nghiệp cũng rất hạn chế. Thông tin từ Việt Nam rất ít ỏi, sự thiếu hụt
nguồn lực trình độ cao, những chuyên gia công nghệ thông tin còn yếu về kinh nghiệm,
năng lực. Mặt khác giá thuê đường truyền Internet cao cũng tác động đến chi phí của
doanh nghiệp. Giá thuê đường truyền là 256 kbs/s với mức giá 2400 USD/tháng gấp 80
lần giá thuê ở Mỹ.
Nhiều nhà đầu tư có nhận xét: "...rất muốn thu hút những công ty lớn của Mỹ đầu tư
vào Việt Nam.Việc này chỉ có khả năng thực hiện khi nhà đầu tư thấy được triển vọng
kinh doanh trong nước. Nếu họ thấy những người trước hoạt động hiệu quả, họ sẽ làm
theo.Nhưng doanh nghiệp Việt Nam làm ăn tốt nhưng hình như không mạnh dạn công
bố thành công của mình". Có thể nhận thấy rằng, tình trạng nhiều doanh nghiệp chưa
sẵn sàng chấp nhận tư tưởng là con nợ để đầu tư quy mô lớn. Tại Mỹ, doanh nhân Mỹ
trước khi thành đạt chấp nhận nợ nần nghĩa là dùng tiền người khác để thực hiện chiến
lược kinh doanh của mình. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam hoạt động hiệu quả chưa
cởi mở chia sẻ kinh nghiệm với các đơn vị khác, chưa nhận thấy được chia sẻ kinh

nghiệm chính là biện pháp hỗ trợ đơn vị làm rõ hiệu quả hơn. Đó cũng là cách thu hút
những đơn vị này thành khách hàng thân thiết, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Theo báo cáo của ban thư ký diễn đàn doanh nghiệp thì sản phẩm nhái, sao chép nhãn
mác các thương hiệu lớn, các sản phẩm phần mềm bày bán ở nhiều chợ lớn, vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Đây là một hiểm hoạ đối với nhà đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao. Năm 2005 Việt Nam là một trong 10 nước vi phạm bản quyền phần mềm lớn nhất
thế giới. Trong bối cảnh công nghệ thông tin và viễn thông đang phát triển với tốc độ
cao như hiện nay thì buộc phải có chính sách minh bạch công khai để nhà đầu tư hạn
chế rủi ro có thể xảy ra theo cam kết BTA. Khi Việt Nam gia nhập WTO buộc phải mở
rộng cửa cho nhà đầu tư nước ngoài. Lúc ấy độc quyền và bất bình đẳng sẽ là rào cản.
Mặt khác, chi phí sản xuất ở Việt Nam khá cao. Giá nguyên, nhiên liệu đầu vào (như
điện, nước, xăng dầu, xi măng...) ở mức cao so với các nước trong khu vực gây ảnh
hưởng đến môi trường đầu tư. Giá đầu vào tăng làm giá bán tăng, tính cạnh tranh của
hàng hoá trên thị trường nội địa và xuất khẩu giảm (Ví dụ: lắp ráp tivi ở trong nước là
6-7 USD thậm chí 8-9 USD trong khi tại một số nước ASEAN chi phí là 3 USD, Trung
Quốc chỉ là 1 USD). Chính điều này làm mất đi tính hấp dẫn của môi trường đầu tư có
chi phí thấp tại Việt Nam .
2.1.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
2.1.2.1. Cơ chế chính sách.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) vào ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta. Những thành tựu đạt được trong hai năm qua cho thấy, việc Việt
Nam tham gia vào WTO là phù hợp với thực tế khách quan và xu thế hợp tác, hội nhập
kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc trên thế giới hiện nay. Trên
tinh thần chủ động hội nhập, cùng với việc tham gia Khu vực Thương mại Tự do
ASEAN (AFTA), Thỏa thuận ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc... thực hiện
các thỏa thuận song phương như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định
đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản, tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế liên khu
vực ASEM, APEC, Việt Nam đã thật sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược hội

nhập kinh tế quốc tế. Ngày 5-2-2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Ðảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/T.Ư về "Một số chủ trương, chính
sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của
WTO". Theo đó, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cũng đã ban hành các
Chương trình hành động theo các định hướng lớn của Ðảng.
Ðể thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn
bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch
vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội
và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
- Chính sách quản lý ngoại hối:Việt Nam có quy định cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài chuyển tiền ra khỏi nước sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nước chủ nhà.
Ngày 26.06.2008 Thống đốc Ngân hàng nhà nước ký quyết định số 1436/QĐ-NHNN về
ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của tổ chức tín dụng được
phép hoạt động ngoại hối nhằm bình ổn tỷ giá ngoại tệ trên thị trường.
- Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài: Trong thực tế hoạt động kinh doanh, Bộ Kế
hoạch – Đầu tư đã phân cấp quản lý là phân cấp triệt để. Chính phủ chủ trương toàn bộ
cấp giấy phép đầu tư được đưa về các địa phương và các địa phương đã có xử lý kịp
thời. Chính điều này tạo tính cạnh tranh giữa các địa phương. Cùng điều kiện như nhau,
nơi nào có thủ tục hành chính tốt nhất thì nhà đầu tư sẽ lựa chọn. Thẩm định dự án đầu
tư được xem xét theo mọi khía cạnh tài chính, kinh tế xã hội, đánh giá tác động môi
trường. Các nhà đầu tư nước ngoài đều phải xin giấy chứng nhận đầu tư khi tiến hành
hoạt động đầu tư tại Việt Nam . Đối với những dự án có vốn đầu tư từ 300 tỷ trở lên và
thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện đều cần phải tiến hành thẩm tra đầu tư. Hiện nay với
việc thực hiện cơ chế một cửa thực sư là một bước đột phá trong cải cách hành chính,
tạo tính minh bạch trong thủ tục này. Mặt khác, tăng cường dấu thầu trong các dự án
thay vì cơ chế phân bổ xin cho trước đây là những cải cách rất tích cực, giảm đáng kể
chi phí cho doanh nghiệp.
Thêm vào đó, chính phủ luôn tiếp tục nỗ nực tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn, cởi
mở, thông thoáng hơn. Các Bộ ngành, địa phương đang thực hiện các giải pháp chỉ đạo

hữu hiệu của Thủ Tướng chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội, tăng trưởng bền vững. Bộ Kế hoạch – Đầu tư thành lập 11 đoàn
công tác các địa phương thực hiện việc điều hành Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và
các chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Đồng thời triển
khai đề án thúc đẩy giải ngân vốn FDI, lập đoàn kiểm tra việc đầu tư, quy hoạch sân
golf. Theo công văn số 3340/BKH-ĐTNN ngày 9.5.2008 và công văn số 145/ĐTNN-
DV ngày 15.05.2008 đề nghị tất cả các đầu mối quản lý nước ngoài tại 64 tỉnh thành rà
soát tình hình giải ngân, so sánh với tiến độ cam kết, đề xuất giải pháp thúc đẩy và đề
nghị hỗ trợ từ trung ương. Bộ Xây Dựng có văn bản cho phép chủ đầu tư được điều
chỉnh giá nguyên vật liệu và hợp đồng từ hình thức trọn gói sang hình thức hợp đồng
đơn giá.
Khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phải chuyển mình để dần dần thích nghi với
môi trường cạnh tranh khốc liệt. Đó cũng là tác nhân đẩy mạnh cải cách hành chính,
hình thành một hệ thống pháp luật đổi mới và phù hợp với chuẩn mực quốc tế hơn.
Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt, bắt đầu bằng chương trình hành động để nền kinh tế
phát triển bền vững khi gia nhập WTO. Chính phủ đã lập Ban Hỗ trợ kỹ thuật WTO,
nhưng công tác triển khai cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Sau hai năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện tương đối đầy đủ các cam kết của
mình. Tất cả các luật và pháp lệnh cam kết đã hoàn tất, chỉ còn một số văn bản dưới
luật đang hoàn thiện. Theo nguyên Thứ trưởng Bộ thương mại Lương Văn Tự, cho đến
nay, Việt Nam không có vi phạm vê thực hiện cam kết WTO. Tuy nhiên, Việt Nam mới
bắt đầu triển khai thực hiện cam kết; việc cắt giảm thuế, mở cửa thị trường là phải theo
lộ trình và kết thúc vào 7 năm sau gia nhập.
Môi trường pháp lý Việt Nam cũng có sự thay đổi. Khoảng 30 luật và pháp lệnh đã
được sửa đổi cho phù hợp với các nguyên tắc và qui định của WTO. Đó là nền tảng để
thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và nước ngoài. Bên cạnh những thuận lợi
nêu trên, hệ thống luật pháp vẫn còn tồn tại những hạn chế. Trước hết phải nhận thấy
rằng chính sách của Việt Nam đúng đắn nhưng quá trính thực hiện chưa thống nhất.
Quy định về thủ tục còn rườm rà, quy định của địa phương hay các quy định có tính vi
mô hơn, nhiều bất cập, chồng chéo hoặc không rõ ràng tạo khó khăn nhất định cho

doanh nghiệp. Thời gian chuyển giao công nghệ không nên quy định quá cứng nhắc.
Theo luật quy định là 7 năm song có những công nghệ chỉ 1 năm là hoàn thành chuyển
giao và cũng có công nghệ cần thời gian hơn 7 năm.Việc phân cấp quản lý, cấp giấy
phép đầu tư đưa về các địa phương tạo tính cạnh tranh giữa các địa phương cũng thể
hiện mặt trái của nó. Cùng điều kiện như nhau nhưng chủ đầu tư sẽ lựa chọn nơi nào có
nhiều thuận lợi hơn. Chính vì vậy,các địa phương thay nhau đưa ra các ưu đãi thu hút
đầu tư không hợp lý, cấp phép đầu tư tràn lan.
Một trong những hạn chế chủ yếu làm mất dần lợi thế cạnh tranh trong môi trường đầu
tư của Việt Nam chính là mức thuế chưa hợp lý, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh
doanh và làm mất dần đi nhiều ưu đãi đầu tư như ưu đãi về thuế đất, giải phóng mặt
bằng, nỗ lực xúc tiến thương mại tại các địa phương. Mức thuế hiện nay tại Việt Nam
được coi là cao nhất trong khu vực làm nản lòng các nhà đầu tư và ảnh hưởng tới quyết
định xin cấp phép đầu tư. Thủ tục hoàn thuế thu nhập do tái đầu tư quá phức tạp gây
khó khăn cho nhà đầu tư và hạn chế tái đầu tư. Thuế VAT đối với một số dịch vụ cung
ứng cho khu chế xuất như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính viễn thông.. trước chỉ là 0%
nay là 3%-10%, giảm tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Việc tăng thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với ôtô, cách tính thuế, thời điểm tính thuế nhập khẩu các linh kiện, phụ
tùng cho lắp ráp ôtô, xe máy...trong quá trình thực hiện nội địa nội địa hoá chưa sát thực
tế không chỉ làm mất đi khả năng và cơ hội phát triển sản xuất, xuất khẩu của doanh
nghiệp trong lĩnh vực này mà còn làm chi phí khác của doanh nghiệp tăng (như chi phí
mua sắm các trang thiết bị...). Mặt khác, thuế thu nhập cá nhân được tính luỹ tiến làm
cho Việt Nam trở thành quốc gia có mức thuế cao nhất trong khu vực (10%-65%) trong
khi Trung Quốc là 5%-45%, Singapo là 3%-22%.
Có thể nói rằng môi trường chính trị, luật pháp chính là nhân tố quan trọng hàng đầu tác
động đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, bên cạnh
những thành công đã đạt được, Việt Nam cần có những biện pháp khắc phục những hạn
chế còn tồn tại.
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng.
Ngoài các vấn đề về chính sách – pháp luật, cũng phải kể đến vấn đề về cơ sở hạ tầng,
là một vấn đề nóng bỏng hiện nay. Nhiều đại biểu trong một diễn đàn đã phát biểu:

"...điện năng không đủ đáp ứng nhu cầu trong công nghiệp, chất lượng đường xá không
đồng đều tại các nơi khác nhau của Việt Nam hay tình trạng ngập lụt trên nhiều tuyến
đường ảnh hưởng lớn tới việc vận chuyển nguyên vật liệu,tiêu thụ sản phẩm..." Trưởng
đại diện tập đoạn Nike tại Việt Nam cho biết Nike đã có sự tăng trưởng rất tốt tại Việt
Nam từ năm 1995, các sản phẩm chế tạo của Nike cũng tăng từ 30%,các sản phẩm chế
biến cũng tăng trưởng mạnh.Tuy nhiên, ông John Isbell, giám đốc phụ trách hậu cần
của Nike cho rằng mặc dù có kết quả tốt nhưng Nike cũng đang gặp một số vấn đề đặc
biệt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Hiện nay, sự tắc nghẽn tại các con đường ở thành phố Hồ
Chí Minh vào giờ cao điểm là một bức xúc. Ngay cầu Đồng Nai, một cây cầu nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam cũng đang gây ra lo lắng vì không đáp ứng
được nhu cầu vận chuyển, lưu thông hàng hoá. Sự tắc nghẽn về các yếu tố hạ tầng đang
gây ra nhiều cản trở cho các hãng vận tải quốc tế và phần nào đó ngăn cản sự phát triển
của các doanh nghiệp cũng như các hoạt động đầu tư. Mặt khác do trình độ công nghệ
Việt Nam chưa cao nên trong hoạt động chuyển giao công nghệ hay hoạt động thương
mại thông thường chúng ta dễ trở thành "bãi rác"công nghệ hoặc mua với giá cao do
khả năng đàm phán còn yếu, hết thời gian chuyển giao doanh nghiệp trong nước vẫn
chưa làm chủ được công nghệ. Trong lĩnh vực này, Việt Nam có thể được tiếp nhận
công nghệ cao hơn so với mặt bằng chung trong ngành nhưng có thể thua xa trong nước
hoặc không phải từ quốc gia có công nghệ nguồn.

Cơ sở hạ tầng vẫn luôn là cản trở lớn nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp trong
năm 2008. Vấn đề điện năng thiếu hụt và không ổn định, cảng biển tắc nghẽn, giao
thông đường bộ yếu kém, tất cả đều ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, làm tăng chi phí kinh doanh, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp...
Một trong các lĩnh vực tập trung thu hút đầu tư giai đoạn 2006 - 2010 là nâng cấp cơ sở
hạ tầng hiện có ở Việt Nam bao gồm cả hệ thống các nhà máy điện, hệ thống đường xá,
sân bay, bến cảng... Chúng ta biết rằng, nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh hiện là lớn;
thu hút đầu tư nước ngoài gia tăng, đầu tư trong nước gia tăng, nền kinh tế tăng trưởng
cao đòi hỏi nhất thiết phải có sự nâng cấp mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, bên cạnh nguồn vốn đầu tư của nhà nước đầu tư lớn cho các công trình hạ

tầng. Chúng ta đang tập trung kêu gọi đầu tư vào hạ tầng kinh tế lớn, có ảnh hướng tới
sự phát triển của cả vùng và đất nước. Một số hạng mục kêu gọi như Cảng Vân Phong,
các nhà máy điện, các dự án hạ tầng đô thị... đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
đầu tư. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tập trung thu hút đầu tư vào công nghệ cao, công
nghệ nguồn tập trung vào các khu như Láng - Hoà Lạc; đào tạo nguồn nhân lực để đáp
ứng cho đầu tư sản xuất.
Vấn đề cũng cần được quan tâm hiện nay là trong các điều luật chưa nêu rõ những gì
mà nhà đầu tư có thể nhận được hay lợi ích khi tiến hành đầu tư. Theo ông Tony Foster-
đại diện phòng thương mại Mỹ có nhận định rằng: "Điện, nước, viễn thông đều kêu gọi
đầu tư vốn ít nhất 2 tỷ đồng mỗi năm. Tuy nhiên, dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn
lớn, thời gian thu hồi kéo dài vì thế nhà đầu tư muốn biết liệu 1 đồng họ bỏ ra sẽ thu
được lợi gì?".
2.1.2.3. Nguồn nhân lực.
Sau 2 năm gia nhập WTO, số lao động có việc làm tăng chậm khoảng 2,3% và thấp hơn
2% so với năm 2007. Tình trạng thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị
mặc dù được cải thiện trong năm 2007, nhưng đến cuối năm 2008, số lao động mất việc
làm tại các thành phố lớn và một số khu công nghiệp trong quý IV/2008 đã lên tới
30.000-40.000 người.
Thực tế, không có điều khoản nào của WTO yêu cầu chúng ta phải mở cửa thị trường
lao động, song lao động nước ngoài có thể vào làm việc tại nước ta từ các gói dịch vụ
do nước ngoài cung cấp. Để hạn chế luồng lao động từ nước ngoài, cách tốt nhất cần
thực hiện là nâng cao chất lượng lao động để lao động bản xứ có thể đáp ứng được yêu
cầu của các nhà cung cấp dịch vụ. Khi đó, thay vì đưa lao động từ nước ngoài vào làm
việc, các nhà cung cấp dịch vụ sẽ tuyển lao động bản xứ để tiết kiệm chi phí. Để cải
thiện dần chất lượng nguồn nhân lực, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra
một kế hoạch tổng thể nhằm đưa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên 40% vào năm 2010.
Trong đó, mục tiêu trọng tâm là dạy nghề cho lực lượng lao động làm việc tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống trường đào tạo nghề sẽ được đầu tư nâng cấp dần
lên ngang tầm với khu vực và thế giới. Dự kiến, sẽ có 25 trường đào tạo nghề và 10
trung tâm đào tạo được đầu tư từ nguồn vốn ODA. Ngoài ra, 30 trường trọng điểm và

khoảng 100 trung tâm dạy nghề của cả nước cũng sẽ được đầu tư nâng cấp. Hoàn thiện
hệ thống giao dịch của thị trường lao động bằng cách, quy hoạch và phát triển rộng
khắp các cơ sở giới thiệu việc làm ở các địa phương để người lao động dễ tiếp cận, đầu
tư hiện đại hóa 3 trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm (Bắc, Trung, Nam) đạt tiêu
chuẩn các nước trong khu vực, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại (internet, website)
để thực hiện giao dịch lành mạnh, hiệu quả và chuyên nghiệp, chống tiêu cực, nhất là
lừa đảo người lao động. Đa dạng hóa các kênh giao dịch trên thị trường lao động, tạo
điều kiện cho các giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Hình thành và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng,
trước hết ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung,
cho xuất khẩu lao động; xây dựng các trạm quan sát thông tin thị trường lao động trên
địa bàn cả nước để thu thập và phổ biến thông tin thị trường lao động đầy đủ, kịp thời.
Tuy nhiên, vấn đề được nhiều chuyên gia quan tâm là, bên cạnh việc đầu tư cho các
trường đào tạo nghề, cần đưa các chương trình dạy nghề có tính thực hành cao hơn, học
sinh được nắm bắt kịp thời với công nghệ hiện đại. Hơn nữa, cần có chính sách cụ thể
để đào tạo đội ngũ lao động quản lý có hàm lượng chất xám cao song song với các
chương trình đào tạo lao động đại trà.
2.1.2.4. Yếu tố kinh tế.
Việc gia nhập WTO là một dấu mốc quan trọng, là thành công lớn của nước ta, cho
phép đưa nền kinh tế tiếp cận với nhiều lợi ích, đối tác và là cơ hội để đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng cũng như hội nhập toàn diện với đời sống kinh tế thế giới. Trong đó, tác
động mạnh nhất, lớn nhất thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại như xuất - nhập khẩu, thu
hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN)…
Cụ thể, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt 48,6 tỷ USD, tăng 21,9% so với
năm 2006, năm 2008, KNXK đạt gần 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Đặc
biệt, Việt Nam đã có được uy tín mới, với sức hấp dẫn do vị thế là thành viên WTO
mang lại, khiến dòng vốn ĐTNN "chảy" vào rất mạnh, qua con số hơn 60 tỷ USD trong
năm 2008. Giới đầu tư quốc tế khẳng định Việt Nam là địa chỉ đầu tư tin cậy, là nơi gửi
gắm dòng vốn trung và dài hạn... Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc đều thể hiện quan
điểm, khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các dự án ở Việt Nam, đánh giá Việt Nam là

địa bàn hấp dẫn hàng đầu ở khu vực châu Á.
Trên thực tế, vốn ĐTNN thực hiện năm 2007 đạt gần 8 tỷ USD, năm 2008 đạt gần 11,5
tỷ USD, đó là một kênh cấp vốn quan trọng, trực tiếp thúc đẩy phát triển KT-XH cũng
như xóa đói giảm nghèo, gia tăng quy mô và sức hấp dẫn của nền kinh tế. Việc giải
ngân vốn ĐTNN tăng chứng tỏ nhà đầu tư tin tưởng làm ăn lâu dài và quyết tâm đẩy
nhanh quá trình triển khai từng dự án cụ thể tại Việt Nam .
Bên cạnh đó, một số hoạt động quan trọng khác, có liên quan tới hoạt động thương mại
và đầu tư như du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải cũng có bước phát triển mạnh so
với thời kỳ trước khi gia nhập WTO. Đáng chú ý là hàng loạt khu đô thị, nghỉ dưỡng,
khu công nghiệp mang đẳng cấp quốc tế đã và đang hình thành, tạo ra cơ sở cho tiến
trình CNH-HĐH trên phạm vi cả nước. Nhiều chuyên gia cho rằng, thông qua hội nhập,
các nguồn lực kinh tế được huy động, sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Một hiệu
ứng tích cực đã diễn ra ngay từ năm 2007 khi tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 8,5% và
con số này vẫn đạt 6,2% vào năm 2008 trong bối cảnh nền kinh tế gặp rất nhiều khó
khăn, bất lợi do cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Gia nhập thành viên WTO đã giúp DN trong nước có chỗ đứng ngang bằng với đối tác
trên thế giới, cho phép DN rút ngắn khoảng cách phát triển, nhất là tăng khả năng chống
đỡ trước những hàng rào thương mại. Đây là thay đổi cơ bản, có giá trị thực tiễn rất
lớn, bởi nó dẫn đến hiệu ứng khuyến khích cộng đồng DN tăng cường đầu tư, thay đổi
công nghệ nhằm mở rộng quy mô sản xuất, đẩy mạnh XK. Từ đó, nền kinh tế được bổ
sung thêm những năng lực sản xuất mới và cải thiện một bước về sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới. Điều này cũng lý giải vì sao một số tổ chức quốc tế đánh giá, đây là
sự thay đổi và tác động rất tích cực mang tên "niềm tin mới". Cũng nhờ "bùng nổ" đầu
tư và XK, nên hoạt động hợp tác, giao lưu giữa các tổ chức, DN trong nước với đối tác
quốc tế cũng diễn ra khá đa dạng, tạo cơ hội cho sự tiếp nhận công nghệ, kỹ năng quản
lý hiện đại, tạo ra lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao theo hướng chuyên
nghiệp; từ đó, nền kinh tế được bổ sung những "tài nguyên mềm"...
Tóm lại, việc gia nhập WTO cũng giúp Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách kịp
thời nhận diện một số tồn tại của nền kinh tế được gọi là những "nút thắt" sau 2 năm cọ
xát trong môi trường mới. Đó là sự bất cập, "vênh" về pháp luật, cơ chế của ta so với

các quy định của WTO. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, còn nhiều việc phải làm để
hoàn thiện khung pháp lý cho phù hợp với cam kết hội nhập và chuẩn mực kinh tế thị
trường. Vai trò, ý nghĩa của các luật còn thấp do luôn phải chờ hướng dẫn của các nghị
định, thông tư, dẫn đến luật thiếu hiệu lực, chậm đi vào cuộc sống... cản trở sự vận hành
của các hoạt động KT-XH. Chất lượng nguồn nhân lực cũng bộc lộ nhiều yếu kém, với
sự hụt hẫng về kỹ năng lao động, nhất là thiếu chuyên gia, thợ lành nghề, làm giảm tiến
độ triển khai các dự án công nghệ cao của DN ĐTNN. Sự thiếu hụt, yếu kém, của hệ
thống kết cấu hạ tầng đã gây ra nỗi lo ngại triền miên của giới đầu tư, thậm chí gây thiệt
hại cho họ về chi phí và thời gian, làm đội giá sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, đã có
những cơ hội để cải thiện tình hình này khi một số dự án hạ tầng quy mô lớn đang trong
giai đoạn hoàn thiện nghiên cứu để triển khai như đường sắt, đường bộ cao tốc Bắc-
Nam, đường Hà Nội-Thái Nguyên, các dự án nâng cấp và mở rộng sân bay, cảng biển
trên phạm vi cả nước…
2.1.3. Tổng quan về môi trường kinh doanh 2008 tại Việt Nam
Cuộc điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2008 nhận được sự hưởng ứng của
254 doanh nghiệp tăng 10% so với 234 doanh nghiệp năm 2007. Trong đó có 77% là
doanh nghiệp trong nước và 23% là doanh nghiệp nước ngoài. Mục đích của cuộc điều
tra là nhằm hiểu rõ hơn quan điểm, cảm nhận của các doanh nghiệp về môi trường kinh
doanh hiện nay, kế hoạch phát triển doanh nghiệp trong vòng 3 năm tới, và xác định
những lĩnh vực chủ chốt cần cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
2.1.3.1. Cảm nhận về môi trường kinh doanh hiện tại.
Cảm nhận chung của doanh nghiệp tham gia điều tra, cả trong nước lẫn ngoài nước là
môi trường kinh doanh năm 2008 kém thuận lợi hơn so với các năm trước. Các doanh
nghiệp cũng bày tỏ những lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô kém ổn định và những dấu
hiệu của các tác động tiêu cực đang gây ảnh hưởng cho nền kinh tế. Đánh giá năm 2008
thấp hơn nhiều so với năm 2007 (1.9/4 năm 2008 so với 2.7/4 năm 2007) - cho thấy môi
trường kinh doanh 12 tháng qua có rất nhiều thách thức cho các doanh nghiệp.
2.1.3.2. Kỳ vọng về môi trường kinh doanh tương lai.
Mặc dù các doanh nghiệp không đánh giá cao triển vọng môi trường kinh doanh trong
năm 2008 này, nhưng cả doanh nghiệp trong và ngoài nước đều lạc quan hơn về môi

trường kinh doanh của những năm sắp tới - thể hiện qua mới xếp hạng cao hơn cho năm
2009, và mức xếp hạng của năm 2010 -2011 đã quay trở lại mức lạc quan của năm
2007. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp tin tưởng vào khả năng Việt Nam sẽ vượt
qua các thách thức, bình ổn kinh tế vĩ mô, và môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện
hơn trong thời gian tới.

Biểu 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm
Bảng 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm
Năm 2007 2008 2009 2010-2011
Chung 2.67 1.89 2.33 2.79
Nước ngoài 5.59 1.87 2.22 2.63
Trong nước 2.7 1.91 2.38 2.84
Nguồn: Báo cáo điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh 2008
Kết quả điều tra năm nay cho thấy nhìn chung có sự nhất quán cao trong đánh giá của
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Điều này tương đồng với xu hướng ghi nhận
được trong năm 2007, chứng tỏ sân chơi giữa các doanh nghiệp nước ngoài và trong
nước ngày càng bình đẳng hơn. Đây chắc chắn là một phần kết quả của việc gia nhập
Tổ chức thương mại Thế giới WTO của Việt Nam thời gian gần đây.
2.1.3.3. Cảm nhận về từng chỉ số riêng biệt của môi trường kinh doanh.
Các doanh nghiệp được yêu cầu đánh giá về 13 chỉ số môi trường kinh doanh ở Việt
Nam theo mức độ từ 1 đến 4 trong đó 4 là rất tổt, 3 là tốt, 2 là kém, 1 là rất kém.
Trong tất cả các chỉ số, “Tiếp cận thông tin“ đạt điểm tốt nhất 2,45/4 và “cơ sỏ hạ tầng“
đạt điểm kém nhất 1,94/4.
Những lĩnh vực mà doanh nghiệp đánh giá kém nhất, đồng thời cũng là những lĩnh vực
cần phải cải thiện nếu Việt Nam muốn duy trì tính cạnh tranh của mình là:
1. Cơ sở hạ tầng (1,94/4)
2. Bảo vệ sở hữu trí tuệ (IPR) (1,79/4).
3. Hệ thống toà án (2,11/4)
4. Hiệu quả của dịch vụ hành chính (2,14/4)
5. Nguồn cung lao động có tay nghề chuyên môn cao (2,18/4)

Biểu 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007
Bảng 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007
Chung Nước ngoài Trong nước
Cơ sở hạ tầng 1.94 1.77 1.98
Bảo vệ sở hữu trí tuệ. 1.97 1.9 1.99
Hệ thống toà án 2.11 1.82 2.18
Dịch vụ hành chính 2.14 1.92 2.21
Nguồn lao động có tay
nghề.
2.18 2.4 2.11
Tiếp cận đất đai 2.23 2.17 2.24
Tiếp cận ngoại hối. 2.3 2.37 2.27
Khung pháp lý. 2.31 2.13 2.37
Hệ thống thuế 2.34 2.27 2.36
Tiếp cận tài chính. 2.35 2.22 2.39
Chi phí hoạt động kinh
doanh.
2.38 2.54 2.34
Quản lý kinh tế vĩ mô. 2.4 2.31 2.43
Khả năng cạnh tranh
khu vực
2,43 2.58 2.38
Tiếp cận thông tin 2.45 2.26 2.51
Nguồn: Báo cáo điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh 2008
2.1.3.4. Những tiến bộ đáng kể trong cải thiện môi trường kinh doanh.
Gần 1 nửa (45%) doanh nghiệp ghi nhận có sự tiến bộ trong thủ tục hành chính và gia
nhập thị trường, phản ánh nỗ lực không ngừng của chính phủ trong lĩnh vực này, đặc
biệt là việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc thành lập doanh nghiệp
thông qua cơ chế 1 cửa trong khâu đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, những phản hồi về
một số lĩnh vực khác như Nguồn cung lao động hay Nộp thuế ít khả quan hơn.

Điều đáng chú ý là 5 lĩnh vực được đánh giá là ít có cải thiện nhất năm 2007 vẫn giữ
nguyên trong năm 2008 cho thấy nỗ lực cải cách trong các lĩnh vực này còn chậm và
chưa hiệu quả.
Các doanh nghiệp nước ngoài ghi nhận những chuyển biến tích cực trong việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn và cải tiến hệ thống luật lệ kinh doanh phù
hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đây chính là kết quả tác động trực tiếp của việc gia nhập
WTO mang lại. Có 46,6% các doanh nghiệp nước ngoài cảm nhận được các thay đổi
tích cực trong đối xử bình đẳng hơn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, và 39,6% tham gia điều tra ghi nhận có cải thiện trong lĩnh vực
“Tăng cường tuân thủ các qui tắc và thông lệ kinh doanh quốc tế“.
2.2. Ảnh hưởng của quá trình cải thiện môi trường đầu tư
tới FDI giai đoạn 1988 - 2008
2.2.1. Tình hình thu hút FDI đăng ký từ 1988 - 2008.
2.2.1.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 – 2008.
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn 1998-2008
(tỷ USD)
1988-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008
số dự án 214 1409 1402 1234 3873
vốn đăng kí 1.6 18.3 25.5 20.8 97.6
Nguồn: Cục ĐTNN Bộ Kế hoạch và đầu tư
Biểu 2.3. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn
1988-2008
Biểu 2.4. Vốn đăng kí phân theo giai đoạn 1988-2008
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ
USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đó tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như
là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng

vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi
trường đầu tư - kinh doanh tại Việt Nam đó bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu
tư - kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá
nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan
tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu
kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp
5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng
45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ
USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8%
năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn
vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những
năm trước đó phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài
chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông) do tác động của cuộc khung hoảng tài chính
trong khu vực.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi
chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999;
năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6%
so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu
hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm
2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4.
Trong hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO vốn đăng ký liên tục đạt mức kỷ lục kể
từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài. Năm 2007, vốn đăng kí liên tục lập kỉ lục mới
với 21,3 tỷ USD, tăng 71% so với năm 2006. Riêng năm 2008, vốn đăng kí đã đạt trên
64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007.
Như vậy, chỉ trong 2 năm 2007 và 2008 tổng vốn đăng kí là 85,3 tỷ USD.
Biểu 2.5. Qui mô vốn đăng kí bình quân (triệu USD)
Bảng 2.4. Qui mô vốn bình quân các dự án FDI giai đoạn 1988-2008
(triệu USD)
Giai đoạn 1988-19901991-19951996-20002001-20052006-2007 2008

qui mô vốn đầu
tư bình quân
7.5 11.6 12.3 8.9 14.4 60
Nguồn: Cục ĐTNN - Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng
như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn
đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng”
trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn
đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký
bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đó tăng lên 12,3
triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô
lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên,
quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005.
Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có
quy mô vừa và nhỏ. Qui mô vốn đầu tư trung bình của một dự án tăng lên rất nhanh
trong thời gian gần đây, từ mức 14,4 triệu USD/dự án trong 2006 và 2007 đã tăng lên
gần 60 triệu USD/dự án trong năm 2008 thể hiện số lượng dự án được cấp giấy chứng
nhận đầu tư có vốn đầu tư đăng ký hàng trăm triệu đến trên một tỷ USD tăng nhanh.
2.2.1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư.
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả
đã mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001
trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng

×