Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Thực trạng hoạt động xuất khẩu phần mềm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.83 KB, 44 trang )

Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Thực trạng hoạt động xuất khẩu phần mềm Việt
Nam
I. Vài nét về hoạt động sản xuất và xuất khẩu phần
mềm của một số nớc tiêu biểu trên thế giới
Nói đến CNpPM và XKPM, ngời ta thờng nghĩ ngay đến Mỹ, nớc có nền sản xuất
phần mềm (SXPM), xuất khẩu phần mềm lớn nhất thế giới và ấn Độ, một quốc gia
đang phát triển thành công nhất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, với mục đích phân
tích thực trạng SXPM và XKPM một số nớc trên thế giới để từ đó có một cái nhìn
khách quan hơn về hoạt động SXPM và XKPM Việt Nam, xin đợc đi sâu tim hiểu
lĩnh vực này của Nhật Bản và ấn Độ - hai nớc cùng thuộc khu vực châu á và cùng
có khá nhiều điểm tơng đồng với chúng ta. Nhật Bản một quốc gia đã phát triển
và ấn Độ một quốc gia đang phát triển sẽ là những thớc đo chính xác để đánh giá
hoạt động SXPM và XKPM Việt Nam.
1. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu phần mềm của Nhật
Bản
1.1.
Hoạt động sản xuất phần mềm của Nhật Bản
Từng làm cả thế giới kinh ngạc khi vơn lên thành cờng quốc kinh tế đứng thứ hai
thế giới từ một nớc bại trận trong Đại chiến II, Nhật Bản là một quốc gia rất năng
động. Với tính năng động này, Nhật Bản ngay từ đầu đã bắt đợc với nhịp phát triển
của ngành công nghệ thông tin. Trong nhiều năm liền, doanh thu từ ngành dịch vụ
thông tin nớc này luôn đứng ở vị trí thứ ba, sau ngành công nghiệp chế tạo và tài
chính/ bảo hiểm. ở đây, ngành công nghiệp dịch vụ thông tin đợc hiểu là ngành
CNpPM Nhật Bản (sản xuất sản phẩm phần mềm và cung cấp dịch vụ có liên
quan). Do tôn trọng quyền tác giả của Báo cáo về ngành dịch vụ CNTT Nhật
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Bản năm 2003 (Information Technology Services Industry 2003 Annual
Report), xin đợc giữ nguyên thuật ngữ ngành công nghiệp dịch vụ CNTT.
Báo cáo này dựa trên Bản tổng kết về những ngành dịch vụ tiêu biểu của năm
2001 (Report on the selected service industries for 2001) do Bộ kinh tế, thơng mại


và công nghiệp Nhật Bản thực hiện tháng 12/2002 để đa ra đánh giá về quy mô, cơ
cấu sản phẩm và nguồn nhân lực trong nội bộ ngành này của Nhật Bản.
1.1.1. Quy mô ngành công nghiệp dịch vụ của CNTT Nhật Bản
Doanh thu toàn bộ ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản năm 2001 là
13.703,9 tỷ yên, tăng 18,2% so với năm trớc với mức đóng góp vào tổng GDP là
2,7%(trong khi năm trớc mới là 2%). Nh vậy, kể từ năm 1995, doanh thu ngành này
liên tục tăng (xem biểu 1).
Sự phát triển của ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản là điều không phải
bàn cãi. Không chỉ doanh thu (số lợng) mà cả tính tập trung (chất lợng) của ngành
này cũng ngày càng cao: số công ty giảm nhng doanh số của mỗi công ty và quy
mô hoạt động lại tăng. Năm 2001, số công ty hoạt động trong ngành này giảm
1,5% so với năm trớc. Trong số này, số công ty có ít hơn 30 ngời làm việc chiếm
hơn một nửa còn công ty có từ 300 ngời trở lên chỉ chiếm 4,5%. Còn số ngời làm
việc trong ngành năm 2000 là 565.111 ngời, tăng 1% so với năm trớc trong khi tổng
nhân công của Nhật Bản giảm 340.000, tức 0,5%. Do đó, tỷ lệ nhân công trong
ngành dịch vụ thông tin so với tất cả các ngành là 0,88%, tăng so với năm trớc
(0,85%). Nhìn chung trong nhiều năm, số lao động làm việc trong ngành dịch vụ
CNTT Nhật Bản đều tăng (xem biểu 2) trong khi số nhân công trung bình của một
công ty luôn xấp xỉ 70.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Biểu 1: Doanh thu ngành công nghiệp dịch vụ CNTT và GDP Nhật Bản giai
đoạn 1992 - 2001
(Số liệu năm 1992 đợc coi là 100)
Chú thích:
: GDP danh nghĩa của Nhật Bản
: Doanh thu ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản
: Doanh thu bán máy tính và thiết bị ngoại vi
Nguồn: Báo cáo về những ngành dịch vụ tiêu biểu năm 2001 của Bộ kinh tế, th-
ơng mại và công nghiệp Nhật Bản (tháng 12/2002).
1.1.2. Cơ cấu nguồn nhân lực ngành công nghiệp dịch vụ CNTT của Nhật

Bản
Trong cơ cấu nguồn nhân lực ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản, kỹ s hệ
thống chiếm tỷ lệ lớn nhất, tiếp đến là lập trình viên và nhân viên quản lý, kinh
doanh. Lợng kỹ s hệ thống và lập trình viên tăng đều qua các năm. Số lợng kỹ s hệ
thống năm 2001 là 224237, tăng 0,7% so với năm trớc. Trung bình cứ 3 nam thì t-
ơng ứng có 1 nữ làm việc trong ngành này. Tuổi nghề trung bình của cả nam và nữ
là 33,8.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Biểu 2: Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp dịch vụ CNTT và trong
toàn nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1992 2001
(Số liệu năm 1992 đợc coi là 100)
Chú thích:
: Số lao động trong toàn nền kinh tế Nhật Bản
: Số lao động làm việc trong ngành dịch vụ CNTT
Nguồn: Báo cáo về những ngành dịch vụ tiêu biểu năm 2001 của Bộ kinh tế, th-
ơng mại và công nghiệp Nhật Bản (tháng 12/2002).
1.1.3. Cơ cấu sản phẩm ngành công nghiệp dịch vụ CNTT của Nhật Bản
Sản phẩm và dịch vụ chính của ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản là dịch
vụ xử lý thông tin, dịch vụ cơ sở dữ liệu, điều khiển hệ thống, kết quả điều tra khác,
phần mềm chuyên dụng, sản phẩm phần mềm. Trong đó, doanh số phần mềm phục
vụ khách hàng lớn nhất, tiếp đến là dịch vụ xử lý thông tin, sản phẩm phần mềm và
dịch vụ điều khiển hệ thống. Đáng chú ý là trong những năm gần đây, phần mềm
trò chơi chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong cơ cấu sản phẩm phần mềm. (xem biểu 3)
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Biểu 3: Cơ cấu doanh thu ngành công nghiệp dịch vụ CNTT Nhật Bản giai
đoạn 1997 2001
Đơn vị: 100 triệu yên
Chú thích:
Dịch vụ xử lý thông tin Dịch vụ cơ sở dữ liệu
Phần mềm chuyên dụng Kết quả điều tra khác

Sản phẩm phần mềm Các sản phẩm khác
Điều khiển hệ thống
Nguồn: Báo cáo về những ngành dịch vụ tiêu biểu năm 2001 của Bộ kinh tế, th-
ơng mại và công nghiệp Nhật Bản (tháng 12/2002).
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
1.2.
Hoạt động xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản
Với một nền công nghiệp phát triển thì việc sản phẩm đợc xuất khẩu đi các nớc
khác là điều đơng nhiên. Sản phẩm phần mềm Nhật Bản xuất đi các nớc chủ yếu d-
ới hình thức xuất khẩu phần mềm đóng gói. Dới đây xin đợc đi sâu phân tích hoạt
động xuất khẩu phần mềm đóng gói của Nhật Bản, mà cụ thể là của các thành viên
thuộc ba tổ chức trong lĩnh vực ICT Nhật Bản: Hiệp hội công nghiệp dịch vụ CNTT
Nhật Bản (JISA), Hiệp hội công nghiệp dịch vụ CNTT và điện tử Nhật Bản (JEITA)
và Hiệp hội phần mềm máy tính cá nhân Nhật Bản (JPSA). Do quy mô hoạt động
rộng lớn của ba tổ chức này, số liệu về hoạt động xuất khẩu phần mềm đóng gói
của các công ty thành viên có thể cho ta một cái nhìn khá khái quát và chính xác về
toàn bộ hoạt động xuất khẩu phần mềm Nhật Bản.
1.2.1. Quy mô xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản
Có thể nói kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản kể từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu á khá ổn định. Việc kim ngạch năm 2000 giảm chút ít
là điều khó tránh khi xét tới tình hình CNTT chung trên thế giới.(Bảng 4)
Tuy quy mô xuất khẩu phần mềm đóng gói Nhật Bản luôn giữ ổn định ở mức khá
cao so với thế giới nhng so với nhập khẩu, mức chênh lệch vẫn rất lớn. Điều này
cho thấy Việt Nam có rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trờng Nhật Bản và các thị tr-
ờng khác trên thế giới.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu phần mềm của Nhật Bản
giai đoạn 1994 2000
Năm
Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu XK NK

(triệu Yên)
STĐ
(triệu Yên)
% tăng tr-
ởng
STĐ
(triệu Yên)
% tăng trởng
1994 5491 - 259,474 -
-253,983
1995 3931 71,59 392,576 151,30
-388,645
1996 5679 144,47 393,540 100,25
-387,861
1997 2812 49,52 474,913 120,68
-472,101
1998 8752 311,24 595,165 125,32
-586,413
1999 9292 106,17 720,104 120,99
-710,812
2000 8981 96,65 918,860 127,60
-909,879
Nguồn: Báo cáo về những ngành dịch vụ tiêu biểu năm 2001 của Bộ kinh tế, th-
ơng mại và công nghiệp Nhật Bản (tháng 12/2002).
1.2.2. Cơ cấu xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản
Không giống nh Mỹ đi từ nghiên cứu cơ bản đến phát minh, cải tiến rồi ứng dụng,
Nhật Bản đi từ ứng dụng, cải tiến rồi mới phát minh. Chính vì vậy mà trong cơ cấu
phần mềm đóng gói Nhật Bản xuất sang các nớc, phần mềm ứng dụng chiếm tỷ lệ
lớn nhất rồi đến phần mềm cơ bản và phần mềm chuyên dụng. (Biểu 4)
Phần mềm ứng dụng

Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu phần mềm ứng dụng là 5,18 tỷ yên, tuy giảm so
với năm trớc 86% nhng vẫn chiếm 57,6% tổng kim ngạch xuất khẩu phần mềm.
Thị trờng xuất khẩu phần mềm ứng dụng lớn nhất của Nhật Bản là Châu âu (năm
2000 xuất đợc 2 tỷ yên, tơng ứng với thị phần là 38,4%). Vị trí thứ hai là Mỹ với
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
kim ngạch là 1,98 tỷ yên tơng đơng với 38,1%. Châu á chỉ nhập 1,16 tỷ yên phần
mềm ứng dụng của Nhật Bản với thị phần là 22,3%.
Phần mềm cơ bản
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu phần mềm cơ bản là 3,45 tỷ yên, tơng đơng với
38,4%. Ngợc với phần mềm ứng dụng, nớc nhập khẩu phần mềm cơ bản của Nhật
nhiều nhất là Mỹ (năm 2000 Nhật xuất sang Mỹ đợc 1,85 tỷ yên chiếm thị phần
53,7%). Đứng thứ hai là thị trờng Châu Âu với kim ngạch năm 2000 là 0,96 tỷ yên
tơng ứng với 27,7%. Kim ngạch xuất sang thị trờng Châu á vẫn đứng vị trí thứ ba,
đạt 0,5 tỷ yên năm 2000 tơng đơng với 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu phần mềm
cơ bản của Nhật.
Phần mềm chuyên dụng
Kim ngạch xuất khẩu phần mềm chuyên dụng thấp nhất (năm 2000 chỉ đạt 0,36 tỷ
yên, tuy đã bằng 229% năm trớc nhng chỉ tơng ứng với 4%). Điều đáng chú ý là
xuất khẩu phần mềm loại này đang phát triển theo xu hớng khả quan, kim ngạch
tăng cả ở thị trờng Mỹ, Châu Âu và Châu á. Đặc biệt là Mỹ, trong khi năm 1999
không nhập khẩu phần mềm loại này của Nhật bản thì kim ngạch năm 2000 đã là
0,11 tỷ yên. Khu vực nhập khẩu phần mềm này lớn nhất của Nhật Bản không phải
là Mỹ, cũng không phải là Châu Âu mà là Châu á (kim ngạch xuất khẩu sang Châu
á năm 2000 là 53,5%). Đứng thứ hai là Mỹ và cuối cùng là Châu Âu.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Biểu 4: Cơ cấu xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản giai đoạn 1994 -2000
Nguồn: Báo cáo về ngành dịch vụ CNTT Nhật Bản năm 2003
1.2.3. Thị tr ờng xuất khẩu phần mềm của Nhật Bản
Nớc nhập khẩu phần mềm lớn nhất của Nhật là Mỹ, năm 2000 chiếm tới 43,8% tức
tơng đơng với 3,93 tỷ yên (tăng 121% so với năm trớc). Đứng thứ hai là Châu Âu

với mức 3 tỷ yên (tăng 196%). Châu á đứng thứ ba với kim ngạch 1,84 tỷ yên (chỉ
bẳng 44% năm trớc). Các thị trờng còn lại chỉ khoảng 0,2 tỷ yên.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Biểu 5:Thị trờng xuất khẩu phần mềm Nhật Bản giai đoạn 19942000
Triệu Yên
Nguồn: Báo cáo về ngành dịch vụ CNTT của Nhật Bản năm 2003
Nhìn chung, hoạt động SXPM và XKPM Nhật Bản hoàn toàn xứng đáng với tầm
vóc một cờng quốc đứng thứ hai trong nền kinh tế thế giới. Tuy vậy, trong những
năm gần đây, việc quy mô ngành này của Nhật Bản chỉ giữ nguyên chứ không mở
rộng cho thấy có thể CNpPM Nhật Bản đã đạt đến độ chín. Điều này cùng đồng
nghĩa với một triển vọng tốt đẹp cho các nớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam
chúng ta.
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
2. Hoạt động sản xuất và xuất khẩu phần mềm của ấn Độ
Hoạt động sản xuất phần mềm của

n Độ
Với kim ngạch xuất khẩu dự kiến năm 2008 là 50 tỷ USD, doanh số bán trong nớc
đạt 35 tỷ USD (theo Chủ tịch hiệp hội NASSCOM National Association of
Software & Service Companies), sự thành công của ấn Độ là đích phấn đấu không
chỉ của các nớc đang phát triển mà của cả một số nớc đã phát triển nh Đông Âu,
Châu Mỹ La Tinh Thành quả này có đợc do rất nhiều lý do. Song có lẽ một trong
những lý do quan trọng nhất là định hớng đúng đắn từ phía nhà nớc.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của thông tin, của tri thức và công nghệ, ngay từ
năm 1985, chính phủ ấn Độ đã giành rất nhiều u đãi cho ngành CNpPM nh bãi bõ
các giấy phép liên quan đến CNpPM, cho phép nhập khẩu miễn thuế các sản phẩm
phục vụ cho CNpPM, kích cầu thị trờng CNpPM trong nớc... Chính vì thế, cả thị tr-
ờng nội địa lẫn thế giới đều đợc quan tâm thích đáng.
Quy mô ngành CNpPM ấ n Độ
Trong nhiều năm liền doanh số ngành CNpPM tăng đều đặn. Sự phát triển này đợc

chia làm 4 giai đoạn : 1985 đến 1995, 1996 đến 2000, 2000 đến 2004 và 2005 đến
2007. Giai đoạn 1985 đến 1995 là thời kỳ đầu của công cuộc xây dựng CNpPM
thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Vì thế, doanh thu hàng năm giai đoạn này
không đáng kể. Từ năm 1996, CNpPM mới bắt đầu bớc vào pha tăng trởng. Doanh
thu hàng năm giai đoạn 1996 2000 luôn ở mức trên một tỷ USD.
Bảng 5: Công nghiệp phần mềm ấn Độ giai đoạn 1993 1999
Năm tài
chính
Kim ngạch xuất
khẩu( triệu USD)
Doanh số trong n-
ớc(triệu USD)
Tổng doanh số
(triệu USD)
Nhân công
(ngời)
DSTB/ nhân viên
(USD)
STĐ % tăng trởng STĐ % tăng trởng STĐ % tăng trởng STĐ % tăng trởng STĐ % tăng tr-
ởng
1993 330 228 558 90000 6199
1994 485 146,97 341 149,56 826 148,03 118000 131,11 6998 112,89
1995 734 151,34 515 151,03 1249 151,21 140000 118,64 8924 127,52
1996 1085 147,82 681 132,23 1766 141,39 160000 114,29 11306 126,69
1997 1800 165,90 900 132,16 2700 152,89 180000 112,50 15000 132,67
1998 2600 144,44 1223 135,89 3823 141,59 - - - -
1999 - - - - 6000 - - - - -
Nguồn: Toàn cầu hóa công nghệ thông tin và xuất khẩu công nghệ phần mềm
Hà Dơng Tuấn tháng 5/2000
T

h

c

t
r

n
g

v
à

t
r
i

n

v
35
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Bớc sang thế kỷ 21, quy mô ngành CNpPM vẫn tiếp tục tăng, bất chấp tình hình trì
trệ của nền công nghiệp CNTT toàn cầu. Doanh số hàng năm toàn ngành giai đoạn
2001 2004 đạt trên 6 tỷ USD. Với đà này, ớc tính con số này giai đoạn 2005
2007 sẽ là hơn 14 tỷ USD.
15
Việc quy mô ngành CNpPM ấn Độ mở rộng không chỉ thể hiện ở sự gia tăng
doanh số mà còn ở quy mô lao động. Số lợng nhân công làm việc trong ngành tăng

đều qua các năm. Do tốc độ tăng doanh số lớn hơn tốc độ tăng nhân công nên năng
suất lao động bình quân cũng tăng. Điều này cho thấy ngành CNpPM ấn Độ không
chỉ phát triển về mặt số lợng mà cả về chất lợng.
Đáng chú ý là cùng với việc quy mô liên tục tăng, tỷ thị trờng nội địa so với xuất
khẩu vẫn luôn giữ vững ở mức 70% (trừ giai đoạn 1998 1999, tỷ lệ này chỉ là
47% do ảnh hởng của Y2K). Có thể thấy ngành CNpPM ấn Độ phát triển rất cân
đối, u tiên xuất khẩu nhng không quá phụ thuộc vào xuất khẩu. Đây là một thành
công mà không phải quốc gia nào cũng đạt đợc.
Chất l ợng sản phẩm phần mềm của ấ n Độ
Ngay khi bắt tay xây dựng ngành CNpPM, ấn Độ đã ý thức rất rõ rằng để có đợc
chỗ đứng trên thị trờng quốc tế, không có gì ngoài cách xây dựng chữ tín bằng chất
lợng. Với quan điểm này, NASCOM đã giúp đỡ các doanh nghiệp lập hồ sơ tiêu
chuẩn chất lợng ISO 9000 để có thể xuất hàng sang các thị trờng khó tính nh Châu
Âu. Năm 1992, Bộ CNTT đã thành lập 4 trung tâm kiểm định chất lợng phần mềm
(STQC) với sự giúp đỡ của Liên minh châu Âu và UNDP. Nhờ vậy mà thơng hiệu
sản phẩm phần mềm ấn Độ ngày càng chiếm lòng tin của khách hàng trên thế giới.
15 Báo cáo toàn ngành Brean Muray 16/06/2003
13
13
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Sở hữu trí tuệ trong CNpPM của ấ n Độ
Nhằm thu hút đầu t nớc ngoài và bảo vệ doanh nghiệp phần mềm trong nớc, ấn Độ
đã ban hành Luật bảo vệ bản quyền máy tính 1994 với chế tài nặng với các hành vi
xâm phạm. Ngoài ra, các doanh nghiệp phần mềm trong và ngoài nớc còn thành
Hiệp hội chống vi phạm tác quyền (INFAST). Kết quả là tỷ lệ xâm phạm tác quyền
ở ấn Độ đã giảm còn 75%. Hớng đầu t này hoàn toàn đúng đắn bởi chỉ khi làm tốt
vấn đề sở hữu trí tuệ mới có thể dễ dàng tiến hành chuyển giao công nghiệp, điều
tối cần thiết đối với một quốc gia đang phát triển. Việc kiểm soát gắt gao tác quyền
cho phép ấn Độ chớp lấy cơ hội tiếp cận với công nghệ mới, vợt lên tất cả các quốc
gia đang phát triển khác xây dựng một nền CNpPM hùng mạnh.

Nguồn nhân lực trong CNpPM của ấ n Độ
ấn Độ rất chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đây là một quyết định rất
khôn ngoan bởi hơn tất cả các nguồn lực khác nh tài nguyên, vốn, nhân lực là
nguồn lực quan trọng nhất. Điều này càng có ý nghĩa với một ngành công nghiệp
không hề phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên nh CNpPM. Ngay từ năm 1990, ấn
Độ đã dành 25 triệu USD trong khoản vay 210 triệu USD dành riêng cho CNTT để
hỗ trợ giảng dạy cho 32 cơ sở đào tạo của các trờng đại học và dạy nghề, cụ thể là
nhập học cụ, giáo trinh, mở khóa huấn luyện giảng viên do ấn kiều và ngời nớc
ngoài đến giảng Ngoài ra, các doanh nghiệp còn chủ động vay số tiền còn lại để
cử nhân viên theo học các khóa đào tạo nhân lực do những trung tâm đào tạo quốc
tế uy tín nh MAIT, TCS tổ chức. Bộ CNTT còn ký kết hợp đồng với các công ty
viễn thông để sử dụng băng thông nhàn rỗi vào mục đích đào tạo nhân lực phần
mềm qua mạng.
Có thể thấy, hoạt động sản xuất phần mềm ấn Độ đợc tổ chức tốt về mọi mặt.
14
14
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
2.2.
Hoạt động xuất khẩu phần mềm của

n Độ
2.2.1. Quy mô xuất khẩu phần mềm của ấ n Độ
Chính nhờ đầu t đúng hớng cho sản xuất phần mềm, ấn Độ đã giành đợc vị thế
đáng nể trên thị trờng quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm tăng đều đặn qua
các năm. Tính đến hết năm tài chính 2002 2003, kim ngạch xuất khẩu phần mềm
ấn Độ đã đạt 9,5 tỷ USD. Ước tính hết năm tài chính 2003 2004, con số này sẽ
tăng 26% - 28% lên 12 tỷ USD (riêng xuất khẩu phần mềm tăng 17%) bất chấp
những bất ổn kinh tế toàn cầu và đồng rupee tăng giá. (Biểu 6)
Biểu 6: Xuất khẩu phần mềm ấn Độ giai đoạn 1991 2003
Đơn vị: Tỷ USD


Nguồn: Báo cáo toàn ngành (Industry report) Brean Murray 16/06/2003
2.2.2. Thị tr ờng xuất khẩu phần mềm của ấ n Độ
Trong các thị trờng chính của ấn Độ, Mỹ luôn đứng vị trí số 1. Kim ngạch xuất
khẩu phần mềm nớc này sang Mỹ năm tài chính 2002 2003 đạt 71%. Đứng ở vị
trí thứ hai là thị trờng Anh với kim ngạch đạt 14% tổng kim ngạch xuất khẩu của
15
15
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
ấn Độ, tơng đơng 59% kim ngạch xuất khẩu sang các nớc Châu Âu. Kim ngạch
xuất sang các nớc châu Âu khác chỉ đạt 9%, trong đó lớn nhất là Đức, rồi đến Bỉ,
Hà Lan. Kim ngạch xuất sang các nớc còn lại cộng lại chỉ đợc 6%.
Thành công của hoạt động XKPM ấn Độ là điều không ai có thể phủ nhận. Tuy
vậy, điều này không có nghĩa là không còn cơ hội nào cho các nớc khác, cho Việt
Nam chúng ta. Cơ hội sẽ vẫn đến với những nớc biết đầu t đúng hớng cho SXPM,
hỗ trợ hiệu quả cho XKPM. Cụ thể triển vọng phát triển SXPM và XKPM của Việt
Nam nh thế nào? Để có câu trả lời chính xác xin đi sâu phân tích thực trạng XKPM
nớc ta hiện nay.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu phần mềm của
Việt Nam
Muốn bán đợc hàng phải có hàng tốt. Muốn hoạt động xuất khẩu phát triển phải có
một nền sản xuất lớn mạnh. Hơn nữa, một đặc thù của ngành CNpPM trên thế giới
cũng nh Việt Nam là các doanh nghiệp sản xuất kiêm luôn hoạt động kinh doanh,
xuất khẩu chứ không phân ra doanh nghiệp sản xuất riêng, xuất khẩu riêng. Vì thế,
xin đợc điểm qua thực trạng sản xuất phần mềm Việt Nam trớc khi đi sâu phân tích
hoạt động xuất khẩu phần mềm Việt Nam nói chung. Đồng thời, cũng xin đợc phân
tích hoạt động xuất khẩu phần mềm ở công ty FPT công ty xuất khẩu phần mềm
lớn nhất Việt Nam hiện nay nhằm đa ra đợc một nhận xét sâu sắc nhất về tình hình
xuất khẩu phần mềm nớc ta.
1. Vài nét về nền sản xuất phần mềm của Việt Nam

Với chủ trơng phát triển công nghiệp CNTT trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
trong đó u tiên CNpPM, rất nhiều biện pháp u đãi và khuyến khích đầu t đã đợc áp
dụng. Quy mô nền sản xuất phần mềm Việt Nam vì thế cũng mở rộng dần qua các
năm về cả phơng diện doanh số, lao động và số lợng công ty trong ngành.
16
16
Thực trạng và triển vọng xuất khẩu phần mềm ở Việt Nam
Năm 2000, doanh số toàn ngành sản xuất phần mềm Việt Nam mới đạt 50 triệu
USD thì năm 2001 đã lên 60 triệu USD và năm 2002 là 75 triệu USD. Tốc độ tăng
trởng trung bình ngành CNpPM giai đoạn này là 22,4%. Đáng nói là tốc độ này
cao hơn tốc độ tăng trởng CNpPC nên tỷ trọng doanh thu CNpPM trong cơ cấu
doanh thu toàn ngành CNTT cũng ngày càng tăng. Tuy vậy, so mặt bằng chung của
thế giới là 49%, tỷ trọng này vẫn còn rất thấp.
Bảng 6: Cơ cấu doanh thu CNpCNTT Việt Nam giai đoạn 2000 - 2002
Năm
2000 2001 2002
STĐ
TT
STĐ
TT
STĐ
TT
Phần mềm/ dịch vụ 50
16,67
60
17,65
75
18,75
Phần cứng 250
83,33

280
82,35
325
81,25
Tổng 300
100,00
340 100,00 400 100,00
Nguồn: Báo cáo toàn cảnh CNTT Việt Nam 2003 Diễn đàn CNTT Việt Nam
2003 - Lê Trờng Tùng HCA
Song song với sự gia tăng doanh số là sự gia tăng số lợng doanh nghiệp hoạt động
trong ngành. Hiện cả nớc có 2.500 đơn vị đăng ký làm phần mềm và với những chế
độ u đãi nh hiện nay, sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp đăng ký hoạt động để giữ chỗ.
Chẳng hạn nh trong 6 tháng đầu năm 2003, riêng tại TP. HCM đã có 250 đơn vị
mới đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh CNTT, trong đó có 90 đơn vị đăng ký
sản xuất dịch vụ phần mềm. Ước tính trong toàn bộ năm 2003, cả nớc sẽ có
khoảng 350 đơn vị đăng ký mới. Nhng trong số 2500 đơn vị hiện nay chỉ có 400
doanh nghiệp thực sự hoạt động. Với đà này, trong số những đơn vị sẽ đợc thành
lập, sẽ chỉ có khoảng 35% đơn vị sống đợc, 25% hoạt động rồi ngng. Còn 40% sẽ
đăng ký nhng không hoạt động.
Số lợng các công ty sản xuất phần mềm tăng nhng số lao động trung bình của một
công ty hầu nh không thay đổi. Trong nhiều năm liền, con số này luôn là 20 ngời
bởi tốc độ tăng quy mô lao động xấp xỉ tốc độ tăng số lợng các công ty. Quy mô
hoạt động của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam nói chung còn rất nhỏ.
Bảng 7: Số công ty và nhân sự phần mềm Việt Nam
giai đoạn 1996-2002
17
17

×