Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Tổng hợp câu hỏi triết học mác lê nin ( có đáp án cụ thể )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.08 KB, 42 trang )

Câu 1. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Cho ví dụ?
Nhận thức là gì?
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra
những tri thức về thế giới khách quan đó.
Quá trình nhận thức của con người gồm hai giai đoạn:
– Nhận thức cảm tính: là giai đoạn nhận thức được tạo nên do sự tiếp
xúc trực tiếp của các cơ quan cảm giác với sự vật, hiện tượng, đem lại
cho con người hiểu biết về đặc điểm bên ngoài của chúng.
Ví dụ: Khi muối ăn tác động vào các cơ quan cảm giác, mắt (thị giác)
sẽ cho ta biết muối có màu trắng, dạng tinh thể; mũi (khướu giác) cho ta
biết muối không có mùi; lưỡi (vị giác) cho ta biết muối có vị mặn.
– Nhận thức lý tính: là giai đoạn nhận thức tiếp theo, dựa trên các tài
liệu do nhận thức cảm tính đem lại, nhờ các thao tác của tư duy như:
phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát… tìm ra bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng.
Ví dụ: Nhờ đi sâu phân tích, người ta tìm ra cấu trúc tinh thể và công
thức hóa học của muối, điều chế được muối…
4 vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của
quá trình nhận thức chân lý:
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính
chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối
tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được
khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh
hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích,
nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối
tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm



cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các
quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức,
giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển
của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.
Ví dụ về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX
cũng BẮT NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ. (Hãy cố
gắng lấy Ví dụ khác nhau).
Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức
sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển
của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thức KHÔNG THỂ có được những
tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nến nó xa rời thực tiễn. Vai trò
của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải
coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống
nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm cơ sở
và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng
thì nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
– Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng
phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương

tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri
thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình
nhận thức tiếp theo.


+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con
người phải nhận thức về thế giới.
Ads by optAd360
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và
hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế
giới.
Ví dụ thực tiễn là đông lực của nhận thức
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN
phải “đo đạc diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự
tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” MÀ toán học đã ra đời và phát
triển. (Hãy cố gắng lấy Ví dụ khác nhau).
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn
nhằm cải biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã
cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu
cầu nâng cao năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát
triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo.
Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
Ví dụ thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã
bản đồ gien người cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị
những căn bệnh nan y và từ MỤC ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm

năng bí ẩn của con người…có thể nói, suy cho cùng, không có một lĩnh
vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ một MỤC ĐÍCH nào đó của
thực tiễn, không NHẰM vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. (Hãy cố
gắng lấy VD khác nhau).


– Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân
lý:
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức
đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn
là thước đo chính xác nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác
nhận tri thức đó có phải là chân lý hay không. Mác đã từng khẳng định:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách
quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý”.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý
+ Chân lý có tính cụ thể, có đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung
phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể
+ Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương
đối.
Ví dụ thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Ví dụ: …
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn
quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn.

Ads by optAd360
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành.
Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa
vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
Một số câu hỏi về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức


tại sao nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức
ví dụ về thực tiễn là cơ sở của nhận thức
vì sao nói thực tiễn là mục đích của nhận thức
phân tích vai trò thực tiễn đối với nhận thức
vai trò của nhận thức lý luận khoa học đối với thực tiễn là gì
vì sao thực tiễn được coi là tiêu chuẩn của chân lý
ví dụ chứng minh thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Câu 2. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn. Cho ví dụ?

Mục lục:
1.
Thực tiễn là gì?
2.
Các hoạt động (hình thức) của thực tiễn
3.
Ví dụ về các hoạt động của thực tiễn
4.
Mối quan hệ giữa ba hình thức của thực tiễn
5.
Trong các hình thức của thực tiễn hình thức nào là quan trọng
nhất?

Như vậy, KHÔNG PHẢI MỌI hoạt động có mục đích của con người đều
là thực tiễn. Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt
động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động có mục đích của con
người, song chúng là hoạt động tinh thần, là hoạt động trong hệ thần
kinh trung ương của bộ não người và chúng không phải là thực tiễn.
Các hoạt động (hình thức) của thực tiễn
Thực tiễn có ba hoạt động (hình thức) cơ bản:
– Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là hình thức hoạt động cơ bản,
đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng
những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật


chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của
mình. VD: …
– Hoạt động CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI là hoạt động của các cộng đồng
người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan
hệ chính trị-xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. VD: …
Ads by optAd360
– Hoạt động THỰC NGHIỆM khoa học là một hình thức đặc biệt của
thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.
Dạng hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Ngoài ra, các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, pháp luật,
đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát
triển của xã hội.
(Như vậy, hoạt động NGHIÊN CỨU khoa học không phải là thực tiễn vì
nó là hoạt động tinh thần, diễn ra trong hệ thần kinh trung ương của bộ
não các nhà nghiên cứu. Ở đây cần phân biệt rõ thuật ngữ “nghiên cứu

khoa học” với “thực nghiệm khoa học”. Thực nghiệm khoa học là một
trong ba hình thức cơ bản của thực tiễn vì hoạt động này là sự hiện thực
hóa các nghiên cứu lý luận, phát minh, sáng chế trong phòng thí
nghiệm…). VD: …
(Vì thực tiễn là hoạt động MANG TÍNH LỊCH SỬ – XÃ HỘI của con
người cho nên HOẠT ĐỘNG THỰC
TIỄN CỦA CON NGƯỜI Ở MỖI THỜI ĐẠI LÀ KHÁC NHAU. Từ hoạt
động sản xuất vật chất, cho đến hoạt động chính trị-xã hội và thực
nghiệm khoa học đều mang những đặc trưng của từng thời đại, gắn với
trình độ phát triển nhất định của Lực lượng sản xuất của mỗi thời đại
đó…).
Ví dụ về các hoạt động của thực tiễn
– Hoạt động sản xuất vật chất.


Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công
nhân trong các nhà máy, xí nghiệp…
– Hoạt động chính trị – xã hội.
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn
Thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn.
Người dân thực hiện quyền bầu cử để cử đại diện cho mình tham
gia quản lý nhà nước
– Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để
tìm ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng.mới, vác-xin phòng ngừa
dịch bệnh mới.
Mối quan hệ giữa ba hình thức của thực tiễn
Các hình thức của thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau, cụ thể:
– Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là loại hoạt động có vai trò quan

trọng nhất, đóng vai trò QUYẾT ĐỊNH đối với các hoạt động thực tiễn
KHÁC. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình
thức thực tiễn khác. Các hình thức thực tiễn khác, suy đến cùng cũng
xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản
xuất vật chất. VD:…
– NGƯỢC LẠI, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học có tác dụng kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất
phát triển. VD:…
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản
đó làm cho hoạt động thực tiễn vận động, phát triển và ngày càng có vai
trò quan trọng đối với hoạt động nhận thức.
Trong các hình thức của thực tiễn hình thức nào là quan trọng
nhất?
Trong 3 hình thức (hoạt động) trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai
trò quan trọng nhất, là cơ sở cho các hoạt động khác của con người và
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.



Câu 3. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức

Mục lục:
Lời nói đầu
1.
Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức

1.1. Vật chất quyết định ý thức


1.2. Ý thức tác động trở lại vật chất
2.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay

2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách, kế hoạch, phương hướng, mục tiêu…
đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay

2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống
chủ quan duy ý chí
Kết luận
Lời nói đầu
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan
trọng nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được
mục tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam
mà theo cách nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ, văn minh”. Và cũng chỉ xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới có thể làm thoả mãn ham muốn tột
cùng, ham muốn cuối đời của Người đó là: “Làm sao cho dân ta ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành …”. Vậy chúng ta phải làm
thế nào để thực hiện mục tiêu trên? Từ thực tế hiện nay cùng với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư
bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta phải: dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết
những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những



đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm hiểu
được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam, định ra được đường
lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với tình hình nước ta.
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một công dân của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng mọi
người tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác – Lênin phần chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất với ý thức. Mặt khác, tôi cũng muốn góp một phần công
sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng,
toàn dân ta hiện nay- sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội- mà nền tảng
tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược
cách mạng của chúng ta phải được xuất phát từ thực tế khách quan, phát
huy được tính năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý
chí. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự
thành công hay thất bại trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.
1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức
1.1. Vật chất quyết định ý thức
Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì “Vật
chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác’’. như vậy
định nghĩa vật chất của Lê- nin nổi lên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thứcvà không
phụ thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào

đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người.
Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự
phản ánh của nó.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất
luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình


thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý
thức và nó còn là điều kiện để hiện thực hoá ý thức.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc
tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ
óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Khoa học cũng đã chứng
minh được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng
tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người và bộ óc người, rằng ý thức
ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con người và bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người
diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Bộ não
người bao gồm khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo
nên vô số các mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều
khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể trong quan hệ đối với thế giới
bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Không chỉ có thế, vận động của ý thức, tư duy trên thực tế cũng là sản
phẩm của sự vận động của vật chất. Điều đó được chứng minh một cách
khá rõ ràng ở hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế- xã hội, từ đó sớm hay muộn cũng dẫn
đến sự thay đổi của ý thức, của cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ
cũng quyết định ý thức xã hội.
Vai trò cơ sở, quyết định của vật chất còn được thể hiện ở chỗ nó quyết

định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức.
Ads by optAd360
Từ nội dung thứ hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật chất
mà cái cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó, mà
ta thấy rằng nội dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện
thực khách quan. Hay nói như chủ nghĩa duy vật macxit: Ý thức là sự
phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Chính vì
vậy mà thế giới khách quan như thế nào thì ý thức phản ánh như thế ấy,
không nên phản ánh một cách xuyên tạc, hư ảo, bóp méo sự thật về thế
giới khách quan như việc tô vẽ hình tượng các vị thần linh. Nói cách
khác, nội dung phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề
và bị cái khách quan quy định.


Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng của
bộ não người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ não. ý thức phụ thuộc vào hoạt động của
bộ não, do đó khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không
được bình thường hoặc bị rối loạn.
Mặt khác, trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì
con người trước hết phải được thoả mãn nhu cầu vật chất tối thiểu: ăn, ở,
mặc… rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí, các hoạt động tinh thần.Tức là,
hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến
tự nhiên để thoả mãn nhu cầu sống. Cuộc sống tinh thần của con người
phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật chất và những điều kiện vật
chất hiện có. ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất,
cũng không thay đổi được quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục
tiêu ước muốn của con người không dựa trên điều kiện vật chất hiện có,
trên mảnh đất hiện thực đều là ước mơ chủ quan, không tưởng.

Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của nước
ta. Trước kia do không nhận thức được rằng mọi chủ trương đường lối…
đều phải dựa trên điều kiện vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ trương
phát triển công nghiệp nặng trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có.
Do đó, chúng ta đã bị thất bại.
Không chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý
thức còn được thể hiện ở chỗ vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý
thức. Nó quy định khả năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào
hoạt động của con người. Nó tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần này
hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định
mục đích, chủ trương, biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của
mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá các mục đích,
chủ trương biện pháp đó.
Khi khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của vật chất đối với ý
thức, chủ nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự tác dộng trở
lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.
1.2. Ý thức tác động trở lại vật chất


Ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con người.
Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách
quan theo nhu cầu của mình.
Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác động tiêu
cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan,
kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ
tác động qua lại. Không nhận thức được điều này sẽ rơi vào quan niệm
duy vật tầm thường và bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành

động.
Nói tới vai trò của ý thức về thực cất là nói tới vai trò của con người bởi
ý thức là ý thức của con người.
Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người thành
động lực của lịch sử, Các mac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa nay,
tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được,
trong bất cứ tình
huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm
vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi”. Thật vậy, tư tưởng căn bản
không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có
những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là
con người muốn thực hiện các quy luật khách quan thì phải nhận thức,
vận dụng đúng đắn các quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ
chức hành động. Như vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó giúp con người
đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, những mục đích, kế hoạch, biện
pháp, phương hướng phù hợp với thực tế khách quan. Nói như vậy có
nghĩa là cũng có những ý thức khoa họcvà những ý thức không khoa học
so với hiện thực khách quan, tương ứng với nó là hai tác động trái ngược
nhau tích cực và tiêu cực của ý thức đối với vật chất.
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó hình
thành được mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời có ý
chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt dộng của mình. Sức mạnh cuả ý thức
con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện
thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh


đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ
động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ lợi ích của con
người và xã hội. Con người nhận thức và phản ánh thế giới thế giới

khách quan càng đầy đủ chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có
hiệu quả bấy nhiêu. ở đây vai trò năng động sáng tạo của ý thức, của
nhân tố chủ quan của con người có vị trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì
trệ hoặc tiêu cực thụ động, ỷ lại ngồi chờ chính là kìm hãm sự phát triển,
triệt tiêu tính năng động tích cực sáng tạo của ý thức.
Mặt khác, do có tính vượt trước, nên ý thức giúp cho hoạt động của con
người trở nên tự giác, tích cực, chủ động hơn như trong việc dự báo, lập
kế hoạch, đề ra đường lối, phương pháp hành động.
Vai trò của ý thức còn thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và
ý chí. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn
là động lực của thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt
động thực tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn
ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và bản sắc của
hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt
tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với công việc, khả năng sáng
tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay
chậm. Tuy nhiên, ý chí, tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim
chỉ làm cho hoạt động thực tiễn. Bởi vì, sự thành công hay thất bại của
hoạt động thực tiễn, tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự
phát triển của tự nhiên và xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo ý
thức. Chính vì vậy phải biết kết hợp giữa tri thức, trí tuệ, khoa học với ý
chí, tình cảm. Bởi tri thức càng được tích luỹ, con người ngày càng đi
sâu vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức
là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên và xã hội. Nếu như thế giới vật chất – với những thuộc tính
và quy luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát
từ thực tế khách quan, lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt

động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.


Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Không chỉ có thế, khi vai trò chỉ đạo của ý thức phạm sai lầm thì tinh
thần, dũng cảm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm cũng làm cho hoạt động
thực tiễn thất bại một cách nhanh chóng.
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một ý
nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người như
sau: Mọi hoạt động của con người (cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt
động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được
tính năng động sáng tạo của ý thức, tư tưởng, của nhân tố chủ quan của
con người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
2. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay
2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch, phương hướng, mục tiêu…đúng đắn
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Chúng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa
tư bản như chủ nghĩa tư bản đã thay thế chế độ phong kiến. Đó là quy
luật khách quan của lịch sử loài người. ở nước ta, chủ nghĩa xã hội cũng
nhất định sẽ được xây dựng thành công trong sự gắn bó giữa độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đâu và đi theo con đường nào? Chỉ có thể và phải xuất phát

từ những điều kiện – hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam và


con người Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực thế
giới hiện đại, theo quy luật chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất
phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp – nhất là lực lượng sản xuất. Đó là
tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá phổ
biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn chưa
trở thành phổ biến, thị trường bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép
kín kể cả trong kinh tế đối ngoại. Phương thức tổ chức, quản lý nền kinh
tế dựa trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực lượng sản xuất,
đổi mới phương thức, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm.
Muốn phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, tạo
đường băng để đất nước “cất cánh” một cách hiện thực hướng tới năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá chứ không
dừng lại ở phương hướng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chương
trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác,
chú trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội
trọng điểm, cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng
cũ…
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của
Đảng ta đã khẳng định: con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến,
đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành
tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ

thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong
phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và
công nghệ. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không
có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và
công nghệ mới của thời đại để từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi
phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân tố con người đóng vai trò hết
sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống chính
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ.
Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là, chúng ta lựa
chọn, sử dụng những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trên phương diện này cần phải xem chủ nghĩa tư bản không chỉ
là một đối trọng mà quan trọng hơn đồng thời là một đối tác.
Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội

bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì
không thể không sử dụng chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang
văn minh nhân loại. Như Mac đã nói: “ chúng ta đau khổ vì chủ nghĩa tư
bản và cũng đau khổ vì không có nó”. Tức là, chúng ta đau khổ vì quan
hệ sản xuất sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhưng
có lẽ chúng ta còn đau khổ hơn nếu như không có lực lượng sản xuất
khổng lồ của nó, đó chính là: “Tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết”
(C.Mác và Ph.Ăngghen).
Định hướng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế thừa
và sử dụng lực lượng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong
điều kiện của xã hội tư bản chủ nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa
học, kỹ thuật, và công nghệ – môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều
hình thức cụ thể tác động vào quan điểm phát triển kinh tế, nhất là
những mặt tích cực của nó. Nói như vậy không có nghĩa là lặp lại hoàn
toàn quá trình xây dựng lực lượng sản xuất đó trong lịch sử.
Ở nước ta, lực lượng sản xuất cần phát triển song hành hai phương thức:
tuần tự (từ thủ công đến nửa cơ khí rồi cơ khí) và nhảy vọt theo lối đi


tắt, đón đầu (từ thủ công đi thẳng vào hiện đại) sao cho trong một thời
gian ngắn, thậm chí rât ngắn chúng ta đạt trình độ với các nước tiên tiến
trong khu vực…
Song chúng ta phải biết rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển
gắn liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất

hiện đại tới mức xã hội hoá gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc. Kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản
lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy được mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động,
của toàn thể nhân dân.
Muốn đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có điều kiện tồn tại và phát
triển, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên và khách
quan của các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật
cạnh tranh… trong nền kinh tế. Vì nó là cái khách quan nên chúng ta
phải chú ý không nên đi ngược lại nếu không thì chẳng bao giờ có thể
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là: phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập của
người lao động lên thì mặt trái của nó trong một vài năm trở lại đây đang
được phát huy một cách mạnh mẽ, sự chênh lệch thu nhập dẫn đến sự
phân hoá giàu nghèo trong lao động, tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy
thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước…


Trước thực tế đó, Đảng và nhà nước cần có những biện pháp phân phối
hợp lý, không chỉ có phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế
mà còn phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào

sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Ngoài ra chúng ta cần
có những biện pháp khuyến khích làm giàu một cách chính đáng. Đối
với thu nhập, nhà nước cần có cơ sở điều tiết thu nhập (thuế thu nhập),
cải cách cơ bản chế độ tiền lương. Đối với người nghèo và có hoàn cảnh
khó khăn cần có chính sách xã hội hợp lý: bàn cách làm giàu… mặt khác
cần kiên quyết chống những thu nhập bất chính.
Đáng sợ hơn đó là tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất
đạo đức của nhiều cán bộ, công chức nhà nước nằm ngay trong bộ máy
nàh nước, nó gây ra bất công xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… ở vai trò
của công tác xây dựng Đảng, nhà nước trong sạch, vững mạnh là hết sức
quan trọng.
Nói chung, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của chủ nghĩa tư bản không phải là không có kế thừa và chọn
lọc những quan hệ sản xuất, những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa
khi nó chưa hết tác dụng tích cực ngya trong thời kỳ quá độ. Đây chính
là những “cây cầu nhỏ”, những bước trung gian quá độ đưa chúng ta tới
“phòng chờ” trực tiếp đi và chủ nghĩa xã hội.
Về nặt kiến trúc thượng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để xây
dựng nhà nước hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế thị
trường.
Chúng ta xác định mục tiêu: chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng
là một chế độ xã hội vì con người và do con người. Để tiến hành đến
mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với tăng
trưởng kinh tế, với công bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực
hiện các chính xác xã hội. Đảng ta khẳng định: “chính xác xã hội đúng
đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tại của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, bởi
“không có đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người ”. Chính sách xã
hội của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan tâm

chăm sóc đối với những người có công với cách mạng, chính sách đền
ơn đáp nghĩa (xây nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa). Trong kihn tế,
tạo ra nhiều công ăn việc là mới cho người lao động, cải cách chế độ tiền


lương theo hướng xoá bỏ thu nhập bình quân, tiền tệ hoá tiền lương,
khuyến khích tài năng, đâu tư đúng mức cho các ngành: y tế, giáo dục,
văn hoá- nghệ thuật, nghiên cứu khoa học. Thực hiện chính sách dân
số là một mục tiêu hết sức quan trọng trong điều kiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhưng dù sao đó mới chỉ là những chủ trương, đường lối đối với tình
hình trong nước. Vậy còn quốc tế thì sao?
Thứ nhất, cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri
thức. Nước ta một mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước
phát triển, cải thiện vị thế của mình. Đồng thời đứng trước nguy cơ tụt
hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục được những yếu
kém để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức
nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học
công nghệ vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát
triển.
Thứ hai, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức
ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nước ta cũng
không thể nằm ngoài vòng xoáy đó.
Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế,
tham gia vào xu thế toàn cầu hoá lại vừa có thể giữ vững được nền kinh
tế độc lập tự chủ.
Trước tiên phải tính đến vai trò của bộ máy nhà nước. Theo chỉ dẫn của

Lênin thì bộ máy nhà nước cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng rắn:
“Ngày nay cần có sự mềm dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn ứng biến một
cách mềm dẻo thì bộ máy phải thực sự cứng rắn”. Phải mềm dẻo vì đây
là thời kỳ quá độ, biện pháp quá độ. Phải cứng rắn vì đây là cuộc “chiến
tranh kinh tế”, cuộc chiến tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội. Bởi kẻ nào nắm thống trị về kinh tế thì dần dần sớm
muộn cũng sẽ thống trị cả về chính trị (áp dụng mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng).
Thứ hai, đó là chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc dân tộc
vận hành trước xu thế toàn cầu hoá, chủ động mở cửa hội nhập kinh tế
quốc tế nhưng phải giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì không có


bản lĩnh và không có bản sắc độc đáo riêng được giữ gìn, bảo vệ và phát
huy thì không thể đứng vững trong giao lưu hợp tác và hội nhập quốc tế.
Phải làm cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý, ý thức dân chúng, là nội
dung của kinh tế, chinh trị , xã hội trong phát triển. Văn hoá ở trong kinh
tế chính trị là vậy. Mà giá trị cao nhất, sâu nhất của văn hoá lại là con
người. Nó phải là chỗ quy tụ của mọi đường lối, chủ trương, chính sách,
cơ chế, giải pháp. Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò của con
người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy nước
ta phải đầu tư hơn nữa cho việc phát triển con người mà cụ thể là sự
nghiệp giáo dục- đào tạo phải được: đổi mới phương pháp giảng dạy ở
tất cả các bậc học từ mầm non tới sau đại học. Chú trọng đến giáo dục
đào tạo ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Bởi “không có cái lợi nào
bằng cái lợi đầu tư cho con người”. Mặt khác, ta còn phải nâng cao năng
lực và hiệu quả chủ động hội nhập quốc tế theo hướng đẩy nhanh tốc độ
và khả năng nội sinh hoá những sức mạnh bên trong nhằm thâu thức,
tích tụ và tăng cường nội lực đất nước để hội nhập một cách mạnh mẽ,
toàn diện và sâu sắc mà vẫn giữ được bản sắc Việt nam.

Hiện nay, các thế lực thù địch với những “diễn biến hoà bình” vẫn đang
đe dọa hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ thực tế đó đòi
hỏi Đảng và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra
sức đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước, của thời đại.
2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ
quan duy ý chí
Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa như đã trình bày ở trên, ta không thể
không kể đến vai trò thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến
nhanh và xa hơn đó là tính năng động, chủ quan, đó là khối đại đoàn kết
toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được xã
hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ,
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ
quan, của tính năng động chủ quan. Đó chính là những phát minh vĩ đại,
những đường lối chính sách đứng đắn có tính chất quyết thắng của toàn
thể dân tộc Việt Nam.


Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo vĩ đại của
đông đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì
không thể thực hiện được những nhiệm vụ trọng đại, khó khăn phức tạp
chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý
chí cách mạng hiện nay phải gắn liền với chi thức, hiểu biết, đặt trên cơ
sở khoa học, sự phát triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Không có khoa học, không có sự phát triển mạnh mẽ nguồn lực trí tuệ
thì không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy tụ
mọi tài năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ
của cả dân tộc. Đây phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ kết tinh tài năng ý

chí chỉ đạo, bản lĩnh giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại.
Bước vào thế kỷ XXI, chúng ta tin chắc vào thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, tin chắc chủ nghĩa xã hội nhất
định thành công, nhất định tiếp tục đi theo con đường đã chọn, dù một
thế kỷ hay lâu hơn nữa cũng không nao núng. Đó phải chăng là sự khẳng
định một ý chí lớn, một niềm tin Với ý chí “quyết tâm đưa nước ta thoát
khỏi nghèo làn, lạc hậu”, thhì không thể chậm chễ trong công nghiệp
hoá, hiện đại hhoá đất nước, để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa
nước ta với các nước phát triển.
Ads by optAd360
Trong khi đề cao vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, nhiệt tình, cách
mạng cũng cần phải phân biệt với tư tưởng chủ quan duy ý chí. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội nhưng ý thức xã hội lại có tác động ngược lại đến tồn tại xã hội, thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Khi con người xuất phát ý
muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế thì nó sẽ trở thành một vận
cản đối với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà trước mắt là sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
chúng ta không thể tiến hành theo quan niệm cũ, cách làm cũ (trước
1986). Mà mọi đường lối, kế hoạch đều phải dựa vào tình hình thực tế,
những điều kiện và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Nêu cao, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phê phán tư tưởng chủ quan duy
ý chí là hai mặt của một vấn đề. Nêu cao ý chí cách mạng là khuyến
khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám tạo ra những bước đột phá có
tính cách mạng để phát triển chứ không phải là kích thích những hành


động chủ quan nóng vội, bất chấp quy luật khách quan. Phê phán tư
tưởng chủ quan duy ý chí là nhằm hướng tới sự tỉnh táo khoa học và tính
thực tiễn trong mọi mặt hoạt động chứ không phải là làm nhụt ý chí cách

mạng.
Kết luận
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu sắc
hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ biện
chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ
nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ hai, bị chi phối, bị quyết
định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối với vật
chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý
muốn, nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát
triển, bị kìm hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết
cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta – Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa
xã hội nếu như: Mọi đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề
ra, hoạch định ra phải được xuất phát từ thực tế điều kiện nước nhà. Thứ
hai chúng ta phải phát huy cao độ vai trò tích cực của ý thức hay chính
là vai trò năng động chủ quan của con người. Xây dựng hệ động lực tinh
thần mạnh mẽ cổ vũ lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đaịo của toàn
Đảng và nhân dân ta. Đó chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”,
đó là “khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của
người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu”.
Đồng thời, chúng ta cũng cần tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng
vội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan
trọng đó là làm sao để vừa xây dựng nền kinh tế có sự tham gia của các
thành phần kinh tư bản lại vừa tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta
cần có phương hướng đi sao cho phù hợp.
Gần đây có một số ý kiến cho rằng: Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp của Đảng ta là chủ quan duy ý chí,
là nóng vội, không tuân theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, rằng nước ta chưa
đủ điều kiện để có thể đề ra một mục tiêu không tưởng như vậy. Đứng

trước tình hình này, Đảng và nhà nước ta cần có biện pháp, bước đi như
thế nào?



Câu 4. Tồn tại xã hội, ý thức xã hội và mối quan hệ biện chứng giữa
chúng?

Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã
hội giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó,
quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa
con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất
hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ
thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật
chất; điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v,
trong
đó
phương
thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất
khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với
tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là gì?

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần
giữa con người với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức

xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác nhau
(ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã hội
và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp
luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học v.v).
Kết cấu của ý thức xã hội gồm
– Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán v.v của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội


×