Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở nước ta trong những
năm tới
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BHXH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
3.1.1. Quan điểm phát triển
BHXH là một trong những chính sách xã hội lớn của Nhà nước, đóng góp
một phần vô cùng quan trọng trong hệ thống an sinh quốc gia. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế-xã hội, BHXH nói chung và các chính sách tài chính
BHXH nói riêng cũng phải ngày càng hoàn thiện, phát triển trong tổng thể phát
triển của cả hệ thống các chính sách xã hội của Nhà nước. Hệ thống BHXH cần
từng bước xây dựng và thực hiện hạch toán theo hướng tự quản, xã hội hoá
toàn ngành, thực hiện chức năng đảm bảo sản xuất và đời sống, bảo vệ cuộc
sống của các thành viên trong xã hội khi gặp rủi ro, thúc đẩy tiến bộ và công
bằng xã hội.
3.1.2. Chiến lược phát triển của BHXH Việt nam đến năm 2010
Theo Dự thảo Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt nam đến năm
2010: “Từ năm 1995 đến nay, quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất,
hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ được thực hiện các biện
pháp đầu tư tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. Việc quản lý quỹ thống
nhất để chi trả cho các chế độ trợ cấp BHXH là bước ngoặt trong hoạt động
của BHXH ở Việt nam, mang lại hiệu quả cao, phù hợp với xu hướng phát triển
của các nước trên thế giới. Từ thực tế đó, khẳng định giai đoạn từ nay đến
năm 2010 quỹ cần phải được tiếp tục quản lý theo mô hình tập trung thống
nhất, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, không thành lập các quỹ
thành phần, không chia nhỏ các quỹ BHXH theo loại hình lao động hoặc theo
chế độ trợ cấp. Quỹ do ba bên đóng góp (Nhà nước, người lao động, người sử
dụng lao động) thì do ba bên quản lý thông qua một Hội đồng gọi là Hội đồng
quản lý BHXH Việt nam đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Thủ tướng Chính
phủ.
Mức đóng BHXH phải được tính toán trên cơ sở thu nhập (tiền lương và
tiền công) của người lao động và tỷ lệ thu phải được điều chỉnh dần từ thấp
đến cao theo mức tăng của tiền lương, tiền công, vừa đảm bảo cuộc sống hiện
tại của người lao động, vừa đảm bảo mục tiêu cân đối quỹ đồng thời phải phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn từ nay
đến năm 2010.
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, nước ta cũng cần thiết phải mở
rộng thêm các chế độ BHXH, song việc mở rộng thêm chế độ nào phải tuỳ thuộc
vào nhu cầu về BHXH và khả năng phát triển kinh tế-xã hội chung của đất
nước.
Phải mở rộng các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Các đối tượng là
công chức, người làm việc trong các tổ chức đoàn thể, hiệp hội... thụ hưởng
kinh phí từ Ngân sách Nhà nước, lực lượng an ninh quốc phòng và các đối
tượng có quan hệ chủ-thợ đều thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Ngoài ra, cần phải áp dụng BHXH tự nguyện cho một số đối tượng lao động tự
do hoặc những đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng có nhu cầu tăng
thêm về mức trợ cấp. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010, tăng bình quân mỗi
năm khoảng 90 vạn người tham gia BHXH, trong đó BHXH bắt buộc tăng 50
vạn người/ năm, BHXH tự nguyện tăng 40 vạn người/năm. Đưa số người
tham gia BHXH đến năm 2010 là 12,4 triệu người, bằng khoảng 23% tổng số
người trong độ tuổi lao động”.
Trên đây là những định hướng cơ bản về hoàn thiện chính sách tài chính
BHXH giai đoạn từ nay đến năm 2010. Có thể tóm tắt các nội dung chính về
định hướng hoàn thiện chính sách tài chính BHXH giai đoạn từ nay đến năm
2010 như sau:
-Quỹ BHXH tiếp tục được quản lý theo mô hình tập trung thống nhất,
hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước, không thành lập các quỹ thành
phần, không chia nhỏ quỹ theo loại hình lao động hoặc theo chế độ trợ cấp.
-Mức đóng BHXH được điều chỉnh dần từ thấp đến cao theo mức tăng
của thu nhập để đảm bảo cuộc sống của người lao động.
-Quỹ BHXH phải được cân đối thu-chi. Giai đoạn từ nay đến năm 2010,
quỹ BHXH không thể để thâm hụt, thu của quỹ phải đủ chi trả cho các chế độ
BHXH. Nhà nước chỉ hỗ trợ cho quỹ giai đoạn từ nay đến năm 2010 trong các
trường hợp sau:
+Đối với đơn vị trả lương cho người lao động từ nguồn Ngân sách
Nhà nước thì hàng tháng với tư cách là người sử dụng lao động Bộ Tài chính
chuyển tiền về cho các đơn vị để các đơn vị đó đóng theo quy định.
+Nhà nước chỉ có trách nhiệm trả lương hưu cho các đối tượng về
hưu trước ngày 1/1/1995.
+Nhà nước hỗ trợ cho các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách
Nhà nước có thời gian công tác trước ngày 1/1/1995 vì số người này cơ bản
chưa đóng BHXH trong thời gian trước ngày 1/1/1995. Mức hỗ trợ cụ thể sẽ
do BHXH Việt nam và Bộ Tài chính tính toán thống nhất trình Chính phủ.
-Mở rộng dần các chế độ BHXH
-Mở rộng đối tượng tham gia BHXH
-Thực hiện BHXH tự nguyện.
-Thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ.
3.2. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH BHXH
3.2.1. Hoàn thiện chính sách thu BHXH
3.2.1.1. Cơ sở hoàn thiện
*Dự báo nhu cầu BHXH
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, con người phát sinh nhiều loại nhu
cầu khác nhau. Khi thu nhập thấp, mức sống chưa cao thì nhu cầu cấp thiết
nhất là thoả mãn các điều kiện ăn, ở, mặc, học hành và dành dụm một phần
thu nhập để đảm bảo cuộc sống khi ốm đau, thai sản, tuổi già. Khi thu nhập
được nâng cao, mức sống được nâng lên, lúc đó con người phát sinh nhiều nhu
cầu mới, đa dạng và phong phú hơn. Mức độ dành dụm để bảo đảm cuộc sống
khi ốm đau, tai nạn, tuổi già cũng tăng càng nhiều hơn và thường xuyên hơn.
Đó là nhu cầu về BHXH. Nhu cầu về BHXH của người lao động luôn luôn phát
sinh gắn liền với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Xã hội càng phát triển thì
nhu cầu về BHXH cũng ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn.
Nhu cầu BHXH có thể chia thành hai loại là nhu cầu chung về BHXH và
nhu cầu nội tại của BHXH.
-Nhu cầu chung về BHXH gồm:
+Nhu cầu về tiềm năng của BHXH: Loại nhu cầu này có liên quan
đến phạm trù nhân khẩu học bao gồm số lượng và cơ cấu dân số có nhu cầu
tham gia BHXH. Số đó gọi là nhu cầu tiềm năng bởi vì trong một thời điểm nào
đó có một số nhóm dân cư này hay một nhóm dân cư khác có thể trực tiếp
tham gia BHXH (nộp và hưởng các chế độ BHXH) trở thành đối tượng của
BHXH. Các nước có bề dày lịch sử phát triển BHXH từ đầu thế kỷ 19 thì nhu cầu
tiềm năng về BHXH đã trở thành nhu cầu hiện thực vì các nước này đã thực
hiện BHXH cho mọi người lao động.
Đối với BHXH, xác định được nhu cầu tiềm năng có một ý nghĩa rất lớn
trong việc dự đoán số người tham gia BHXH, cân dối được nguồn thu của quỹ
BHXH để từ đó cân đối thu-chi, đáp ứng nhu cầu về BHXH.
+Nhu cầu hiện có của BHXH: đó là những nhu cầu có liên quan đến
đặc điểm lao động và người lao động, bao gồm: số lượng, cơ cấu lao động theo
độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc biệt là điều kiện thu nhập của người lao
động có khả năng đóng BHXH tạo nguồn tài chính để đảm các nhu cầu đó. Xác
định nhu cầu hiện có của BHXH có một ý nghĩa rất quan trọng trong dự báo
quy mô, cơ cấu nguồn thu của quỹ, xác định được phương thức hoạt động của
BHXH.
-Nhu cầu nội tại: là các nhu cầu của người lao động đã và đang tham gia
đóng và hưởng các chế độ BHXH. Xác định được các loại nhu cầu nội tại nhằm
điều chỉnh, bổ sung chính sách chế độ BHXH, cân đối quỹ BHXH. Nhìn chung,
khi có nhu cầu mới phát sinh phải tính đến ngay nguồn tài chính để chi cho nhu
cầu đó. Nếu cần thiết phải điều chỉnh mức thu, đối tượng thu để có nguồn tài
chính đáp ứng nhu cầu mới phát sinh.
Những biểu hiện cụ thể của từng nhu cầu nói trên phải được lượng hoá
thành nhu cầu chung về BHXH trong một thời kỳ nhất định. Cán bộ tác nghiệp
BHXH phải tính toán, tập hợp trên cơ sở số đông các nhu cầu từng cá nhân để
xác định nhu cầu chung về BHXH toàn xã hội. Đó là các chi phí phát sinh về
BHXH mà đòi hỏi phải có một quỹ tài chính được hình thành đủ khả năng chi
trả cho các nhu cầu đó. Do đó cần thiết phải dự báo nhu cầu BHXH.
Do đặc điểm nhu cầu BHXH rất phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau
nên việc dự báo nhu cầu BHXH rất khó khăn, phức tạp. Để dự báo được nhu
cầu BHXH phải dựa trên các cơ sở sau đây:
-Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu của bản thân người lao động và
gia đình họ.
Nếu người lao động không có đủ thu nhập đủ để nuôi sống bản thân và
gia đình họ thì không thể nói đến nhu cầu BHXH. Vì vậy các chỉ tiêu để tính
toán nhu cầu BHXH gồm:
+Thu nhập bình quân của một hộ gia đình hàng năm hoặc thu
nhập bình quân một người.
+Cơ cấu thu nhập theo ngành nghề, khu vực và tính ổn định của
nó.
+Chi tiêu bình quân một hộ gia đình hàng năm hoặc chi tiêu bình
quân một người.
+Cơ cấu chi tiêu của từng ngành, từng khu vực và tính ổn định của
nó.
+Mức độ tích luỹ.
Mối quan hệ giữa thu nhập, chi tiêu, tích luỹ là căn cứ để dự báo nhu cầu
xã hội. Nếu thu nhập của một hộ gia đình bằng hoặc thấp hơn chi tiêu thì
đương nhiên chưa có nhu cầu về BHXH vì không có tích luỹ để tham gia BHXH.
Đây là một vấn đề vừa mang tính lý luận lại vừa có ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế nước ta. Một đất nước mà 80% dân số làm nghề nông. Khi người
dân chưa đủ lương thực để ăn thì khó có nhu cầu đóng BHXH để được hưởng
các chế độ BHXH quy định. Nếu thu nhập của một hộ gia đình lớn hơn chi tiêu
thì mới có điều kiện tích luỹ và có nhu cầu về BHXH. Khoản chênh lệch giữa thu
nhập và chi tiêu càng lớn thì nhu cầu BHXH càng phong phú vì người lao động
có điều kiện tham gia đóng BHXH để bảo hiểm cho bản thân và gia đình họ.
Đây là căn cứ có ý nghĩa quyết định nhất để dự báo nhu cầu BHXH, làm
cơ sở để mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế.
-Căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu BHXH của xã hội.
Để tính được khả năng này cần phải có các chỉ tiêu sau:
+Thu nhập quốc dân hoặc tổng sản phẩm xã hội (GDP) hoặc chỉ
tiêu mang tính bình quân đầu người.
+Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
+Thu nhập dòng của các cơ sở kinh tế hàng năm.
+Các chỉ tiêu liên quan khác.
Các chỉ tiêu này nhằm xác định mức tích luỹ hàng năm của nền kinh tế
quốc dân và các cơ sở kinh tế. Nếu có tích luỹ thì Nhà nước và các cơ sở kinh tế
(chủ sử dụng lao động) mới có điều kiện đóng và trợ giúp cho quỹ BHXH. Từ
đó, mới thực hiện được mối quan hệ ba bên: Nhà nước, chủ sử dụng lao động
và người lao động tham gia BHXH nhằm đảm bảo tính an toàn, ổn định và
phát triển cuả quỹ BHXH.
*Dự báo số người tham gia BHXH:
Số người tham gia BHXH là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc đảm
bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Hầu hết các nước
trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp để tăng số lượng người đóng
BHXH. Như ở Malayxia có 8,8 triệu người lao động thì có 8 triệu người tham
gia đóng BHXH, chiếm 90%; Mỹ có 95% số lao động tham gia đóng BHXH. Đối
với nước ta là một nước có tốc độ phát triển dân số khá nhanh. Theo tính toán
của các nhà nhân khẩu học, để tăng dân số từ 17 triệu người lên 34 triệu
người phải mất 34 năm, nhưng để tăng dân số từ 30 triệu người lên 60 triệu
người thì thời gian lại rút ngắn chỉ còn 25 năm. Đây là một áp lực lớn đối với
việc phát triển kinh tế-xã hội nhưng lại là điều kiện tiềm năng lớn về nhu cầu
BHXH.
Hiện nay nước ta có khoảng hơn 80 triệu người trong đó có khoảng 56
triệu người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi).
Nhưng số người tham gia BHXH tính đến hết năm 2002 mới có khoảng 6 triệu
người, bằng hơn khoảng 10% số người trong độ tuổi lao động, còn 90% số
người trong độ tuổi lao động là chưa tham gia đóng BHXH. Đây là tiềm năng
rất lớn để tăng số người tham gia BHXH. Vì vậy cần có biện pháp dự báo được
số người tham gia BHXH trong thời gian tới. Trên cơ sở dự báo được số người
tham gia đóng BHXH mới dự báo được nguồn quỹ, mới cân đối được thu-chi
tài chính BHXH.
Để dự báo được số lượng người tham gia đóng BHXH trong một thời kỳ
nào đó phải căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:
-Tốc độ phát triển dân số hàng năm, tỷ lệ chết hàng năm.
-Tổng số lao động trong độ tuổi trong đó phân rõ nam, nữ theo từng độ
tuổi.
-Tổng số lao động của các ngành, của từng vùng, lao động trong khu vực
Nhà nước, lao động trong các thành phần kinh tế khác, lao động tự do...
-Tuổi thọ bình quân.
-Thu nhập bình quân đầu người toàn xã hội và phân theo từng ngành.
-Tỷ lệ thất nghiệp hàng năm.
...
3.2.1.2. Nội dung cần hoàn thiện chính sách thu BHXH
*Mở rộng đối tượng tham gia BHXH
Như trên đã trình bày, hiện nay nước ta còn 90% số người trong độ tuổi
lao động chưa tham gia đóng BHXH vì vậy cần thiết phải có biện pháp tăng
nhanh số lượng người lao động tham gia đóng BHXH. Đây là giải pháp cơ bản
nhất để cân đối thu-chi quỹ BHXH, ổn định tài chính BHXH.
Hiện nay đối tượng tham gia BHXH bao gồm:
Các đối tượng đang thực hiện theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995
của Chính phủ:
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
-Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài
tại Việt nam.
-Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan
hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
-Người làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực
lượng vũ trang.
-Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử và những người làm việc trong các
cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
-Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp.
Các đối tượng trên đều được tham gia và hưởng 5 chế độ BHXH hiện
hành.
Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của
Chính phủ:
-Quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí (bản
thân không phải đóng BHXH ) được hưởng 2 chế dộ BHXH là trợ cấp tai nạn
lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và chế độ tử tuất.
Các đối tượng thực hiện theo Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày
23/1/1998 của Chính phủ:
-Bí thư Đảng uỷ xã
-Phó Bí thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Chủ tịch UBND
xã.
-Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Phó Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch Mặt
trận Tổ quốc, Trưởng các đoàn thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến
binh, Đoàn thanh niên cộng sản), xã đội trưởng, trưởng công an xã.
-Uỷ viên UBND xã.
-4 chức danh chuyên môn: địa chính, tư pháp, tài chính kế toán, văn
phòng UBND.
Nên mở rộng thêm các đối tượng tham gia BHXH như sau:
-Người làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10
lao động.
-Người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp
-Người làm việc thuộc các đơn vị, cơ sở ngoài quốc doanh, các hộ gia
đình đăng ký kinh doanh có thuê mướn lao động.
-Người nước ngoài làm việc tại Việt nam lâu dài.
*Bổ sung hoàn thiện mức thu BHXH
Hiện nay mức thu BHXH của nước ta là 20% trên tiền lương, tiền công
của người lao động trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động
đóng 15% để chi trả cho 5 chế độ BHXH. Nếu kể cả 3% bảo hiểm y tế thì thu các
chế độ BHXH là 23%. Nếu nâng mức đóng của người lao động lên nữa sẽ ảnh
hưởng tới đời sống của người lao động vì mức thu nhập bình quân hiện nay
chỉ từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng/tháng/người, sau khi đóng BHXH và
các khoản đóng góp khác, người lao động chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu. Đối
với chủ sử dụng lao động tuy khoản đóng góp là 17% trên tổng quỹ tiền lương
(trong đó BHXH là 15%, BHYT là 2%) được hạch toán vào giá thành sản phẩm
nhưng trong điều kiện sức mua của thị trường có hạn (sức mua từ thu nhập từ
400.000 đồng đến 500.000 đồng/tháng/người) thì khó có thể tăng mức đóng
góp của chủ sử dụng lao động. Nếu tăng mức đóng BHXH lên sẽ tăng giá thành
sản phẩm người tiêu dùng không chấp nhận, dẫn đến xí nghiệp bị thua lỗ do
vậy sẽ không còn khả năng đóng BHXH.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự nâng cao chất
lượng đời sống của người lao động thì BHXH cũng phải mở rộng thêmcác chế
độ trợ cấp BHXH. Việc mở rộng thêm các chế độ trợ cấp BHXH cũng phải tính
đến nguồn bù đắp. Lúc đó phải tính đến việc tăng phí đóng góp BHXH cho
tương xứng với việc hưởng thêm các chế độ trợ cấp mới. Ví dụ, nếu Nhà nước
áp dụng thêm chế độ trợ cấp thất nghiệp thì phải thu thêm một tỷ lệ nhất định,
có thể là 5% trong đó người lao động phải đóng thêm 1%, chủ sử dụng lao
động phải đóng thêm 4%, mức đóng này còn là thấp so với các nước trong khu
vực. Ví dụ, Thái lan 15% trên tổng tiền lương được thu cho chế độ trợ cấp thất
nghiệp trong đó người lao động đóng 5%, chủ sử dụng lao động đóng 5% còn
Nhà nước đóng 5%.
Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác thu, xây dựng quy trình thu và
quản lý thu hợp lý nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, hạn chế đến mức thấp
nhất việc thất thu của quỹ.
*Thi hành BHXH tự nguyện
Hiện nay, nước ta chưa thực hiện BHXH tự nguyện nhưng nhu cầu của
tham gia BHXH tự nguyện đang ngày càng tăng cao nhất là lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp, một lĩnh vực chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế
nước ta. Theo số liệu điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội kết hợp
với tổ chức ILO điều tra ở khu vực nông nghiệp tại Hà tây, Hải dương, Hà nội
thì có khoảng 83,3% lao động muốn tham gia BHXH. Tuy nhiên do đặc thù
trong sản xuất và tiêu dùng của ngành nông nghiệp không thể áp dụng ngay
biện pháp bắt buộc cho tất cả lao động nông nghiệp mà trước mắt chỉ áp dụng
hình thức BHXH tự nguyện cho những đối tượng có điều kiện, thu nhập gia
đình lớn hơn chi tiêu, có tích luỹ. Nguyên tắc tài chính đối với BHXH tự nguyện
là bảo đảm cân đối thu-chi, có đóng mới có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều,
đóng ít hưởng ít. Đương nhiên thực hiện BHXH tự nguyện hoàn toàn không
giống với một quỹ tiết kiệm. Người tham gia BHXH tự nguyện không thể tự ý
muốn rút tiền lúc nào cũng được, họ phải đóng góp suốt cả thời gian dài đến
khi nghỉ hưu. Trong suốt thời gian đó người lao động không được rút tiền ra
khỏi quỹ chỉ khi về hưu mới được hưởng chế độ trợ cấp BHXH theo quy định.
Hình thức BHXH tự nguyện nên áp dụng đối với các đối tượng sau:
-Xã viên hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
-Người lao động tự do.
-Những người tham gia BHXH bắt buộc muốn tham gia thêm BHXH tự
nguyện.
Mức đóng BHXH tự nguyện:
Dự kiến nếu người lao động được hưởng 2 chế độ trợ cấp là hưu trí và
tử tuất thì ít nhất cũng phải đóng 15% tiền lương hoặc thu nhập. Tuy nhiên
việc tính toán mức thu nhập của người lao động nông nghiệp và lao động tự
do rất phức tạp lại không ổn định vì vậy có thể áp dụng một hoặc một số mức
thu nhập chuẩn, chẳng hạn lấy mức thu nhập tương đương mức lương tối
thiểu để làm cơ sở tính mức thu BHXH tự nguyện.
Việc tính toán để ban hành chính sách tài chính đối với BHXH tự nguyện
là một vấn đề khó và phức tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng
cũng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc cân đối thu-chi.
3.2.2. Hoàn thiện chính sách chi BHXH
3.2.2.1. Nguyên tắc cơ bản để hoàn thiện chính sách chi BHXH
Thu, chi BHXH là những hoạt động chính của công tác tài chính BHXH,
hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính BHXH chủ yếu cũng là hoàn thiện cơ chế
thu-chi BHXH. Trong đó, hoàn thiện cơ chế chi BHXH chính là quá trình nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ tài chính để đảm bảo quyền lợi của
người lao động, quyền lợi đó tương xứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Cơ chế
chi trả BHXH còn gắn với công tác quản lý chi nhằm chi đúng đối tượng, chi đủ
số lượng, đảm bảo thời gian, không để thất thoát và có hiệu quả cao. Để thực
hiện được nội dung này cần phải dựa trên các nguyên tắc làm cơ sở cho việc
hoàn thiện cơ chế chi trả BHXH như sau:
-Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người tham
gia BHXH. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, xuyên suốt toàn bộ các chính sách,
chế độ trợ cấp cho người lao động vì mục đích của BHXH là nhằm ổn định cuộc
sống cho người lao động và gia đình họ. Vì vậy, mức chi trợ cấp BHXH phải
đảm bảo mức sống tối thiểu cơ bản cho người lao động, mức trợ cấp quá thấp
thì BHXH không còn ý nghĩa “đảm bảo” nữa. Nếu mức trợ cấp BHXH quá cao
vượt khả năng chi trả của quỹ sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng chi của quỹ, mất
cân đối quỹ, quỹ BHXH sẽ dần dần đến phá sản.
-Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương và tiền công khi đang làm
việc của người lao động. Nguyên tắc này đã được quy định cụ thể tại Công ước
102 của Tổ chức Lao động Quốc té (ILO), mức phổ biến bằng 40%-50% tiền
lương hoặc tiền công làm cơ sở tính BHXH. Nguyên tắc này đã được hầu hết
các nước thành viên của ILO áp dụng cụ thể vào nước mình.
Đối với nước ta, áp dụng nguyên tắc này là nhằm khuyến khích những
người đang làm việc, phân biệt mức hưởng thụ rõ ràng giữa người làm việc
với người nghỉ hưu hoặc ốm đau, tai nạn... Đây là biểu hiện cụ thể của nguyên
tắc phân phối nói chung đó là thể hiện sự công bằng giữa cống hiến và hưởng
thụ. Tuy nhiên, do tiền lương của nước ta còn thấp, nếu vận dụng mức hưởng
bằng 40% hoặc 50% như quy định tại Công ước 102 của tổ chức ILO thì không
đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động. Vì vậy tỷ lệ trợ cấp các chế dộ
BHXH ở nước ta phần lớn là cao hơn mức quy định tại Công ước 102.
-Mức trợ cấp BHXH phải phản ánh được nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền
hạn của các bên tham gia BHXH. Nguyên tắc này được thể hiện thông qua việc