Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.75 KB, 7 trang )

ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI
CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ
HẠCH TOÁN KẾ TOÁN CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ
1. Đánh giá về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
1.1.Ưu điểm
Từ khi thành lập cho đến nay, sau gần bốn mươi năm hoạt động và phát triển,
trải qua nhiều khó khăn, đặc biệt là khi chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh
tế thị trường, đến nay, công ty đã trở thành một công ty đóng vai trò quan trọng
trong ngành công nghiệp chế biến với quy mô sản xuất, kinh doanh mở rộng trên
toàn quốc và trình độ quản lý nâng cao phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước.
Đạt được kết quả như vậy là cả một quá trình phấn đấu liên tục không ngừng của
ban giám đốc, lãnh đạo các phòng ban và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công
ty bánh kẹo Hải Hà.
Hệ thống quản lý của công ty có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban
chức năng, là một hệ thống tương đối thống nhất và đồng bộ. Môi trường kinh
doanh trong công ty đang được phát triển với các triển vọng tốt.
Công ty quản lý sản xuất bằng hệ thống định mức khá tiên tiến điều này đã
góp phần tích cực trong công việc nâng cao năng suất lao động đã khuyến khích các
xí nghiệp thành viên tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Hơn thế nữa, nhờ
hệ thống định mức đã được chuẩn hoá mà công ty tiết kiệm được rất nhiều công sức
trong việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hiệu quả, hiệu năng của
quản lý.
1.2. Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, công ty bánh kẹo Hải Hà còn có một số vấn
đề sau:
- Trước hết về trang thiết bị máy móc tuy có nhập mới nhưng vẫn chưa đồng
bộ. Ngoài một số dây chuyền sản xuất được đầu tư mấy năm gần đây, còn lại thiết bị
máy móc đều quá cũ và lạc hậu về kỹ thuật, có dây chuyền sản xuất được sử dụng từ
những năm 1975, 1976 đến nay vẫn chưa được thay thế.
- Thứ hai đó là về nguyên vật liệu. Hầu hết nguyên vật liệu đều nhập ngoại,


đường vận chuyển xa gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất của phân xưởng,
có khi khâu cung ứng nguyên vật liệu còn chậm, không kịp thời làm cho bộ phận sản
xuất bị động, ảnh hưởng đến tiến trình sản xuất. Bên cạnh đó do nhập ngoại một số
nguyên vật liệu chính đã làm cho chi phí nguyên vật liệu tăng lên.
- Thứ ba đó là công ty bánh kẹo Hải Hà cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà
nước khác vẫn theo cách quản trị cũ đó là quản trị sản xuất mà cách này không còn
phù hợp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này đã ảnh hưởng đến chi phí, giá thành
tăng và cả chất lượng sản phẩm, do đó khả năng cạnh tranh của công ty trên thị
truờng bị giảm.
2. Đánh giá về tổ chức hạch toán ở Công ty bánh kẹo Hải Hà
2.1. Những ưu điểm
Là một công ty lớn với nhiều xí nghiệp thành viên nên việc tổ chức bộ máy kế
toán như hiện tại của công ty đã đáp ứng được yêu cầu quản lý. Mỗi phần hành kế
toán do một kế toán viên đảm nhiệm. Đội ngũ kế toán viên đều có trình độ cao, nhiệt
tình và sáng tạo. Trong quá trình hạch toán đã có sự vận dụng và lập các chứng từ
một cách linh hoạt. Việc bảo quản và lưu trữ chứng từ của công ty theo đúng chế độ.
Cụ thể trong năm tài chính chứng từ được bảo quản tại các phần hành, khi báo cáo
quyết toán năm được duyệt các chứng từ sẽ được chuyển và lưu trữ tại kho. Và khi
muốn sử dụng lại phải được sự đồng ý của kế toán trưởng và Giám đốc Công ty
(trong trường hợp đối tượng bên ngoài công ty). Sau 10 đến 15 năm tiến hành huỷ
chứng từ. Sự vận dụng hệ thống tài khoản đối với các tài khoản chi tiết cũng đã đáp
ứng được yêu cầu quản lý. Cụ thể có những tài khoản chi tiết đến cấp 4 như tài
khoản 112- tiền gửi ngân hàng, và nhiều tài khoản được chi tiết theo từng xí nghiệp.
Việc quản lý các khách hàng, vật tư theo mã cũng đã làm giảm sự chi tiết hoá các tài
khoản.
Là một doanh nghiệp nhà nước lớn, công ty bánh kẹo Hải Hà gồm nhiều xí
nghiệp thành viên nên số lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh rất nhiều, chủng loại
sản phẩm công ty rất đa dạng phong phú (công ty có gần 100 loại sản phẩm). Vì vậy
để đơn giản hoá và hiệu quả hệ thống kế toán công ty đã trang bị cho phòng kế toán

một hệ thống máy tính hiện đại đi kèm các thông tin kế toán trên máy tính (chương
trình được lập trên Foxpro). Các phần hành kế toán nhờ sự hỗ trợ của hệ thống kế
toán máy được thực hiện một cách nề nếp và khoa học đúng theo nghĩa quy định của
pháp luật kế toán thống kê. Hệ thống kế toán máy đã giúp cho các phần hành kế toán
được thực hiện một cách nhanh chóng, đưa ra thông tin một cách kịp thời, hữu ích
cho công tác kiểm tra tài chính và công tác quản trị nội bộ.
Nhờ có sự hỗ trợ của hệ thống kế toán máy, nên sự kết hợp giữa hạch toán
tổng hợp và chi tiết hình thức nhật ký chứng từ được phát huy đến mức cao. Sự
chính xác của hệ thống kế toán máy làm cho nhân viên không mất thì giờ đối chiếu
giữa hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp mà hệ thống sổ sách vẫn được kiểm
soát chặt chẽ, hơn nữa khi lấy tổng hợp chi tiết để hạch toán tổng hợp đã làm giảm
nhiều công sức hạch toán, giúp ích rất nhiều trong công việc cung cấp các bảng biểu
phục vụ quản trị nội bộ.
Các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt được kiểm soát chặt chẽ được thể hiện ở
chỗ có hai sổ quỹ cùng song song tồn tại. Một sổ quỹ do thủ quỹ lập, một sổ quỹ do kế
toán tiền mặt lập và đều dựa trên các chứng từ hợp lý. Và hàng ngày được đối chiếu
với nhau dưới sự kiểm soát của kế toán trưởng hoặc phó phòng kế toán.
Nguyên vật liệu được theo dõi chi tiết đến từng loại, theo từng đơn vị, từng
sản phẩm và được so sánh chặt chẽ với định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Sở dĩ là
như vậy bởi vì chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá
thành sản phẩm (trung bình là hơn 80%). Mỗi xí nghiệp lại sản xuất nhiều loại sản
phẩm khác nhau, mỗi sản phẩm lại dùng nhiều loại nguyên vật liệu có định mức tiêu
hao khác nhau, nên việc hạch toán nguyên vật liệu dựa trên định mức đã góp phần
tích cực trong việc quản lý chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Hơn nữa việc xây dựng
các định mức khoán về lương cho từng công đoạn sản phẩm đã giúp công ty quản lý
và phân phối quỹ lương rất hiệu quả. Sử dụng định mức khoán công bằng, một phần
nào đó đã kích thích công nhân có năng suất lao động cao hơn.
Về báo cáo tài chính thì việc lập ba loại báo cáo theo quy định của nhà nước là
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính
vào cuỗi mỗi quý đã đáp ứng được yêu cầu quản lý công ty. Các báo cáo đều được lập

theo đúng chế độ quy định. Một số báo cáo quản trị như báo cáo doanh thu bán hàng
được lập từng ngày cung cấp thông tin chi tiết về sản phẩm xuất bán, người mua,
doanh thu, từng sản phẩm, từng khách hàng đáp ứng nhu cầu kiểm soát tình hình
doanh thu của phòng kế toán, tình hình tiêu thụ sản phẩm của phòng kinh doanh.
2.2. Những tồn tại trong tổ chức hạch toán kế toán
Mặc dù hệ thống kế toán đã được trang bị bằng hệ thống máy tính khá đầy đủ
(mỗi nhân viên một máy) song phần mềm kế toán vẫn chưa đáp ứng được các yêu
cầu cập nhật số liệu và cung cấp thông tin một cách đầy đủ. Đối với vật tư kỹ thuật
có nhiều loại nên không thể dùng mã để quản lý trên máy tính được cho nên kế toán
vẫn phải sử dụng thủ công ghi chép trên một cuốn sổ có tên là sổ vật tư kỹ thuật. Máy
tính chỉ có hiệu quả nhiều trong phần hành kế toán tiêu thụ, nguyên vật liệu, tài sản
cố định còn hầu như không sử dụng trong phần hành tiền mặt. Việc ghi sổ quỹ được
tiến hành thủ công. Kế toán chi phí và giá thành vẫn phải tập hợp chi phí sản xuất
chung và việc thanh toán, quyết toán tình hình thực hiện chi phí khoán của xí nghiệp
với công ty bằng thủ công.
Đối với công tác kế toán tài sản cố định, mặc dù có máy tính hỗ trợ trong việc
thống kê tài sản cố định, nhân viên kế toán tài sản cố định vẫn chưa tách biệt tài sản
cố định của từng xí nghiệp một nên chi phí khấu hao tài sản cố định của các xí nghiệp
hoàn toàn được phân bổ theo sản lượng tấn sản phẩm, điều này làm mất đi sự chính
xác của việc xác định hiệu quả sản xuất cho từng xí nghiệp.
Chi phí sản xuất chung của từng xí nghiệp được tập hợp riêng biệt gồm các
khoản khấu hao tài sản cố định, chi phí vật liệu phụ tùng phục vụ từng xí nghiệp,
nhiên liệuđộng lực và các khoản chi phí khoán khác. Ngoài ra, xí nghiệp bánh và kẹo
còn được phân bổ chi phí của xí nghiệp phụ trợ. Mặc dù chi phí sản xuất chung tại
công ty không chiếm tỉ trọng lớn, nhưng việc tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất
chung cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự chính xác của giá thành.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY BÁNH
KẸO HẢI HÀ
Với hơn 1000 loại vật tư khác, với khối lượng sản phẩm sản xuất ra ngày càng
lớn. Vấn dề đặt ra là phải quản lý như thế nào cho khoa học. Để đảm bảo công tác

quản lý vật liệu được chặt chẽ, thống nhất đối chiếu, kiểm tra được dễ dàng và dễ
phất hiện khi sai sót và thuận lợi cho việc hiện đại hoá công tác kế toán vật liệu. Công
ty nên lập danh điểm vật liệu. Trên các laọi vật liệu được mã hoá đảm bảo tính thống
nhất trong việc lập trình cũng như trong việc sử dụng máy tính. Việc mã hoá vật tư
là việc gắn cho mỗi thứ vật tư một mã số. Để dễ nhận biết mã hoá bắt đầu từ số hiệu
TK phản ánh đối tượng đó, tuỳ thuộc vào khối lượng vật tư trong từng tài khoản để
mở mã số vật tư. Tại công ty, công tác hạch toán kế toán được làm bằng máy tính do
vậy việc lập sổ danh điểm sẽ thống nhất giữa các bộ phận xí nghiệp, phân xưởng
tránh tình trạng ghi chép trùng lặp tạo điều kiện cho kế toán nguyên vật liệu theo dõi
tốt được nguyên vật liệu nhập, xuất đặc biệt là giám sát được về cả số lượng và giá
trị của nguyên vật liệu tồn kho. Đây là vấn đề công ty quan tâm nên phải có sự kết
hợp giữa các phòng kỹ thuật, phòng kinh doanh và phòng kế toán để thống nhất sự
quản lý.
Công ty nên đầu tư để hoàn thiện hệ thống kế toán máy cho phù hợp với công
tác hạch toán kế toán tai công ty. Như vậy nó sẽ công tác hạch toán được chính xác
hơn, nhanh hơn, đáp ứng kịp thời yêu cầu của ban lãnh đạo công ty.

×