Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.05 KB, 20 trang )

GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI
CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU HÀ NỘI.
3.1.SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Có thể nói lĩnh vực tiền tệ tín dụng Ngân hàng là một trong những lĩnh
vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình
hoạt động và rủi ro cao, giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng cho các
hoạt động của các doanh nghiệp.
Với chức năng chính là huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế, Ngân hàng
thu hút mọi nguồn vốn lẻ tẻ để đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho việc mở rộng,
phát triển kinh tế, đồng thời mang lại nguồn thu nhập cho chính bản thân
Ngân hàng. Song nền kinh tế nước ta trong thời gian qua còn rất nhiều khó
khăn, đặc biệt là năm 1998, 1999, hàng loạt các vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra giữa
các Ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế (vụ EPCO Minh Phụng, vụ
Temexco... ) đã làm ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế nói chung và bước
phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng. Một trong những
nguyên nhân dẫn tới những tổn thất tín dụng đó chính là những thiếu sót yếu
kém, chủ quan trong công tác thẩm định.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi toàn hệ thống và chi nhánh Ngân hàng Á
Châu phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là nâng
cao chất lượng thẩm định dự án. Bởi việc nâng cao chất lượng thẩm định dự
án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển
an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước và định hướng đầu tư đúng đắn
cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động thẩm định và chất lượng thẩm định là một vấn đề
không đơn giản chỉ giới hạn trong phạm vi một Ngân hàng mà nó gắn liền với
nhiều nhân tố khác như các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động của ngành,
môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định,
không chỉ đòi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân ngân hàng mà còn có sự
hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. Do vậy các giải pháp nâng cao chất lượng
thẩm định dự án đầu tư không chỉ là những giải pháp đối với Ngân hàng mà


còn là các giải pháp đối với các bộ, ngành có liên quan đến công tác thẩm định
nói chung.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG Á CHÂU HÀ NỘI TRONG THỜI
GIAN TỚI
ACB trong thời gian tới phải đồng thời đáp ứng nhiều yêu cầu: vừa phải
vuợt qua những thử thách nội tại, vừa phải đủ sức tồn tại trong cạnh tranh,
vừa phải nâng cao trình độ hoạt động để chuẩn bị cho môi trường hoạt động
khắc nghiệt của những năm sắp tới bởi quá trình mở cửa và hội nhập đang
đến rất gần sẽ đào thải những ngân hàng không có khả năng tự vệ.
Mục tiêu chủ đạo trong những năm tới của ngân hàng á Châu đó là
"hướng tới khách hàng". Hoạt động ngân hàng thời gian tới không chỉ là giới
thiệu để khách hàng lựa chọn những sản phẩm sẵn có mà còn là việc tạo ra
những sản phẩm mới bằng cách kết hợp nhiều sản phẩm riêng lẻ lại với nhau
để thoả mãn nhu cầu khác nhau của khách hàng, đó là hoạt động cung ứng
dịch vụ cho khách hàng. Xuất phát điểm của hoạt động ngân hàng không còn là
"sản phẩm "mà là "khách hàng ", tạo cho ngân hàng sự uyển chuyển và linh
hoạt để sẵn sàng thoả mãn những nhu cầu khác biệt nhau của từng khách
hàng thay vì để cho khách hàng tự thích nghi nhu cầu riêng của mình với
những sản phẩm ngân hàng sẵn có mang tính cứng nhắc do tính chất đồng
loạt của nó ngân hàng cũng phấn đấu để trở thành ngân hàng hàng đầu trong
hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Phương châm
chỉ đạo của ngân hàng trong những năm tới là 'Đa dạng hoá các nguồn thu
nhập' và 'Phân tán rủi ro'.
- Các mục tiêu sẽ được cụ thể hóa như sau:
+ Hoạt động dịch vụ: phát hành phổ biến thẻ tín dụng nội địa song song
với thẻ tín dụng quốc tế, tiếp tục phát triển hệ thống đại lý và các điểm chi trả,
thanh toán trong cả nước để thanh toán thẻ tín dụng và chuyển tiền nhanh
trong cả nước.
+ Hoạt động tín dụng: mở rộng cho vay các doanh nghiệp nước ngoài,cho
vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng cho vay đồng tài trợ, đầu tư

cho vay các công trình xây dựng trọng điểm của nhà nước.
Để hoàn thành những mục tiêu đã đề ra, Ngân hàng phải đổi mới công
nghệ ngân hàng, tăng cường được năng suất lao động để rút ngắn thời gian
thực hiện các quy trình nghiệp vụ, hoàn thành khối lượng công việc ngày càng
tăng nhanh chóng; đồng thời ứng dụng công nghệ mới đẻ hình thành và phát
triển thêm nhiều sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng;
trình độ quản lý sử dụng vốn phải được nâng lên phù hợp với việc hoàn thiện
hệ thống thông tin; nghiên cứu sử dụng những công cụ mới để khai thông đầu
ra phi tín dụng.
Cũng trên nền tảng công nghệ mới, tái cấu trúc bộ máy điều hành và tác
nghiệp của ngân hàng theo hướng tập trung, thống nhất để phát huy sức
mạnh của toàn hệ thống; mặt khác tăng cường hệ thống kiểm tra, kiểm soát
nội bộ và bộ máy quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cần dành một phần vốn thích đáng để
đầu tư trên thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ, tăng cường hoạt
động đầu tư trực tiếp, hùn vốn liên doanh với các dự án tốt hay các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Đổi mới công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải đào tạo lại nhân viên để có khả
năng làm chủ công nghệ, mặt khác yêu cầu nâng cao trình độ hoạt động ngân
hàng theo chuẩn mực quốc tế cũng đòi hỏi một đội ngũ nhân viên có năng lực
ở tầm cao hơn. Do đó, công tác phát triển nguồn nhân lực vẫn là công tác
trọng tâm của ngân hàng trong những năm sắp tới. Mạnh dạn sử dụng các
chuyên gia giàu kinh nghiệm nước ngoài đào tạo và tư vấn cho công tác này.
Đổi mới hệ thống trả lương để khuyến khích và kích thích nhân viên nâng cao
chất lượng công tác, tiền lương phải gắn liền với kết quả làm việc của từng
nhân viên, được đánh giá đúng mức bởi một hệ thống ghi nhân khoa học.
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG Á CHÂU HÀ NỘI
Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt
ra trong công tác thẩm định của ngân hàng để các ngân hàng có thể ngăn chặn

những dự án tồi và tài trợ cho những dự án tốt một cách có hiệu quả. Nâng
cao năng lực thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh
nước ta đang đẩy nhanh đầu tư nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng
trưởng bền vững.
Theo kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) về những thành
công lớn của các dự án mà họ đã đầu tư liên doanh hoặc tài trợ phần lớn do
kết quả của bước thẩm định có chất lượng cao. Đồng thời họ cũng chỉ ra rằng
việc thảm định sẽ không có hiệu quả nếu dự án chỉ được xem xét đánh giắ một
cách phiến diện, dàn trải. Ngân hàng Thế giới đã xây dựng cho mình một đội
ngũ chuyên gia phản biện cho từng lĩnh vực, từng ngành nghề chuyên sâu đảm
bảo cho công việc thẩm định được chặt chẽ và toàn diện, hơn nữa còn hỗ trợ
tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực khách hàng đầu tư. Với những lĩnh
vực mà đội ngũ nhân viên Ngân hàng không đảm trách được hoặc không
chuyên sâu, Ngân hàng có thể thuê thêm các chuyên gia tư vấn để đánh giá đầy
đủ bốn khía cạnh của dự án: Kinh tế; Tài chính; Kỹ thuật và Thể chế.
Trong quá trình thẩm định cần đặc biệt chú ý đến thời điểm chi vốn và
khả năng sinh lợi của dự án đồng thời báo các xu thế cố thể xảy ra trong tương
lai ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của dự án để từ đó đưa ra các biện
pháp phòng ngừa rủi ro. Một dự án được lựa chọn khi nó đảm bảo được yêu
cầu lợi ích của những bên tham gia đầu tư và lợi ích chung với xã hội, ở mỗi
chu kỳ của dự án cần phải có sự phối hợp kiểm tra đánh giá, xếp loại dự án,
nhằm đảm bảo dự án được thực hiện theo đúng các bản thiết kế và các bản
thoả thuận. Các dự án sau được xây dựng và thẩm định dựa trên kinh nghệm
của các dự án trước trong cùng một thời gian. Cứ như vây, các bài học kinh
nghiệm được đưa vào việc thiết kế và chuẩn bị cho dự án tương lai.
Đối chiếu với tình hình nước ta hiện nay, để công tác thẩm định dự án của
các ngân hàng đáp ứng yêu cầu tài trợ một cách có hiệu quả cho những dự án
khả thi là một công việc không phải dễ, bởi lẽ thiếu thông tin về thị trường,
những dự báo về mức cầu, định hướng phát triển của các ngành nghề trong
tương lai cũng là một trở ngại lớn cho ngân hàng.

Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của công tác thẩm định tài chính
dự án đầu tư của Ngân hàng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng; chất
lượng của công tác này ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tỷ trọng tín dụng
trung dài hạn, tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng; và trên cơ sở tìm
hiểu, nghiên cứu những tồn tại, nguyên nhân em xin được phép đưa ra một số
ý kiến mang tính chất giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài
chính dự án đầu tư tại ngân hàng Á Châu Hà Nội. Các ý kiến đưa ra chỉ tập
trung chủ yếu trên các vấn đề sau:
+ Quy trình thẩm định.
+ Con người.
+ Tổ chức khai thác và cung cấp thông tin có hiệu quả.
+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soat nội bộ đối với hoạt động thẩm định.
3.3.1. Giải pháp về quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại ACB nhìn chung tương đối hợp lý
và đầy đủ các khâu, các bước cần thiết của một quy trình chuẩn. Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng và ngay cả bản thân quy trình vẫn còn một số điểm
hạn chế. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư và độ an toàn của
các món vay, em xin được đưa ra một số ý kiến sau:
• Trong nội dung thẩm định khách hàng vay vốn:
Ngân hàng căn cứ vào Báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho Ngân
hàng để thẩm định năng lực tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Để công tác thẩm định khách hàng có ý nghĩ, trước hết các thông tin mà khách
hàng cung cấp phải chính xác. Vì vậy, trước khi tiến hành thẩm định, cán bộ
thẩm định nên cần xác minh tính đúng đắn, trung thực của các số liệu, yêu cầu
khách hàng nộp đủ Báo cáo tài chính trong ít nhất là 3 năm liền để cán bộ
thẩm định có thể đánh giá được xu hướng hoạt động của doanh nghiệp. Việc
lập và tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính phải phục vụ cho việc phân tích.
Chẳng hạn, trong các khoản phải thu thì bao nhiêu phần trăm là khó đòi; trong
hàng tồn kho có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; vốn cố
định biểu hiện dưới dạng máy móc, nhà xưởng, thiết bị lạc hậu hay hiện đại;

trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn, nợ khó đòi...
Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, cán bộ thẩm định nên đánh giá, kết
hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Bên cạnh
đó, ngân hàng cần khẩn trương đưa vào phân tích, đánh giá báo cáo lưu
chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả
năng thanh toán hiện thời và trong tương lai của khách hàng.
Trong quy trình thẩm định, ngân hàng nên dựa trên quy mô vốn vay và
tổng số vốn đăng ký của đơn vị mà phân thành các quy mô doanh nghiệp khác
nhau. Với những doanh nghiệp có vốn lớn, Ngân hàng nên đi sâu vào phân tích
các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, trình độ quản lý của
doanh nghiệp, do việc quản lý các doanh nghiệp có quy mô lớn thường khó
khăn hơn và vốn vay thường lớn hơn. Ngược lại đối với các doanh nghiệp nhỏ,
doanh nghiệp tư nhân hay hộ gia đình, ngân hàng nên chú trọng hơn tới uy tín,
năng lực kinh doanh, khả năng thanh toán và các điều kiện đảm bảo tiền vay.
Bên cạnh những biện pháp định lượng được coi như “kỹ thuật thẩm định”,
cán bộ tín dụng cũng nên áp dụng các phương pháp định tính, hay “ nghệ
thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nhận
xét một cách khách quan nhất về khách hàng. Để thực hiện phương pháp này,
bước đầu tiên là quan sát. Có nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc, phỏng vấn hoặc
đến trực tiếp doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông
tin về doanh nghiệp hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ.
Tuy nhiên, “nghệ thuật” thẩm định chưa được đề cập đến trong bất cứ
một môn học nào, mà chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và tài quan sát của cán bộ
thẩm định. Làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà cán bộ tín
dụng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có
thể giúp cho cán bộ tín dụng có thể đánh giá định tính về khách hàng:
- Khả năng lãnh đạo quản lý doanh nghiệp là yếu tố năng động nhất. Nếu khả
năng quản lý tốt có thể biến đổi một doanh nghiệp yếu kém thành một doanh
nghiệp khá và ngược lại. Thông thường nói đến khả năng quản lý là nói đến
các chính sách và bộ máy quản lý mà được quy tụ lại ở năng lực quản lý của

ban giám đốc điều hành và biểu hiện ở chất lượng quản lý, hiệu quả kinh
doanh. Đánh giá vấn đề này, thể hiện qua các nội dung sau:
+ Năng lực đề ra sách lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững
trên thị trương.
+ Đưa ra kế hoạch triển khai các công việc một cách hợp lý, có hiệu quả,
đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và Bộ tài chính.
+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hiệu quả, phân định rõ trách nhiệm và
quyền hạn giữa nhân viên và người điều hành. Sử dụng đúng người, đúng việc,
có chính sách khuyến khích khen thưởng và tuyển mộ hợp lý.
+ Có tinh thần dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm trước những quyết
định của mình.
- Hình ảnh, vị trí uy tín của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định
qua dư luận xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong quan hệ với
khách hàng, với nhà cung cấp.
• Trong phương án, dự án vay vốn:
Ngân hàng cần thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo đánh
giá, nhìn nhận dự án một cách toàn diện, giúp cho việc ra quyết định đầu tư
một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thẩm định phương tiện thị trường là cơ sở
để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án. Kết quả thẩm
định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí,
xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án
lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho
vay, thu nợ của Ngân hàng.
- Khi thẩm định phương diện thị trường, cán bộ thẩm định cần thu thập các
thông tin về: Số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng
một khu vực thị trường (kể cả doanh nghiệp sắp thành lập); mức cầu sản
phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng
trưởng trong thời gian tới; mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị
trường; Thông tin giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra,

cán bộ thẩm định còn phải nắm được quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng
phát triển do Bộ, ngành xây dựng công bố để đảm bảo dự án là các công trình
được tiến hành theo đúng kiến trúc quy hoạch của Nhà nước.
- Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật, với những dự án phức tạp,
vượt ra ngoài khả năng của cán bộ thẩm định, Ngân hàng nên thuê chuyên gia,
tránh tình trạng chấp nhận ngay những kết quả kỹ thuật doanh nghiệp đưa
đến. Đồng thời bản thân cán bộ tín dụng cũng phải nghiên cứu, tìm hiều về
những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách.
- Thẩm định phương diện tài chính dự án. Đây là khâu quan trọng nhất quyết
định tính khả thi của dự án.
Khi lập dự toán và nguồn vốn đầu tư, Ngân hàng cần chú trọng kiểm tra
tính hợp lý về chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự
điển hình (không chỉ những dự án do ACB thẩm định mà cả những Ngân hàng
khác đã từng thẩm định). Ngân hàng không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù
chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay, tránh tình trạng tính thừa hay tính
thiếu.
Về phương pháp thẩm định:
Ngân hàng cần tham khảo và áp dụng những phương pháp thẩm định
hiện đại đang được áp dụng trên thế giới song phù hợp với khả năng và điều
kiện của Ngân hàng cũng như điều kiện Việt Nam, đó là tiến hành thẩm định
dự án đầu tư trong trạng thái động có nghĩa là có tính đến giá trị thơì gian của
dòng tiền, những rủi ro thị trường đầu ra và đầu vào, lạm phát, tỷ giá... để
đánh giá độ bền của dự án.
Khi tiến hành thẩm định phương diện tài chính, Ngân hàng cần xây dựng
một hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Việc vận dụng tính các chỉ tiêu này cần
đúng và đủ song quan trọng hơn là cán bộ thẩm định phải đưa ra được những
đánh giá, kết luận từ các chỉ tiêu đó và lựa chọn tiêu chuẩn chấp nhận dự án
một cách chính xác, phù hợp với từng loại ngành nghề, đôi khi có sự ưu tiên về
một khía cạnh nào đó của dự án.
Khi tính toán chi phí sản xuất cho dự án, cán bộ thẩm định nên lập bảng

tính lãi vay dựa trên dư nợ còn lại, việc tính lãi vay như vậy sẽ mang tính thực
tế hơn. Việc tính khấu hao tài sản cố định cần thực hiện theo đúng quy định
của Bộ tài chính. Dự trù thu nhập - chi phí phải được lập theo từng năm, tránh
tình trạng san đều như nhau qua các năm. Trong quá trình lập dự trù thu
nhập, chi phí, cán bộ thẩm định thường lấy theo giá trị trung bình của các biến
số với độ chính xác không cao. Vì vậy, để tránh việc chấp nhận những dự án
quá lạc quan, người ta thường sử dụng những ước tính với xu hướng giảm bớt
doanh thu và tăng chi phí.
Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày ở trên, cùng với tình hình thực tế và
khả năng ứng dụng, Ngân hàng nên áp dụng hệ chỉ tiêu đánh giá bao gồm: Giá
trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian
hoàn vốn có chiết khấu, điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro... bằng các
ứng dụng chương trình phần mềm máy tính.
3.3.2. Giải pháp về con người
Nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định tín dụng và thường xuyên cập
nhật những quy định của Nhà nước là những quy định có tính nghiêm ngặt và
chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng.
Tuân thủ các pháp lệnh của Nhà nước còn giúp Ngân hàng có thể bảo vệ lợi ích
của mình trong một số lĩnh vực mà ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn
để thẩm định.
Con người là yếu tố trung tâm, cội nguồn của mọi vấn đề. Chất lượng
thẩm định dự án phụ thuộc phần lớn vào yếu tố này. Bởi chiến lược con người
là chiến lược lâu dài nên Ngân hàng cần có sự đầu tư quan tâm thường xuyên
đến đội ngũ cán bộ điều hành hoặc trực tiếp tham gia thẩm định. Để xây dựng
một đội ngũ cán bộ thẩm định vững mạnh, ACB cần chú ý:
- Đứng trên góc độ ngân hàng, cán bộ thẩm định cần phải nắm chắc các quy
định do Nhà nuớc ban hành, cụ thể như:
+ Quy định về dự toán vốn đầu tư.
+ Quy định về đấu thầu.
+ Quy định về bảo vệ môi trường.

+ Quy định về kế hoạch, kiến trúc và xây dựng.
+ Quy định về các chế độ tài chính đối với tùng loại hình doanh nghiệp để
đảm bảo các khoản mục chi phí của doanh nghiệp khi đi vào vận hành sản xuất
kinh doanh là hợp lệ và được các cơ quan tài chính chấp nhận.
+ Quy định về khấu hao tài sản cố định, chế độ tiền lương tiền thưởng.
+ Quy định về tiền thuê đất, sử dụng đất, tiền thuê bao.
+ Những quy định về miễn giảm ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư.

×