Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Một số tư tưởng kinh tế Việt Nam hiện đại (kỳ 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.2 KB, 5 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015

37

MỘT SỐ TƢ TƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (KỲ 1)
ThS. Lê Thị Mến
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Sau gần 30 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được một số thành
tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực và ngày càng khẳng định vị thế của mình
trên trường quốc tế. Thực tiễn đó cho thấy những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng đã đi vào cuộc sống và được hiện thực hóa trên con đường đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết phân tích về một số tư tưởng kinh tế của
Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước.
Từ khoá: Việt Nam (VN), Xã hội chủ nghĩa (XHCN), Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH), Đảng cộng sản, Đại hội Đảng toàn quốc, thành phần kinh
tế (TPKT)..

1. Tƣ tƣởng về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nƣớc
Tư tưởng CNH, HĐH xuyên suốt
trong các tư tưởng kinh tế VN hiện đại.
Xuất phát từ nước nông nghiệp lạc hậu,
muốn xây dựng một nền kinh tế sản xuất
lớn, hiện đại thì con đường tất yếu là
phải CNH, HĐH đất nước.
Ngay từ đại hội III (09/1960) của
Đảng đã xác định: CNH XHCN là
nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá
độ ở nước ta. Tư tưởng đó được quán
triệt trong các kỳ đại hội Đảng toàn
quốc tiếp theo.


Đại hội III xác định, điểm mấu
chốt trong CNH là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng, vì đó là nền tảng của
nền kinh tế quốc dân. Có ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng mới có thể tranh
thủ được những tư liệu sản xuất cho
công nghiệp, nông nghiệp, đảm bảo tái
sản xuất mở rộng không ngừng, phát
triển cao độ nền kinh tế quốc dân, cải
thiện không ngừng đời sống nhân dân.
Nhìn chung, tư tưởng ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng là nhằm HĐH
đất nước. Tư tưởng đó là đúng đắn. Tuy
nhiên, phương pháp, bước đi về phát
triển CNH, HĐH như thế nào lại là vấn
đề phức tạp. Trong nhiều năm, VN tập

trung nguồn lực vào đầu tư phát triển
lĩnh vực công nghiệp như: điện lực,
luyện kim, chế tạo cơ khí,…Song, do
chủ quan nóng vội đã đề ra một số chỉ
tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc
độ xây dựng cơ bản và phát triển sản
xuất nên nhiều mục tiêu CNH không
được thực hiện, lại góp phần làm sâu sắc
những khó khăn về kinh tế-xã hội của
đất nước.
Vì vậy, đại hội V (03/1982) Đảng
ta khẳng định tiếp tục đường lối xây
dựng nền kinh tế XHCN là: đẩy mạnh

CNH XHCN nước nhà, xây dựng cơ sở
vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công
nghiệp và nông nghiệp cả nước thành
một cơ cấu công-nông nghiệp. Đồng
thời đã cụ thể hóa cách đi của CNH
trong những năm 1981-1985 là: tập
trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất
lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một
số ngành công nghiệp nặng quan trọng.


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015

Đến đại hội VI (12/1986), tư tưởng
CNH, HĐH được gắn với việc thực hiện
3 chương trình về lương thực thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đó là
cụ thể hóa nội dung chính của CNH
XHCN trong chặng đường đầu tiên ở
nước ta.
Đến đại hội VII (06/1991), tư
tưởng về CNH có một bước phát triển

mới. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ
VII Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII (7/1994) viết: CNH, HĐH là
quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ sử dụng
thủ công là chính sang sử dụng lao động
một cách phổ biến cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến,
HĐH dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Về mục tiêu lâu dài của CNH,
HĐH là cải biến nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chức, xã hội công
bằng văn minh. Mục tiêu trước mắt đến
năm 2000 là đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, ổn định tình hình kinh tếxã hội, cải thiện đời sống nhân dân, củng
cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện
cho đất nước phát triển nhanh hơn vào
đầu thế kỷ XXI.
Trong những năm đổi mới, các nhà
kinh tế học VN đưa ra khái niệm CNH
theo hướng xuất khẩu đồng thời thay
thế nhập khẩu. Nội dung cơ bản của tư

tưởng này là hướng sự phát triển của
khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong
nước vào việc sản xuất hàng hóa nhằm

38

đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở lợi thế so
sánh của đất nước; đồng thời tăng cường
sản xuất những hàng hóa mà đất nước
có khả năng sản xuất và nhập khẩu
những hàng hóa công nghệ nhằm phục
vụ sản xuất hàng nhập khẩu. Về thực
chất, đây là một phương pháp, cách đi
của CNH nhằm HĐH đất nước, thúc
đẩy nhanh sự phát triển khoa học, công
nghệ góp phần vào tăng trưởng và phát
triển của đất nước.
Đến đại hội IX (04/2001) của Đảng
cộng sản VN, một tư tưởng đặc biệt chú
ý là đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm
2020 đưa VN cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để
thực hiện đường lối chiến lược đó, con
đường CNH, HĐH của VN là cần và có
thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước đi tuần tự, vừa có bước nhày vọt.
Đại hội IX cũng chỉ ra, cần phát
huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ
công nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng

ngày càng nhiều, càng cao và phổ biến
hơn những thành tựu mới về công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí
thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người VN; coi phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ là nền tảng và là động lực
của sự nghiệp CNH, HĐH.
Tư tưởng tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của VN để rút ngắn quá trình
CNH, HĐH đất nước theo định hướng
XHCN gắn với phát triển kinh tế trí
thức, coi kinh tế trí thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế và của CNH, HĐH
được đại hội X (04/2006) của Đảng cộng
sản VN tiếp tục khẳng định.
Đại hội lần thứ XI (01/2011) khẳng
định: Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015

gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường‖. Đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh
tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng
sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng
và chiều sâu; từ tăng trưởng chủ yếu dựa
vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài

nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang
tăng trưởng chủ yếu do tiến bộ khoa
học-công nghệ, nguồn nhân lực chất
lượng cao, nâng cao năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm; phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ
cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh
lớn gắn với phát triển kinh tế trí thức.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội 2011-2020 nhận mạnh: tiếp tục đẩy
mạnh CNH, HĐH và phát triển nhanh,
bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo định hướng
XHCN.
Nhìn chung, CNH, HĐH là xuyên
suốt trong các tư tưởng kinh tế VN hiện
đại. Quá trình phát triển tư tưởng này là
quá trình từng bước hoàn thiện về nội
dung, phương pháp, cách đi của CNH,
HĐH đất nước không ngoài mục tiêu xây
dựng một đất nước VN: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
II. Tƣ tƣởng về phát triển kinh tế
nhiều thành phần
Tư tưởng kinh tế nhiều thành phần
ở Việt Nam trải qua một số giai đoạn
phát triển:
Giai đoạn đầu từ sau năm 1954,
nhất là từ sau đại hội III (9/1960) của

Đảng, VN chủ trương xây dựng nền kinh
tế XHCN trên cơ sở sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất.
Để thực hiện tư tưởng đó, Việt
Nam đã tiến hành quốc hữu hóa các xí
nghiệp tư nhân và xây dựng các doanh

39

nghiệp quốc doanh, hình thành nên các
xí nghiệp thuộc sở hữu toàn dân trong
các lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, thực
hiện hợp tác hóa nông nghiệp, tiểu
thương, tiểu thủ công để chuyển sở hữu
tư nhân sản xuất nhỏ thành sở hữu tập
thể trong nông nghiệp, thương nghiệp
nhỏ và tiểu thủ công nghiệp.
Kết quả là, sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể chiếm tỷ trọng lớn hơn trong
nền kinh tế quốc dân. Sở hữu tư nhân
sản xuất nhỏ chiếm một tỷ trọng không
đáng kể. Trong nền kinh tế, không còn
sở hữu tư bản.
Sự thống trị của sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể trong nền kinh tế Việt
Nam đóng vai trò quan trọng trong thời
kỳ kháng chiến chống xâm lược. Sau khi
đất nước thống nhất, cả nước tập trung
vào nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hòa

bình, thì những hình thức sở hữu này tỏ
ra không phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thấp kém. Vì vậy,
hiệu quả của nền kinh tế bị giảm sút
nghiêm trọng, xuất hiện xu thướng đa
dạng hóa sở hữu trong nền kinh tế.
Thêm vào đó, sự suy giảm mô hình và
sự thống trị của sở hữu tập thể ở các
nước XHCN, sự mở rộng mô hình kinh
tế hàng hóa, thị trường ở các nước trên
thể giới làm tăng xu hướng đa dạng hóa
trong nền kinh tế VN.
Vì vậy, từ những năm 1986, tư
tưởng của Đảng cộng sản VN là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần
XHCN, bao gồm khu vực quốc doanh,
khu vực kinh tế tập thể và các TPKT
khác (gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng
hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước dưới nhiều hình thức).
Đại hội VII (6/1991) của Đảng
cộng sản VN khẳng định, trong nền kinh


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015

tế VN có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập
thể, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó, kinh
tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.

Tư tưởng phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần ngày càng hoàn thiện
trong quá trình đổi mới kinh tế ở VN,
thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng
cộng sản VN lần thứ VIII, IX, X và XI.
Văn kiện đại hội IX của Đảng cộng
sản VN đã chỉ ra, ở VN hiện nay có ba
hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân; từ
đó hình thành nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng và đan xen. Đồng thời
khẳng đinh, thực hiện nhất quán chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, các TPKT kinh doanh theo pháp
luật và đều là các bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh;
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Đến đại hội X (4/2006) nêu rõ, ở
VN có ba chế độ sở hữu là sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân,
với nhiều hình thức sở hữu và nhiều
TPKT: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản
tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
TPKT hoạt động theo pháp luật, đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN,
bình đẳng trước pháp luật, cùng pháp
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
nhà nước định hướng và điều tiết nền

40

kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc
đẩy các TPKT cùng phát triển. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi
mới, Đại hội XI (01/2011) của Đảng đã
có những khái quát mới về lý luận: Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều TPKT, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối.
Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng
ta nêu đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
các TPKT, các loại hình doanh nghiệp.
Đây là một bước phát triển mới trong

nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ
nhấn mạnh: Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều TPKT, hình
thức tổ chức kinh doanh, còn số lượng
các hình thức sử hữu, các TPKT và theo
đó là bao nhiêu loại hình doanh nghiệp
là do nhu cầu khách quan của sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất quyết định. Đây là một bước
tiến nhằm tạo một không gian mở cho
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất hoạt động, để
có thể tránh giáo điều chủ quan.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh
tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế. Phát triển
mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu
hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy
hoạch và quy định của pháp luật. Tạo
điều kiện hình thành một số tập đoàn


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 2-2015

kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào
các tập đoàn kinh tế nhà nước. Các

TPKT hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân
là một trong những động lực của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được khuyến khích phát triển. Các hình

41

thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Các yếu tố thị
trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị
trường từng bước được xây dựng, phát
triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế
thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng
XHCN.
Ngày nay, từ kết quả gần 30 năm
đổi mới, chúng ta lại có một bước tiến
quan trọng trong quá trình nhận thức
bằng việc khẳng định vai trò của các
TPKT qua sự đóng góp đối với quá trình
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại

cho nền kinh tế quốc dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI; VII; VIII; IX; X; XI của
Đảng cộng sản VN.
[2] Nguyễn Viết Thông: Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XI của Đảng.
lyluanchinhtri.vnu.edu.vn.



×