Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Lựa chọn giải pháp móng cọc cho nhà cao tầng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.08 KB, 4 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012

127

CHUYÊN MỤC: CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO KHOA HỌC
LỰA CHỌN GIẢI PHÁP MÓNG CỌC CHO NHÀ CAO TẦNG
ThS. Phạm Ngọc Tân
Khoa Xây dựng, trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Đối với nhà cao tầng, thông thường tải trọng là rất lớn, nhất là khi có sự cố công
trình sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy việc lựa chọn giải pháp móng cọc cho nhà
cao tầng là tất yếu, nhất là khi công trình đặt ở vùng chịu ảnh hưởng của động đất hay
trên nền đất yếu. Vấn đề là chọn giải pháp móng cọc gì (đóng, ép hay cọc nhồi) sao cho
vừa đảm bảo tính ổn định, vừa đảm bảo tính kinh tế và an toàn khi thi công thì còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố mà cần phải nghiên cứu và tính toán kỹ. Bài báo này tác giả xin
tóm tắt qua một số vấn đề khi lựa chọn giải pháp móng cọc cho nhà cao tầng.
Từ khóa: Nền móng, móng cọc, nhà cao tầng, sự cố nền móng.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trên con đường công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước nói chung, các
công trình xây dựng đã, đang và sẽ phát triển
mạnh cả về số lượng lẫn quy mô. Thực tế
cho thấy, khi số lượng và quy mô công trình
tăng thì sự cố công trình cũng tăng theo,
nhiều sự cố đã gây ra hậu quả rất nghiêm
trọng. Theo thống kê, trong các sự cố công
trình thì có khoảng 70% là liên quan đến nền
móng, nhất là đối với nhà cao tầng hoặc khi
công trình đặt trên nền đất yếu hay trong
vùng chịu ảnh hưởng của động đất.
Cũng theo thống kê, giá trị phần nền


móng công trình có thể chiếm từ 10 ÷ 50%
giá thành xây dựng công trình. Vì vậy việc
lựa chọn giải pháp móng gì cho nhà cao tầng
để thi công sao cho vừa đảm bảo tính ổn
định, vừa kinh tế và an toàn là vấn đề phải
được xem xét và tính toán kỹ, mà đôi khi
việc lựa chọn này là rất khó khăn, nhất là khi
công trình đặt trong vùng chịu động đất hay
trong khu vực xây chen.
1. Giải pháp nền móng của một số nhà cao
tầng
Đặc điểm của nhà cao tầng là tải trọng
lớn và tập trung, mặc khác trọng tâm nhà
cách mặt đất đáng kể nên rất nhạy đối với

hiện tượng nghiêng lệch. Khi chịu tác động
của tải trọng ngang (gió và động đất) sẽ sinh
ra mômen lật rất lớn nên có yêu cầu rất khắc
khe đối với việc tính toán công trình theo
TTGH như khả năng chịu lực, tính ổn định
và chênh lệch lún của móng nhà. Vì vậy yêu
cầu đối với giải pháp Nền Móng nhà cao
tầng là phải chịu được tải trọng lớn, có khả
năng chống lún lệch và chống lật tốt.
Chúng ta có thể tham khảo qua các giải
pháp Nền móng cho một số công trình như
sau:
- Dùng giải pháp móng bè trên nền thiên
nhiên:
+ Cao ốc 163 Nguyễn Văn Trỗi,

Quận Phú Nhuận dùng giải pháp Móng bè
trên nền thiên nhiên
+ Cao ốc 15 tầng tại 8A Nguyễn Bỉnh
Khiêm, TP.HCM,…
+ Khách sạn TÂN ĐÀO VIÊN 8 tầng
tại Trần Hưng Đạo – Tản Đà, Q5 –
TP.HCM.
+ Văn phòng Hàng Hải 11 tầng tại
211 – Nguyễn Văn Trổi, Q.Phú Nhuận
- Dùng giải pháp móng cọc tiền chế tiết diện
nhỏ thi công đóng, ép:
+ Chung cư Phạm Viết Chánh, TP.HCM
cao 15 tầng dùng cọc 300x300 dài 18m.


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012

+ Chung cư Ngô Tất Tố 15 tầng dùng
cọc 300x300 dài 36m.
+ Các cao ốc đến 20 tầng tại Phú Mỹ
Hưng, Q7 dùng cọc d = 0,35m và d = 0,4m
dài hơn 30m,…
- Dùng giải pháp móng cọc nhồi, cọc
Barrette:
+ Móng của khách sạn Royal – Hà Nội
dùng cọc nhồi đường kính 1200mm dài
42÷43m, với sức chịu tải của cọc là 3850 kN.
+ Móng của khách sạn Centrol – Hà
Nội dùng cọc nhồi đường kính 1000 dài
39m, với sức chịu tải của cọc là 3000 kN.

+ Móng của cao ốc Ocean place, 80
Đông Du – TP. Hồ Chí Minh dùng cọc nhồi
đường kính 1200mm dài 50 ÷56m với sức
chịu tải của cọc là 8000 kN.
+ Tháp đôi Petronas Malaysia (hình 1):

128

Thực tế cho thấy rằng, vì nhiều lý do
khác nhau mà dẫn đến việc lựa chọn giải
pháp nền móng không hợp lý, điều này sẽ
gây ra sự cố cho công trình, mà đôi khi việc
khắc phục sự cố rất khó khăn, tốn kém, có
khi phải phá bỏ công trình.
2. Một số sự cố nền móng công trình

Hình 2: Các công trình bị nghiêng, lật do giải
pháp Nền móng không hợp lý

Hình 3: Cao ốc ở Trung Quốc bị gãy ngang hệ
cọc của móng công trình
Hình 1: Tháp đôi Pertronas

công trình này đã dùng 29.000m² tường trong
đất bằng betông cốt thép dày 0.8m sâu 30m để
làm tường các tầng hầm. Đã dùng 2 loại cọc
barrette 1.2x2.8m sâu từ 60÷125m và cọc
0.8x2.8m sâu từ 40÷60m. Đài cọc là loại
móng bè dày 4.5m làm bằng betông cốt thép.
- Cao ốc View Tower ở TP. Hồ Chí

Minh cao 19 tầng dùng 3210m² tường trong
đất dày 0.6m sâu 30m để làm 2 tầng hầm.
Dùng 6 cọc Barrette 0.8x2.8m sâu
44.5÷46.5m.

Hình 4: Công trình bị nghiêng do sự lún lệch
quá mức của móng


Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012

Hình 5: Sự cố nứt nhà lân cận do sử dụng giải
pháp móng sâu không hợp lý

II. LỰA CHỌN GIẢI PHÁP MÓNG
CỌC CHO NHÀ CAO TẦNG
Thực tế cho thấy rằng có thể thiết kế
giải pháp móng nông cho nhà cao tầng như
dùng móng bè khi nền đất tốt, nhưng nhiều
tài liệu nghiên cứu đã kết luận rằng không
nên chọn giải pháp móng bè cho nhà cao
tầng vì móng bè có nhiều rủi ro, thiếu an
toàn do dễ lún nghiêng và gây ảnh hưởng
các công trình lân cận, nhất là trong vùng
chịu ảnh hưởng của động đất. [2]
Vì vậy trong thiết kế thực tế về nền
móng công trình nhà cao tầng, giải pháp
móng cọc thường được lựa chọn, vì móng
cọc chiếm vị trí quan trọng không những
đảm bảo về chất lượng công trình mà còn có

ý nghĩa kinh tế và dễ đạt mục tiêu tiến độ đề
ra. Nhưng thiết kế móng cọc sao cho hợp lý
nhất là vấn đề còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố mà chúng ta phải xem xét kỹ. [4]
1. Những đặc điểm chính khi thiết kế
móng cọc cho nhà cao tầng [3]
a) Cọc cần thiết kế sao cho mũi cọc chống vào
tầng lực cứng rắn (đá gốc, cuội, sỏi) hoặc
tương đối cứng (sét từ dẻo cứng, cát chặt
vừa,..) để có khả năng chịu tải đứng cao đủ để
mang tòan bộ tải đúng của cả công trình.
b) Móng cọc có độ cứng theo chiều đứng rất
lớn, dưới ảnh hưởng của tải trọng bản thân
công trình hoặc tải trọng lân cận sẽ không
sinh ra lún lệch quá nhiều, bảo đảm cho độ

129

nghiêng công trình không vượt quá giới hạn
cho phép.
c) Với móng cọc tiết diện lớn thì nhờ độ
cứng theo chiều ngang lớn nên có khả năng
chống nghiêng lật tổng thể rất lớn, nên chịu
được tải trọng ngang và mômen do gió và
động đất gây ra, bảo đảm được tính ổn định
chống nghiêng lật của công trình.
d) Chiều dài cọc có thể thiết kế xuyên qua tầng
đất mềm để chống vào tầng đất cứng hoặc đá
gốc nên trong trường hợp có động đất làm cho
tầng đất nông bị hóa lỏng và lún sụt thì cọc vẫn

có thể đủ khả năng chịu nén và chịu nhổ bảo
đảm cho công trình vẫn còn ổn định.
2. Một số công nghệ thi công móng cọc
thường dùng
a) Cọc đóng, rung: với thiết bị hạ cọc là búa
Diezel, búa rơi tự do, búa hơi song động,
đơn động [1]. Các hư hỏng thường gặp khi
thi công: Vỡ đầu cọc, hư hỏng mối nối, nứt
,vỡ cọc do ứng suất kéo,…
b) Cọc ép (Ép trước hoặc ép sau): Thiết bị
thường dùng là máy ép thủy lực [1] với hư
hỏng thường gặp là vỡ đầu cọc.
c) Cọc nhồi (khoan nhồi hay đóng nhồi) với
thiết bị thi công là máy khoan gầu, guồng
xuắn, tuần hoàn,…hoặc dùng các thiết bị thi
công chuyên dụng (thông thường công nghệ
thi công với các loại thiết bị này có bản quyền)
[1], với các sự cố thường gặp như sau [3]:
- Sự cố không rút được đầu khoan lên;
- Sự cố không rút được ống vách lên trong
phương pháp thi công có ống vách;
- Sự cố sập thành vách hố khoan;
- Sự số trồi lồng thép khi đổ bêtông cọc (do
ảnh hưởng của quá trình rút ống vách hay do
lực đẩy của bê tông khi dâng lên)
- Sự cố tụt cốt thép chủ;
- Hư hỏng liên quan bê tông cọc, có thể bị sự
cố từ các khâu: khoan tạo lỗ, xử lý cặn lắn



Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012

đáy hố khoan, dùng vật liệu hay ngay trong
công đoạn đổ bê tông,…
- Sự cố gặp hang caster khi khoan,…
3. Những căn cứ chính để lựa chọn giải
pháp thi công cọc:
a) Các điều kiện cụ thể để lựa chọn giải pháp
thi công cọc:
- Địa điểm công trình;
- Độ lớn của các loại tải trọng;
- Điều kiện địa chất công trình và địa chất
thuỷ văn;
- Yêu cầu của môi trường (rung động và
tiếng ồn, đất nước thải);
- Ảnh hưởng đến công trình lân cận và công
trình ngầm;
b) Nguyên tắc lựa chọn giải pháp thi công cọc:
Thông thường ưu tiên chọn phương án
cọc đơn giản mà hiệu quả đó là cọc đóng, ép vì
giá thành giải pháp cọc nhồi thường đắt gấp 2
lần cọc ép, đóng. Hơn nửa việc quản lý chất
lượng thi công cọc nhồi thường rất phức tạp
nên chất lượng cọc kém tin cậy hơn. [3]
Nếu phải thiết kế cọc nhồi thì nên chọn
cọc có tiết diện lớn D từ 800mm trở lên.
Giải pháp cọc nhồi thường được sử
dụng trong trường hợp tải trọng công trình
quá lớn hoặc công trình trong khu vực xây
chen. Cọc nhồi có ưu điểm là sức chịu tải

lớn, khi thi công không gây chấn động mạnh
và tiếng ồn lớn.
Lưu ý: Khi lựa chọn giải pháp thi công
cọc phải lường trước giải pháp kiểm tra chất
lượng cọc trong quá trình thi công và sau khi
hoàn thành cọc.

130

4. Những phương pháp thí nghiệm kiểm
tra chất lượng cọc thường sử dụng
Mục đích của việc kiểm tra là xác định
chất lượng, độ đồng đều của bê tông cọc
trong quá trình thi công hay kiểm tra sức
chịu tải của cọc sau khi hoàn thành cọc.
- Các phương pháp kiểm tra chất lượng, độ
vẹn toàn của cọc: phương pháp kiểm tra trực
tiếp (khoan lấy mẫu, đào thăm dò); các
phương pháp kiểm tra gián tiếp thường dùng
(siêu âm cọc, phóng xạ, biến dạng nhỏ
PIT,…[1]
- Các phương pháp kiểm tra sức chịu tải cọc:
Dùng phương pháp gia tải tĩnh (nén tĩnh cọc,
hộp Osterberg) hoặc dùng phương pháp gia
tải động: Công thức động, PDA,
Statnamic,…[1]
III. KẾT LUẬN
- Đối với nền móng công trình, trước
tiên phải lựa chọn phương án móng đơn giản
và kinh tế, khi nào giải pháp móng bè không

đạt mới chuyển sang cọc đóng, ép rồi cuối
cùng là cọc nhồi.
- Khi chọn cọc nhồi thì nên chọn cọc
có đường kính lớn, thông thường chi phí cọc
nhồi thường cao hơn 2 lần với giải pháp cọc
tiền chế.
Chất lượng cọc nhồi thường ít tin cậy hơn so
với cọc tiền chế nên cần có giải pháp kiểm
tra tốt khi thi công cũng như sau khi hoàn
thành cọc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nền Móng các công trình dân dụng – công nghiệp – Nguyễn Văn Quảng, Nguyễn Hũư
Kháng, Uông Đình Chất, NXB Xây dựng – Hà Nội, 2002.
[2]. Nền Móng Nhà cao tầng, GS.TSKH Nguyễn Văn Quảng, NXB khoa học và kỹ thuật, 2006.
[3]. Tài liệu tại hội thảo: “Móng cọc của cao ốc và chung cư nhiều tầng”, TP. Hồ Chí Minh,
2004.



×