NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC
DNNQD CỦA NHTM
1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1. Tổng quan về NHTM
• Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
Theo Hiệp định Basel II, “Ngân hàng” được định nghĩa như sau: “Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán- và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ghi: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này dể
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Vậy sự hình thành của ngân hàng như thế nào và cùng với thời gian ngân
hàng được phát triển dưới những hình thức nào? Các nhà khoa học đều đồng ý
rằng hoạt động ngân hàng gần như đã xuất hiện cùng lúc với sự hình thành đời
sống kinh tế và xã hội của loài người. Thông qua nghiên cứu cũng như các bằng
chứng lịch sử cho thấy hoạt động ngân hàng đã ra đời từ khoảng 3000 đến 4000
năm trước công nguyên. Mỗi giai đoạn ngân hàng lại có những sự thay đổi
trong nhận thức cũng như hoạt động. Ngân hàng đã đi từ bước hình thành cực
kỳ thô sơ và chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế là nhân tố chính
thúc đẩy ngân hàng ngày một phát triển, nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng
các hoạt động, dịch vụ để trở thành một thành phần cực kỳ quan trọng trong nền
kinh tế.
Giai đoạn sơ khai của ngành ngân hàng ra đời khi các thiết chế tổ chức xã
hội bắt đầu được hình thành. Hoạt động của các ngân hàng sơ khai gồm có: đổi
tiền, bảo quản và giữ hộ tiền của các thợ vàng và những người giầu có cho vay
nặng lãi. Hoạt động của chúng mang tính chất gần giống như các tiệm cầm đồ
ngày nay. Các hoạt động này xuất phát từ việc hầu như mỗi quốc gia đều có
đồng tiền riêng. Quá trình giao lưu, buôn bán giữa các vùng, các lãnh thổ với
nhau đã tạo ra thu nhập cho những người làm nghề đổi tiền, đúc tiền. Thu nhập
đó có được từ chênh lệch giá mua và giá bán giữa các loại tiền. Hoạt động cất
giữ hộ, cho vay nặng lãi và thanh toán hộ cũng được những người đổi tiền thực
hiện. Việc có thể sử dụng tạm thời một phần số tiền của khách để cho vay đã
làm xuất hiện việc thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Trong vòng từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ X nhiều hoạt động mới được
áp dụng đã đem lại bước phát triển mới cho ngân hàng so với giai đoạn sơ khai
trước kia: chiết khấu thương phiếu, ghi chép và theo dõi khách hàng qua số
hiệu tài khoản…
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, từ chỗ là ngân hàng
của các thợ vàng, người cho vay ngân hàng sơ khai đã trở thành ngân hàng
thương mại với chức năng chủ yếu là cho vay ngắn hạn rồi tiếp đó mở rộng cho
vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản, cho vay tiêu dùng,
kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức huy động ngày càng phong
phú và đa dạng. Ngân hàng đã giúp các luồng tiền di chuyển một cách có hiệu
quả đồng thời bằng danh mục các sản phẩm, dịch vụ của mình Ngân hàng cũng
ngày một đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của cả người cần tiền lẫn người có tiền,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ
tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng. Các công ty bảo hiểm, hiệp
hội tiết kiệm cho vay, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ tín dụng, các hợp
tác xã tín dụng cũng tham gia vào các loại hình dịch vụ như nhận gửi tiền, cho
vay thu lãi. Tuy nhiên, trong bất cứ nền kinh tế nào trên thế giới thì ngân hàng
thương mại vẫn là tổ chức lớn nhất, quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh doanh
tiền tệ.
• Chức năng của Ngân hàng:
- Chức năng trung gian tài chính, với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
kiệm thành đầu tư, Ngân hàng thương mại
đóng
vai
trò
là
“cầu nối”
giữa
người
dư
thừa
vốn
và
người
có
nhu
cầu
về
vốn. Thông
qua
việc
huy
động
các
khoản
vốn
tiền
tệ
tạm
thời
nhàn
rỗi
trong
nền
kinh
tế,
ngân hàng
thương
mại
hình
thành
nên
quỹ
cho
vay
để
cung
cấp
tín
dụng
cho
nền
kinh
tế.
Với chức
năng
này,
ngân
hàng
thương
mại
vừa
đóng
vai
trò
là
người
đi
vay
vừa
đóng
vai
trò là
người
cho
vay.
Với
chức
năng
trung
gian
tài chính
,
ngân
hàng
thương
mại
đã
góp
phần
tạo
lợi
ích
cho
tất cả
các
bên
tham
gia:
người
gửi
tiền,
ngân
hàng
và
người
đi
vay,
đồng
thời
thúc
đẩy
sự phát
triển
của
nền
kinh
tế.
Đối
với
người
gửi
tiền,
họ
thu
được
lợi
từ
khoản
vốn
tạm
thời
nhàn
rỗi
của
mình dưới
hình
thức
lãi
tiền
gửi
mà
ngân
hàng
trả
cho
họ.
Hơn
nữa,
ngân
hàng
còn
đảm bảo
cho
họ
sự
an
toàn
về
khoản
tiền
gửi
và
cung
cấp
các
dịch
vụ
thanh
toán
tiện lợi.
Đối
với
người
đi
vay,
họ
sẽ
thoả
mãn
được
nhu
cầu
vốn
để
kinh
doanh,
chi
tiêu, thanh
toán
mà
không
phải
chi
phí
nhiều
về
sức
lực,
thời
gian
cho
việc
tìm
kiếm nơi
cung
ứng
vốn
tiện
lợi,
chắc
chắn
và
hợp
pháp.
Đối
với
ngân
hàng
thương
mại,
họ
sẽ
tìm
kiếm
được
lợi
nhuận
cho
bản
thân
mình từ
chênh
lệch
giữa
lãi
suất
cho
vay
và
lãi
suất
tiền
gửi
hoặc
hoa
hồng
môi
giới. Lợi
nhuận
này
chính
là
cơ
sở
để
tồn
tại
và
phát
triển
của
ngân
hàng
thương
mại.
Đối
với
nền
kinh
tế,
chức
năng
này
có
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
thúc
đẩy
tăng trưởng
kinh
tế
vì
nó
đáp
ứng
nhu
cầu
vốn
để
đảm
bảo
quá
trình
tái
sản
xuất
được thực
hiện
liên
tục
và
để
mở
rộng
quy
mô
sản
xuất.
Với
chức
năng
này,
ngân
hàng thương
mại
đã
biến
vốn
nhàn
rỗi
không
hoạt
động
thành
vốn
hoạt
động,
kích
thích quá
trình
luân
chuyển
vốn,
thúc
đẩy
sản
xuất
kinh
doanh
phát
triển.
Chức
năng
trung
gian
tài chính
được
xem
là
chức
năng
quan
trọng
nhất
của
ngân
hàng thương
mại
vì
nó
phản
ánh
bản
chất
của
ngân
hàng
thương
mại
là
đi
vay
để
cho
vay,
nó quyết
định
sự
tồn
tại
và
phát
triển
của
ngân
hàng.
Đồng
thời
nó
cũng
là
cơ
sở
để
thực hiện
các
chức
năng
khác.
- Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân
hàng
thương
mại
làm
trung
gian
thanh
toán
khi
nó
thực
hiện
thanh
toán
theo
yêu cầu
của
khách
hàng
như
trích
tiền
từ
tài
khoản
tiền
gửi
của
họ
để
thanh
toán
tiền
hàng hoá,
dịch
vụ
hoặc
nhập
vào
tài
khoản
tiền
gửi
của
khách
hàng
tiền
thu
bán
hàng
và
các
khoản
thu
khác
theo
lệnh
của
họ.
Ở
đây
ngân
hàng
thương
mại
đóng
vai
trò
là
người
“thủ quỹ”
cho
các
doanh
nghiệp
và
cá
nhân
bởi
ngân
hàng
là
người
giữ
tài
khoản
của
họ. Ngân
hàng
thương
mại
thực
hiện
chức
năng
trung
gian
thanh
toán
trên
cơ
sở
thực
hiện chức
năng
trung
gian
tín
dụng.
Bởi
vì
thông
qua
việc
nhận
tiền
gửi,
ngân
hàng
đã
mở
cho khách
hàng
tài
khoản
tiền
gửi
để
theo
dõi
các
khoản
thu,
chi.
Đó
chính
là
tiền
đề
để
khách
hàng
thực
hiện
thanh
toán
qua
ngân
hàng,
đặt
ngân
hàng
vào
vị
trí
làm
trung
gian
thanh
toán.
Hơn
nữa,
việc
thanh
toán
trực
tiếp
bằng
tiền
mặt
giữa
các
chủ
thể
kinh
tế
có nhiều
hạn
chế
như
rủi
ro
do
phải
vận
chuyển
tiền,
chi
phí
thanh
toán
lớn,
đặc
biệt
là
với các
khách
hàng
ở
cách
xa
nhau,
điều
này
đã
tạo
nên
nhu
cầu
khách
hàng
thực
hiện
thanh toán
qua
ngân
hàng.Việc
các
ngân
hàng
thương
mại
thực
hiện
chức
năng
trung
gian
thanh
toán
có
ý
nghĩa
rất to
lớn
đối
với
toàn
bộ
nền
kinh
tế.
Với
chức
năng
này,
các
ngân
hàng
thương
mại
cung cấp
cho
khách
hàng
nhiều
phương
tiện
thanh
toán
thuận
lợi
như
séc,
uỷ
nhiệm
chi,
uỷ nhiệm
thu,
thẻ
rút
tiền,
thẻ
thanh
toán,
thẻ
tín
dụng...
Tuỳ
theo
nhu
cầu,
khách
hàng
có thể
chọn
cho
mình
phương
thức
thanh
toán
phù
hợp.
Nhờ
đó
mà
các
chủ
thể
kinh
tế không
phải
giữ
tiền
trong
túi,
mang
theo
tiền
để
gặp
chủ
nợ,
gặp
người
phải
thanh
toán
dù
ở
gần
hay
xa
mà
họ
có
thể
sử
dụng
một
phương
thức
nào
đó
để
thực
hiện
các
khoản
thanh
toán.
Do
vậy,
các
chủ
thể
kinh
tế
sẽ
tiết
kiệm
được
rất
nhiều
chi
phí,
thời
gian,
lại
đảm bảo
được thanh toán an toàn. Như
vậy,
chức
năng
này
thúc
đẩy
lưu
thông
hàng
hoá,
đẩy nhanh
tốc
độ
thanh
toán,
tốc
độ
lưu
chuyển
vốn,
từ
đó
góp
phần
phát
triển
kinh
tế.
Đồngthời,
việc
thanh
toán
không
dùng
tiền
mặt
qua
ngân
hàng
đã
giảm
được
lượng
tiền
mặt trong
lưu
thông,
dẫn
đến
tiết
kiệm
chi
phí
lưu
thông
tiền
mặt
như
chi
phí
in
ấn,
đếm
nhận, bảo
quản
tiền...
Đối
với
ngân
hàng
thương
mại,
chức
năng
này
góp
phần
tăng
thêm
lợi
nhuận
cho
ngân hàng
thông
qua
việc
thu
lệ
phí
thanh
toán.
Thêm
nữa,
nó
lại
làm
tăng
nguồn
vốn
cho
vay của
ngân
hàng
thể
hiện
trên
số
dư
có
trong
tài
khoản
tiền
gửi
của
khách
hàng.
Chức
năng này
cũng
chính
là
cơ
sở
hình
thành
chức
năng
tạo
tiền
của
ngân
hàng
thương
mại.
- Chức năng tạo phương tiện thanh toán, hay còn gọi là chức năng “tạo
tiền”.
Khi
có
sự
phân
hoá
trong
hệ
thống
ngân
hàng,
hình
thành
nên
ngân
hàng
phát
hành
và các
ngân
hàng
trung
gian
thì
ngân
hàng
trung
gian
không
còn
thực
hiện
chức
năng
phát hành
giấy
bạc
ngân
hàng
nữa.
Nhưng
với
chức
năng
trung
gian
tài chính
và
trung
gian thanh
toán,
ngân
hàng
thương
mại
có
khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên
tài khoản tiền gửi
thanh
toán
của
khách
hàng
tại
ngân
hàng
thương
mại.
Khi khách hàng tại một
Ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu, tức
làm tăng số dư tiền gửi của một khách hàng khác tại một Ngân hàng khác từ
đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một Ngân hàng riêng lẻ
nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống Ngân hàng có
thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua
hoạt động cho vay(tạo tín dụng).
1.1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm và trong tiếng Anh gọi là “Credit”. Cũng có thể hiểu nôm na “tín dụng” có
nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng
một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người
sử dụng, sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Trong mỗi một hành vi
tín dụng hai bên cam kết với nhau: Một bên giao một số tài hoá hay tiền bạc, còn
bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian
nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Nhà kinh tế người Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng
như là “một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây,
chúng ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó, cho
nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên
đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự
tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.
Những hành vi tín dụng có thể được thực hiện do bất cứ ai, chẳng hạn hai
người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy
một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay khi nói tới tín dụng người ta
thường nghĩ ngay tới các ngân hàng, vì các tổ chức này luôn làm những việc
như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, ký thác…Mặt khác, trong một nền kinh tế đã
phát triển với thu nhập của những người làm công ăn lương gần tương đương
nhau và một hệ thống ngân hàng thế giới hiện đại thì mọi người chỉ có vay
mượn ngân hàng, hầu như không vay mượn lẫn nhau.
Hoạt động tín dụng có tầm quan trọng bậc nhất trong ngân hàng đặc biệt
là ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế thị trường như ở nước ta. Đối
với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản
có, thu nhập do tín dụng đem lại chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập cho
ngân hàng.
Ngân hàng thương mại có thể coi như một doanh nghiệp kinh doanh tiền
tệ với hoạt động chủ yếu là việc đi vay để cho vay. Hoạt động này của ngân
hàng thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng vốn đó.
Khác với các quan hệ mua bán thông thường, quan hệ tín dụng ngân hàng chỉ
trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu
khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới hình thức hàng hoá hay
tiền tệ cho người vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, sau khi khai thác
giá trị khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị
khoản vay và thêm khoản lợi tức trả cho việc được sử dụng khoản vay.
Trong quan hệ tín dụng, giá trị vốn tín dụng được chuyển từ người cho
vay sang người đi vay còn trong quan hệ mua bán hàng hoá giá trị hàng hoá
thay đổi hình thái vật chất nghĩa là hàng hoá vẫn giữ nguyên giá trị chỉ thay đổi
hình thái tồn tại. Trong việc cho vay, tiền với tư cách là một vật có đặc điểm là
quay trở lại điểm xuất phát với nguyên vẹn giá trị của nó đồng thời cũng lớn lên
trong quá trình luân chuyển.
Nói tóm lại, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sỏ
hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay( bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản ). Trong những năm
1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền.
Xuất phát từ đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là
đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê tài chính
và cho thuê vận hành đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác
cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một
hình thức tín dụng bằng tài sản thực( nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc- thiết
bị)
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy nguời cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là
một yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế , một số nhân
viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín
nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này
đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Để thực hiện
được nguyên tắc này, phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong một
số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này
chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được trên cơ sở cam kết hoàn trả vô
điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như
hợp đồng tín dụng, khế ước…thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam
kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Các ngân hàng thương mại hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín
dụng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn .. đến bảo lãnh, cho thuê tài chính,
phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng. Có thể phân loại tín dụng theo nhiều
tiêu thức khác nhau như sau:
1.1.2.1 Phân chia theo thời hạn cho vay:
• Cho vay ngắn hạn: Là việc cho vay với thời hạn dưới một năm nhằm tài trợ
cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh
nghiệp, cá nhân ,hộ gia đình.
• Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới
thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho
vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây
dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những
doanh nghiệp mới thành lập.
• Cho vay dài hạn: Thời hạn vay trên 5 năm và tối đa có thể lên đến 20-30
năm, một số trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu
dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây
dựng các xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 1970 trở lại đây, các ngân hàng thương mại đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng
cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
1.1.2.2. Phân chia theo đảm bảo
• Cho vay có bảo đảm:
Cho vay bảo đảm biểu hiện việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ
thể nào đó, ví dụ như: xe cộ, nhà cửa, đất đai hoặc hàng hoá…Vật thế chấp
những khoản nợ rất đa dạng song một yêu cầu cơ bản là phải có thể bán được.
Lý do chủ yếu đòi hỏi một khoản vay phải được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện
để người cho vay giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không
muốn hoặc không thể trả nợ vay khi đến hạn. Bảo đảm không có nghĩa là món
nợ sẽ được hoàn trả vì còn nhiều chi phí , công đoạn liên quan đến việc xử lý tài
sản đảm bảo. Việc bảo đảm chủ yếu để giảm bớt rủi ro cho ngân hàng. Trong
trường hợp giá trị thanh lý của tài sản vượt quá giá trị khoản vay thì khoản
chênh lệch sẽ được hoàn trả cho người vay nhưng nếu không đủ giá trị khoản
vay thì ngân hàng có thể trông đợi vào sự phán quyết của Toà án hay tịch biên
thêm tài sản của khách hàng.
Sự bảo đảm là yêu cầu phải có đối với các khoản cho vay vì một số
nguyên nhân. Thông thường đó là do sự yếu kém về tài chính của người vay và
khi đó thì ngân hàng cần có tài sản cầm cố, thế chấp để đảm bảo an toàn cho
hoạt động của ngân hàng. Việc thời hạn cho vay kéo dài đồng nghĩa với rủi ro
tăng thì việc đảm bảo gần như bắt buộc. Tỷ lệ cho vay tối đa được tính trên giá
trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ đó cao hay thấp tuỳ vào từng quy định của các ngân
hàng, pháp luật, tư cách pháp nhân khách hàng…
• Cho vay không có bảo đảm
Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm được dựa trên
uy tín, khả năng tài chính lành mạnh của khách hàng, lợi tức có thể có trong
tương lai cùng tình hình trả nợ trước đây. Với những doanh nghiệp, cá nhân mà
nguồn thu nhập ổn định, là khách hàng lớn của ngân hàng, hoạt động hiệu quả
có thể ngân hàng sẽ cho vay những khoản vay lớn mà thiếu giá trị tài sản đảm
bảo thậm chí không có tài sản đảm bảo. Ở Việt Nam, trong những năm 90 các
ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm trừ các doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày
29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm
tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo nghị định này việc cho vay không có bảo
đảm được mở rộng hơn so với trước cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn
khách hàng để cho vay không có đảm bảo khi cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài
hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và đời sống. Tuy nhiên, khách hàng vay không đảm bảo phải hội đủ một
số điều kiện cơ bản sau:
- Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay
và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi
có khả năng hoàn trả nợ hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù
hợp với quy định của pháp luật
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ
chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín
dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản
- Tổng mức cho vay không đảm bảo và điều kiện cho vay không đảm bảo
do Ngân hàng Nhà nước quy định.
1.1.2.3. Phân chia theo hình thức tài trợ
Theo hình thức tài trợ tín dụng đựơc chia thành: chiết khấu thương phiếu,
cho vay, bảo lãnh, cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu: là việc NH ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu 1
thương phiếu chưa đến hạn. Đây là nghiệp vụ đơn giản nhất dựa trên sự tín
nhiệm giữa NH và những người ký tên trên thương phiếu.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hình thức cho vay
lại có thể phân chia thành:
• Cho vay doanh nghiệp: Đây các khoản tín dụng thương mại và công nghiệp với
thời hạn biến động từ một vài tháng đến vài năm. Hình thức tín dụng có thể là
vay món hoặc hạn mức. Doanh nghiệp có thể vay một lần toàn bộ khối lượng
tín dụng hoặc cũng có thể được cung cấp một hạn mức tín dụng trong một
khoản thời gian nhất định và sẽ được sử dụng trong phạm vi tín dụng đó
• Cho vay tiêu dùng. Đây là hình thức tín dụng đang rất phát triển với các sản
phẩm, dịch vụ như cho vay ô tô trả góp, mua nhà trả góp, thấu chi. Sự gia tăng
thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân
hàng tới người tiêu dùng như là một thị trường đầy tiềm năng. Mức lãi suất của
các loại vay tiêu dùng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm của khoản vay: chất
lượng và hình thức thế chấp, mức độ rủi ro và các yếu tố phi lãi suất kèm theo
như các khoản phí hoặc hoa hồng. Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp
hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty
xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Cho vay tiêu dùng có rủi
ro rất cao. Vì vậy ngân hàng thường yêu cầu một mức lãi suất cao, yêu cầu
khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ, hàng hoá…
• Cho vay Chính phủ:Chính phủ cũng là một trong những khách hàng của các
ngân hàng thương mại. Hình thức phổ biến là ngân hàng mua trái phiếu do kho
bạc nhà nước phát hành.Nhà nước cũng vay ngân hàng để đầu tư phát triển hạ
tầng cơ sở vật chất..
• Cho vay các tổ chức tài chính khác: Việc vay mượn tạm thời giữa các tổ chức tài
chính, tín dụng rất phổ biến và cũng tạo điều kiện cho việc lưu chuyển vốn nhanh
hơn. Ở các nước có trình độ phát triển cao, các ngân hàng thương mại có mối
liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành cả một hệ thống hoạt động hiệu quả.
• Cho vay liên quan đến bất động sản:
Việc cho vay đầu tư bất động sản đã có thời gian đem lại lợi nhuận rất lớn
cho ngân hàng ở một số nước như Việt Nam, Thái Lan..Khi giá nhà, giá đất rơi
vào trạng thái đóng băng thì với các hoạt động tín dụng liên quan đến bất động
sản ngân hàng phải tăng cường sự giám sát, có sự điều chỉnh phù hợp mức cho
vay, định giá.. để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng
Ngoài các dịch vụ căn bản trên, hoạt động tín dụng của ngân hàng còn có
một số dịch vụ như:
Bảo lãnh
Đây là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ với bên thứ ba. Bảo lãnh phát triển nhờ uy tín của ngân hàng
ngày được nâng cao. Bảo lãnh thường được áp dụng trong lĩnh vực xây lắp. Có
nhiều loại bảo lãnh : bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
bảo hành, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán….Hoạt động bảo lãnh sẽ
giúp ngân hàng thu được phí bảo lãnh. Tuỳ từng trường hợp cụ thể và tuỷ vào
chính sách khách hàng của mỗi ngân hàng sẽ quy định khách hàng có phải có
bảo đảm cho khoản bảo lãnh hay không, khách hàng có thể được bảo lãnh mà
không cần tài sản bảo đảm hoặc phải có tài sản bảo đảm theo quy định hoặc có
thể sẽ phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định đối với giá trị của khoản bảo lãnh, có thể
là 10%, 80% hay 100% số tiền bảo lãnh.