Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.5 KB, 30 trang )

: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI KINH
TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
ĐỐNG ĐA
I. KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY HỖ TRỢ VỐN KINH TẾ NGOÀI
QUỐC DOANH Ở MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC VÀ NGÂN HÀNG NƯỚC
NGOÀI
Hiện nay, trong số các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
của ta đến 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV& N). Vì vậy, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh mang nhiều đặc điểm của DNV& N.
Dựa vào những biện pháp mà các Ngân hàng nước ngoài và những Ngân
hàng khác của Việt nam đã và đang sử dụng để nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế
này, chúng ta có thể rút ra những bịên pháp giải quyết cho riêng Ngân hàng Công
thương Đống Đa.
1. Kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ vốn đối với DNV&N ở Malaixia và
Nhật Bản
Malaixia: Trong kế hoạch phát triển tổng thể lần thứ hai của Malaixia (1992
– 2001) đã khẳng định rõ vai trò của các DNV&N trong công cuộc hiện đại hoá đất
nước. Do vậy, trong thời kỳ này Chính phủ đã thông qua chương trình hỗ trợ phát
triển DNV&N như các chương trình về thị trường, hỗ trợ kỹ thuật, chương trình cho
vay ưu đãi, chương trình công nghệ thông tin... Mục đích của chương trình cho vay là
nhằm giúp các DNV&N có được một lượng vốn cần thiết để thúc đẩy tự động hoá và
hiện đại hoá, để cải tiến chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng trong các ngành sản
xuất phụ tùng ôtô, linh kiện điện, điện tử, máy móc, nhựa, dệt, lương thực thực
phẩm... Chương trình này được thực hiện theo kế hoạch phân bổ hàng năm của
Malaixia thông qua Quỹ cho vay ưu đãi, cấp tín dụng trực tiếp cho các nhà sản xuất
là các DNV&N thuộc lĩnh vực nói trên. Thông qua chương trình này, những DNV&N
của Malaxia từ tình trạng làm ăn trì trệ, thiếu vốn nghiêm trọng đã được cải thiện
trông thấy, góp phần rất lớn vào lượng hàng hoá xuất khẩu của Malaxia trong
những năm qua. Như vậy, thành công mà đất nước này có được chính là do họ đã có
các chương trình hỗ trợ vốn cụ thể đối với các DNV&N và bổ sung những chính sách
ưu đãi khác để việc sử dụng vốn đạt hiệu quả.


Nhật Bản: Như chúng ta đã biết, Nhật Bản là đất nước thành công nhất thế
giới trong lĩnh vực kinh tế. Họ đã đi lên từ một đất nước nghèo nàn về tài nguyên,
thiên nhiên khắc nghiệt nhưng đến nay không ai có thể phủ nhận được tài năng kinh
doanh của người Nhật. Các chính sách về DNV&N được hình thành từ những năm 50,
trong đó dành một sự chú ý đặc biệt với việc hỗ trợ tài chính nhằm giúp các DNV&N
tháo gỡ những khó khăn cản trở việc tăng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh
như: khả năng tiếp cận tín dụng thấp, thiếu sự đảm bảo về vốn vay ... Các biện pháp
hỗ trợ tín dụng và các tổ chức tài chính công cộng phục vụ DNV&N. Hệ thống hỗ trợ
tín dụng giúp cho các DNV&N tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng Ngân hàng
thông qua sự bảo lãnh của Hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh.
Ngoài ra còn có ba tổ chức tài chính công khác. Đó là: Công ty tài chính DNV&N, Công
ty tài chính nhân dân và Ngân hàng Shoko Chukin do Chính phủ đầu tư thành lập
toàn bộ hoặc một phần nhằm tài trợ vốn cho các DNV&N để đổi mới máy móc thiết bị
và hỗ trợ vốn lưu động dài hạn để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh.
Ở Việt nam: Trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế hiện tại DNV&N hay
chính là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang đứng trước những khó khăn cần
tháo gỡ và quá trình phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang bộc lộ
một số hạn chế chủ yếu. Đó là do quá trình phát triển doanh nghiệp ngoài quốc
doanh còn ngắn, đang trong giai đoạn khởi đầu nên khả năng tích luỹ vốn còn hạn
chế. Theo đánh giá của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt nam , tình trạng thiếu
vốn đang là khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lâm vào
tình trạng khó khăn về tài chính trước hết do bản thân các doanh nghiệp thiếu tài
sản thế chấp Ngân hàng, trong khi đó mức cho vay dường như vẫn bị hạn chế. Do
vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như các doanh nghiệp hoạt động độc
lập có kế hoạch mở rộng sản xuất thì họ lại thiếu vốn để đưa các kế hoạch đó vào
thực hiện. Hơn nữa, do hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho dù được phép vay vốn vẫn khó tìm đựơc
nguồn vốn trung, dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý
đảm bảo cho các doanh nghiệp tiếp cận thường xuyên nhằm tiến tới khả năng vay
vốn Ngân hàng một cách rộng rãi và ổn định hơn. Bởi vậy, Nhà nước cũng nên

khuyến khích các Ngân hàng phát triển các quỹ tín dụng ở nhiều nơi có nhu cầu và
đủ điều kiện để tạo thêm kênh “rút” vốn cho các doanh nghiệp. Giải pháp quan trọng
nhất và vì mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là làm sao đảm bảo vốn trung, dài hạn
đối với các doanh nghiệp. Hiện nay đã có một số công ty cho thuê tài chính đời. Đây
là mô hình tài trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở trong tình trạng thiếu vốn, mà nhiều nước áp dụng đã
thành công.
Mặc dù Đức, Đài Loan, Malaixia và Nhât có chênh lệch nhau về trình độ phát
triển kinh tế song Chính phủ các nước này đều dành một sự quan tâm đặc biệt trong
chính sách hỗ trợ huy động vốn đối với DNV&N. Thực tế đã chứng tỏ sự thành công
của các chính sách hỗ trợ này. Do đó, đây có thể là những bài học kinh nghiệm tham
khảo hay mô hình chính sách mà Việt nam có thể tham khảo vận dụng để tìm ra
những giải pháp thích hợp giúp các DNV&N cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh phát triển hơn nữa. Đặc biệt là trong bối cảnh Việt nam đang tham gia thực
hiện đầy đủ cam kết của AFTA trong vài năm để chuẩn bị hội nhập chỉ là khoảng cách
thời gian ngắn ngủi với nhiều khó khăn đang ở phía trước. Thời thế đã và đang đặt
ra cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt nam trước sự lựa chọn khắc nghiệt
là tồn tại hay phá sản.
2. Một số giải pháp Chính phủ ấn Độ đã đưa ra nhằm cấp tín dụng cho
các doanh nghiệp nhỏ
Cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Việt nam, các doanh
nghiệp nhỏ ở Ấn Độ đang thiếu vốn nghiêm trọng. Việc tài trợ cho các thương phiếu,
các khoản phải thu trong sổ nợ không được chấp nhận ở Ấn Độ. Điều này gây không
ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ ở đây khi đi vay vốn. Vấn đề cấp thiết là cần
phải thúc đẩy các dịch vụ mua bán nợ , thương phiếu và việc quản lý tốt nguồn vốn
lưu động. Dịch vụ mua bán nợ liên quan đến việc thoả thuận với các nhà tài trợ vốn
về việc nhận trách nhiệm thu hồi, bảo hộ, kiểm soát tín dụng cho các khách hàng
thuộc đối tượng khu vực ngành nghề nhỏ. Các nhà tài trợ sẽ mua các khoản phải thu
của khách hàng khi phát sinh, tham gia vào trách nhiệm giữ sổ sách liên quan đến
các khoản phải thu và thực hiện các chức năng phụ trợ khác. Mặc dù tăng thêm các

chi phí nhưng dịch vụ mua bán nợ đã giúp các doanh nghiệp nhỏ vượt qua những
khó khăn liên quan đến vốn lưu động.
Nhằm cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ đạt hiệu quả cao, Chính phủ Ấn
Độ đã đưa ra các giải pháp giải quyết như sau:
- Các Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Trung ương phải đưa ra phải
đưa ra một danh mục đánh giá về chức năng của các chi nhánh “đặc biệt” phục vụ
các doanh nghiệp nhỏ bao gồm vị trí, tổ chức, nhân viên và dịch vụ. Nếu cần thiết các
chi nhánh “đặc biệt” có thể được chuyển tới vị trí thuận lợi hơn ngay ở trong khu
ngành nghề nhỏ tập trung. Điều quan trọng là các chi nhánh này phải cung cấp các
dịch vụ một cách hoàn hảo bao gồm cả tư vấn liên quan đến các hoạt động sản xuất
kinh doanh của đơn vị như cung cấp thông tin, công nghệ, marketing,...
- Việc cấp giấy phép cho hoạt động của các Ngân hàng cần được tự do hơn
nữa để hướng tới phục vụ tại các quận huyện nơi có các khu ngành nghềnhỏ tập
trung. Ngân hàng Trung ương cần tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ có quyền
chọn các chi nhánh Ngân hàng mà họ thấy là thuận tiện nhất.
- Nhằm làm giảm các chi phí của các khoản vay và rủi ro của người cho vay,
dịch vụ xếp hạng tín dụng cần được mở rộng tới các doanh nghiệp nhỏ. Các chi phí
liên quan đến việc xếp hạng tín dụng sẽ thấp hơn nếu như việc tổ chức đánh giá tín
dụng được thực hiện trong một khu vực mà nơi đó các doanh nghiệp nhỏ được tập
trung.
- Nhằm trợ giúp ban đầu cho các doanh nghiệp nhỏ, các Ngân hàng và tổ
chức tài chính không chỉ cho vay đơn thuần mà còn phải tìm cách góp vốn cổ phần để
tạo vốn chủ sở hữu đủ mạnh cho các doanh nghiệp này. Như vậy là các Ngân hàng và
các tổ chức tài chính là các nhà đầu tư dài hạn vào những doanh nghiệp này.
- Các Ngân hàng và tổ chức tài chính đã tìm cách mở rộng hoạt động tới các
khách hàng tiềm năng là những doanh nghiệp nhỏ bằng cách giới thiệu miễn phí các
chương trình đào tạo về quản lý doanh nghiệp, marketing, quản lý tài chính, kỹ thuật
sản xuất ...
Tóm lại, đăc điểm chung trong các giải pháp hỗ trợ vốn đối với các doanh
nghiệp nhỏ ở ấn Độ, Malaixia, Nhật Bản đều là áp dụng các chính sách ưu đãi dưới

mọi hình thức nhằm cung ứng vốn cho những doanh nghiệp này.
3. Kinh nghiệm cho vay hộ sản xuất tại Vĩnh Long
Nền kinh tế tỉnh Vĩnh Long chủ yếu là nông nghiệp, 85% dân số nông thôn,
12% hộ nghèo. Ngân hàng Vĩnh Long dùng hình thức chuyển tải vốn thông qua tổ
hợp tác của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Long.
Năm 1997, doanh số cho vay của Ngân hàng là 788 tỷ đồng, trong đó hộ sản
xuất chiếm 35%. Dư nợ là 193 tỷ đồng, trong đó dư nợ hộ sản xuất là 192 tỷ. năm
1998, doanh số cho vay là 774 tỷ đồng, trong đó hộ sản xuất chiếm 35%. Dư nợ là
364 tỷ đồng, trong đó dư nợ hộ sản xuất là 262 tỷ đồng. Năm 1999, doanh số cho vay
là 792 tỷ đồng, trong đó doanh số cho vay hộ sản xuất chiếm 50%; dư nợ là 413 tỷ
trong đó dư nợ hộ sản xuất là 364 tỷ đồng. Năm 2000, doanh số cho vay là 1355 tỷ
đồng, trong đó doanh số cho vay hộ sản xuất chiếm 52%; dư nợ là614 tỷ đồng, trong
đó dư nợ hộ sản xuất là 604 tỷ đồng. Tại ngày 31/12/2000, dư nợ hộ sản xuất là
603,5 tỷ đồng, chiếm 98,4% dư nợ của toàn Ngân hàng, trong đó dư nợ hộ sản xuất
ngắn hạn là 364,3 tỷ chiếm 60,6% dư nợ hộ sản xuất, dư nợ hộ sản xuất trung, dài
hạn là 239,1 tỷ đồng chiếm 39,4% dư nợ hộ sản xuất.
Những thành tựu to lớn mà Ngân hàng có được trong mấy năm qua là do:
Ngân hàng chuyển đổi cơ cấu đầu tư, cho vay theo dự án. Mở rộng mạng lưới hoạt
động. Chuyển tải vốn đến hộ sản xuất thích hợp trong từng giai đoạn nhưng vẫn thực
hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng đáp ứng nhu cầu vay vốn cho phát triển kinh tế
xã hội ở địa phương. Sự thành công này của Ngân hàng phải kể đến sự đóng góp của
tổ vay vốn. Tổ vay vốn có trách nhiệm: nhận hướng dẫn việc lập hồ sơ vốn vay; tổ
chức bình xét nhu cầu vay vốn của từng thành viên; kiểm tra, giám sát việc sử dụng
vốn vay đúng mục đích; đôn đốc các thành viên trong tổ trả nợ gốc và lãi cho Ngân
hàng đúng hạn; cùng phối hợp với Ngân hàng để xử lý các thành viên trong tổ vi
phạm. Tuy nhiên tổ vay vốn còn những tồn tại như tổ chỉ thực hiện một số khâu
trong việc cho vay thu hồi nợ lãi,...còn các quá trình khác như khuyến khích thông tin
tiếp thị, kỹ thuật... chưa gắn kết đồng bộ, trình độ hiểu biết của tổ chưa đồng đều.
Tóm lại, dù còn nhiều hạn chế nhưng những cố gắng của Ngân hàng Vĩnh
Long đã mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực, góp phần ổn định và phát triển kinh tế

xã hội ở địa phương. Đây cũng là những kinh nghiệm đáng để Ngân hàng Công
thương Đống Đa tham khảo khi cho vay hộ sản xuất nói riêng và thực hiện cho vay
các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh nói chung.
4. Những thành công trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Quảng Trị
Trong 10 năm qua Ngân hàng Quảng Trị đã gặt hái được nhiều thành công
trong đó có sự đóng góp của công tác cho vay. Hoạt động tín dụng luôn gắn với chủ
trương thực hiện các mục tiêu chương trình tăng trưởng kinh tế của tỉnh và mở
rộng quy mô của Ngân hàng. Cuối năm 1999, dư nợ trên địa bàn đạt 382 tỷ đồng,
cuối năm 2000 là 460 tỷ đồng, tăng 20,8 lần so với năm 1989. Với hình thức và
phương châm phục vụ đa dạng, đa thnàh phần kinh tế, các Ngân hàng đã cho vay bổ
sung vốn, cho vay đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết bị và dây chuyền công
nghệ, cho vay theo kế hoạch Nhà nước và tín dụng ưu đãi khác. Từ năm 1994, các
Ngân hàng còn thực hiện cho vay vốn đối với hộ sản xuất. Đến nay đã có trên 70
ngàn hộ gia đình còn dư nợ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
tỉnh. Tỷ trọng cho vay vốn theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch cơ cấu, từ dự
nợ cho vay kinh tế quốc doanh năm 1989 là 84% thì đến cuối năm 1999 chỉ chiếm
40,9%, năm 2000 là 35,8%. Dư nợ ngoài quốc doanh năm 1989 chỉ là 15,9%, thì năm
1999 chiếm 57,9%, cuối năm 2000 lên tới 64,2%, trong đó chủ yếu là hộ sản xuất.
Trong cho vay các Ngân hàng đã chú trọng đầu tư vốn trung, dài hạn nhằm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương, nhất là bám vào Nghị quyết của tỉnh uỷ, Hội đồng
nhân dân tỉnh để cho vay. Vì vậy, tỷ trọng cho vay trung, dài hạn được nâng len
chiếm tỷ trọng 57,9% vào năm 1999, đã góp phần vào chuỷen dịch cơ cấu kinh tế và
xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng CNH- HĐH. Tín dụng được mở rộng nhưng chất
lượng tín dụng được đảm bảo, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ thấp là 6,8% (năm 98), 13%
( năm 90), 3,51% (năm 91), từ năm 1993 đến nay nợ quá hạn luôn ở mức dưới 3%,
cuối năm 1999 là 1,49%. Những thành tựu Ngân hàng đạt được chính là nhờ vào các
Ngân hàng Quảng Trị rút ra một số bài học kinh nghiệm tiếp tụcđổi mới và phát
triển. Đó là:
Thứ nhất, phải gắn đổi mới hoạt động Ngân hàng với tiến trình đổi mới nền
kinh tế của tỉnh. Thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia của NHTƯ, phải gắn với sự

lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự quan tâm của các ban ngành
và sự đồng tình của toàn xã hội.
Thứ hai, trong tình hình đổi mới, trước hết là đổi mới công tác tổ chức và cán
bộ. Việc sắp xếp cán bộ được dựa trên cơ sở kế thừa và phải tuyển dụng, trẻ hoá đội
ngũ.
Thứ ba, hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường, nhiều vấn đề về mặt
trái của xã hội thường xuyên xảy ra. Vì vậy, cần phải tăng cường công tác thanh tra,
kiểm soát, nhất là việc kiểm soát nội bộ của các tổ chức tín dụng.
Thứ tư, phải không ngừng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
Thứ năm, thực hiện các phong trào thi đua, tạo khí thế sôi nổi trong toàn thể
cán bộ công nhân viên của Ngân hàng. cần động viên, khen thưởng kịp thời đối với
những đơn vị hay cá nhân có thành tíc xuất sắc, cương quyết xử lý những sai phạm,
tiêu cực.
Thứ bảy, tăng cường sự đoàn kết nội bộ.
II. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG ĐỐNG ĐA
1. Các chỉ tiêu kinh doanh và biện pháp thực hiện các chỉ tiêu năm 2002
của Ngân hàng Công thương Đống Đa
Phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 2001, triển khai thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh dịch vụ tiền tệ năm 2002, năm đầu tiên của Thiên niên kỷ mới
và cũng là năm đầu của kế hoạch 5 năm 2002 – 2005với mục tiêu “Phát triển - an
toàn - hiệu quả” Ngân hàng Công thương Đống Đa đề ra một số nghiệm vụ kinh
doanh năm 2002 như sau:
- Nguồn vốn huy động đến 31/12/2002 đạt 1960 tỷ đồng
- Tổng dư nợ đạt 1120 tỷ đồng, trong đó khối quốc doanh đạt 88%, ngoài quốc
doanh đạt 22%
- Dự nợ trung dài hạn đạt tỷ trọng 45%
- Tỷ lệ nợ quá hạn không quá 3,5%
- Lợi nhuận hạch toán đạt 23 tỷ đồng.

Ngân hàng đã đưa ra các biện pháp sau để thực hiện tốt công tác cho vay, đặc
biệt là cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong năm 2002 như sau:
Thứ nhất: Tiếp tục tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả nâng cao
chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
Thứ hai: Tiếp cận, rà soát, phân loại doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn
phát triển sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, làm tốt công tác tiếp thị để thu hút
khách hàng, tăng cơ cấu tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp.
Thứ ba: Tích cực tìm biện pháp giải quyết thu hồi các khoản nợ quá hạn khó đòi,
phối hợp với các cơ quan pháp luật và cơ quan thi hành xử án tài sản thế chấp để thu
hồi nợ.
Thứ tư: Thực hiện tốt chính sách khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản của thông
đốc NHNN quy định, khai thác các nguồn vốn có lãi suất thấp, nhất là nguồn vốn của
các doanh nghiệp.
Thứ năm:Tiếp tục tham gia vào việc thực hiện dự án hiện đại hoá công nghệ
Ngân hàng để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ,
lắp đặt lại hệ thống mạng vi tính theo kế hoạch đã được Ngân hàng công thương
Việt nam duyệt.
Thứ sáu: Duy trì và tiếp tục quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng
cao trình độ của cán bộ tín dụng, cử đi học các lớp cao học và đại học, bằng hai tại
các trường đại học, các lớp bồi dưỡng và tập huấn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo ,
hoặc tại cơ quan để nâng cao trình độ.
Làm tốt công tác bồi dưỡng đào tạo và quy hoạch cán bộ tín dụng để đưa hoạt
động kinh doanh dịch vụ tiền tệ của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng có
chất lượng, hiệu quả.
Cuối cùng:Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ dưới nhiều hình thức
như: kiểm tra toàn diện, kiểm tra đột xuất, nhằm nâng cao ý thức chấp hành tốt các
thể lệ, chế độ đã quy định.
2. Giải pháp cụ thể để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
Trong quá trình nghiên cứu tình hình thực tế của mối quan hệ tín dụng giữa

Ngân hàng Công thương Đống Đa với các thành phần ngoài quốc doanh ta nhận
thấy rằng việc cho vay với các thành phần này có chiều hướng giảm dần cả về mặt
chất lượng và số lượng. Sở dĩ như vậy là do vấn đề nợ khó đòi, nợ quá hạn đã và
đang ngày một gia tăng theo các năm. Ngân hàng đứng trước nguy cơ mất vốn, vì
vậy đã thu hẹp cho vay đối với khu vực này trong khi bản thân Ngân hàng vẫn còn
thừa đọng vốn. Như vậy, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác cho vay khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh là rất cần thiết đối với tín dụng ngân hàng và sự phát
triển của Ngân hàng Công thương Đống Đa. Ngân hàng phải là một chỗ dựa tin cậy,
là người bạn lớn của mọi thành phần kinh tế, giúp đỡ, tư vấn cho các doanh nghiệp
về vốn, tư vấn thông tin, kiến thức, công nghệ...để các doanh nghiệp tồn tại và phát
huy vai trò của mình, đồng thời Ngân hàng cũng mở rộng được thị trường, tăng uy
tín,cỉa thiện nguồn thu nhập.
Cùng với quá trình chuyển đổi của đất nước, nhành Ngân hàng nói chung và
các Ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng đang từng bước thay đổi cơ cấu tín
dụng để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại hình
doanh nghiệp khác nhau. Trước đây, tín dụng tập trung đầu tư vào khu vực kinh tế
quốc doanh, còn cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng không đáng
kể. Đến nay, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang được quan tam hơn nhưng vẫn
còn hạn hẹp trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Tuy Ngân hàng Công
thương Đống Đa được đánh giá là hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có lãi nhưng
kết quả này có được phần lớn là nhờ hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế quốc
doanh. Vì vậy, cần có những biện pháp cụ thể để cải thiện hoạt động cho vay kinh tế
ngoài quốc doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Việc cải thiện hoạt động cho vay kinh tế ngoài quốc doanh có nghĩa là vừa mở
rộng và phải vừa nâng cao chất lượng cho vay. Hai công việc này phải được kết hợp
đồng thời vì chúng là hai yếu tố đan xen và bổ trợ cho nhau. Để có thể mở rộng,
trước hết chất lượng mỗi món vay phỉa tốt để giảm tổn thất lớn cho Ngân hàng
trong trường hợp gặp rủi ro tín dụng. Khi cả việc mở rộng và chất lượng cho vay
được nâng cao thì hoạt động cho vay đó mới gọi là có hiệu quả.
2.1 Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định

Đây là khâu đầu tiên trong toàn bộ quá trình cho vay. Thẩm định có tính chất
quyết định tới hiệu quả cho vay sau này vì kết thúc khâu thẩm định sẽ đưa ra kéet
quả có chấp nhận cho khách hàng đó vay hay không. Thẩm định gồm hai bước cơ
bản là thu thập thông tin và xử lý thông tin.
• Thu thập thông tin
Việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như phỏng vấn người xin vay,
sổ sách của Ngân hàng, các nguồn thông tin thu thập từ các doanh nghiệp thông qua
báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, các
nguồn thông tin từ dịch vụ, các sơ quan cung ứng thông tin, và những nguồn khác...
Hiện nay, có rất nhiều nguồn thông tin với độ chính xác lẫn lộn nhau. Vì vậy, việc
Ngân hàng chọn lựa thông tin nào chính xác hơn cả là rất khó khăn. Ngân hàng Công
thương Đống Đa chủ yếu thu thập thông tin từ phía khách hàng thông qua phỏng
vấn người vay, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh và cũng có trường hợp
Ngân hàng cử cán bộ đến tận nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên,
nếu chỉ thu thập nguồn tin từ phía khách hàng thì không có độ tin cậy cao vì chúng ta
biết rằng khách hàng luôn muốn vay Ngân hàng một cách nhanh chóng nhất nên
thường xuyên xảy ra hện tượng thiếu trung thực khi đưa ra những thông tin vể
mình. Vì vậy, Ngân hàng cần mở rộng phạm vi thu thập các nguồn khác nhau về
thông tin tín dụng nhưng phải biết chọn lọc để tránh “loãng thông tin”. Ngân hàng
cần chú ý tới những nguồn sau:
Thứ nhất, cần chú trọng tới việc cử cán bộ có kiến thức nghiệp vụ Ngân hàng
và có kiến thức chuyên môn của ngành, nghề, lĩnh vực mà khách hàng đang kinh
doanh, đến tận tận địa bàn sản xuất của doanh nghiệp. Kết hợp với những thông tin
do khách hàng cung cấp như báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh
...nhưng không nên quá tin cậy vào một nguồn tin.
Thứ hai, Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi các thông tin được cung cấp
từ hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Việt nam (gồm Trung tâm TTTD của
NHNN và phòng TTTD của các Ngân hàng thương mại). Hệ thống thông tin này được
đánh giá là đáng tin cậy vì do Nhà nước quản lý. Tuy nhiên, hệ thống này mới được
thành lập nên chưa hoàn thiện và đầy đủ cả về chất lượng và số lượng. Những giải

pháp nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Việt nam sẽ
được đề cập ở phần “Kiến nghị với NHVN”.
Thứ ba, Ngân hàng cần có bộ phận riêng quản lý các hồ sơ, giấy tờ của khách
hàng kể cả đối với những khách hàng tạm thời không có quan hệ tín dụng với Ngân
hàng. Đây cũng sẽ là nguồn thông tin quan trọng trong nhiều trường hợp cần thiết.
Thứ tư, chú trọng nguồn thông tin đại chúng vì đây là nguồn khách quan nhất.
Cần có sự hợp tác và trao đổi thường xuyên với những tổ chức tín dụng khác, các cơ
quan, tổ chức chính quyền địa phương và giữ tốt mối hệ với khách hàng vì đôi khi họ
có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quý báu.
Tôi xin đề xuất một số phương pháp thu thập thông tin như sau:
- Phương pháp thu tin qua mạng máy nối với các tổ chức tín dụng.
- Phương pháp thu tin từ các biểu báo cáo (áp dụng với các tổ chức tín dụng chưa
có máy tính hoặc chưa có điều kiện nối mạng máy tính, ở Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Đống Đa đã có các máy vi tính được nối mạng nhưng ở các phòng giao dịch
xa Chi nhánh chưa hệ thống máy tính được nối mạng, nên tại những phòng giao dịch
nên áp dụng phương pháp này).
- Thu tin qua đường công văn từ các cơ quan quản lý của Nhà nước hoặc chính
quyền địa phương thuộc địa bàn hoạt động của doanh nghiệp vay vốn.
- Phương pháp thu tin trực tiếp từ doanh nghiệp, gặp gỡ trực tiết để phỏng vấn
lãnh đạo doanh nghiệp hoặc gián tiếp qua điện thoại, fax để chuyển đến doanh
nghiệp một mẫu thu thập thông tin và đề nghị doanh nghiệp gửi về Ngân hàng các
thông tin dưới dạng văn bản.
- Phương pháp thu thập thông tin từ các cơ quan thông tin báo chí: đây là
phương pháp đơn giản nhưng rất hữu hiệu, thông tin có nguồn gốc xác thực, đa
dạng, phong phú.
- Phương pháp thu thập thông tin qua các mạng thông tin điện tử như mạng
Internet, Vinanet, mạng trí tuệ Việt nam của FPT, mạng Netnam, mạng 3C, tin
Reuter...
Như vậy, công việc thu thập thông tin rất phức tạp, vì vậy Ngân hàng nên thiết
lập một bộ phận thông tin tín dụng cho riêng mình. Điều này không chỉ làm tốt cho

khâu thẩm định mà giúp ích cho cả quá trình cho vay của Ngân hàng trong việc hạn
chế rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả công tác cho vay.
• Phân tích thông tin tín dụng
Khi có được các thông tin cần thiết thì việc lựa chọn khách hàng là rất quan
trọng. Lâu nay trong thực tế thường chỉ có khách hàng lựa chọn Ngân hàng, Ngân
hàng thực hiện tín dụng đối với hầu hết các khách hàng đến với mình. Thực ra ở đây
phải là quan hệ hai chiều: khách hàng lựa chọn Ngân hàng và Ngân hàng lựa chọn
khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của Ngân hàng, đảm bảo
vốn cho vay ra thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả cho
vay của Ngân hàng. Khi lựa chọn khách hàng, Ngân hàng cần chú ý chọn khách hàng
có hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn.
Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế
khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức đoọ uy tín của khách hàng. Việc lựa
chọn khách hàng cần phải được thực hiện một cách chủ động (nghĩa là nếu biết đơn
vị kinh tế nào ăn có hiệu quả và có uy tín thì Ngân hàng có thể chủ động đến đặt
quan hệ tín dụng với đơn vị đó). Không nên ở thế bị động, ngồi chờ khách hàng đến
gõ cửa xin vay, khi đó Ngân hàng mới xem xét cho vay hay không. Việc lựa chọn
khách hàng phải áp dụngcho mọi thành phần kinh tế, tránh tình trạng đối với thành
phần kinh tế quốc doanh, Ngân hàng cứ cho vay mà không xen xét đơn vị đó kinh
doanh có hiệu quả không. Trong khi đó lại rất khắt khe với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh.
Một vấn đề cần nhắc đến ở đây là khi lựa chọn khách hàng để cho vay thì vấn đề
tài sản thế chấp không nên đặt quá nặng như điều kiện hiện nay. Thực tế vừa qua
cho thấy nhiều Ngân hàng, kể cả Ngân hàng Công thương Đống Đa khi xét cho vay
hầu như chỉ chú ý đến yếu tố khách hàng có tài sản thế chấp hay không ( và một loạt
vấn đề kèm theo tài sản thế chấp như giấy tờ của tài sản thế chấp cóđầy đủ và hợp lệ
hay không). Thực ra chỉ có tài sản thế chấp vẫn chưa đủ vì khi doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quảthì cũng dẫn đến Ngân hàng mất vốn hoặc đọng vốn vì việc giải quyết
tài sản thế chấp ở nước ta hiện nay không đơn giản và dễ dàng chút nào. Ngược lại,
cũng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể không đủ tài sản thế chấp

nhưng có uy tín vàlàm ăn có hiệu quả thì Ngân hàng vẫn có thể cho vay trên cơ sở
đảm bảo của vốn vay chính là kết quả sản xuất có được do vốn vay đem lại. Vấn đề ở
đây là tài sản thế chấp không phải là điều kiện quan trọng nhất để Ngân hàng xét
cho vay hay không cho vay. Vấn đề chủ yếu là hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, uy tín trong làm ăn và sự sẵn lòng trả nợ của họ. Có như vậy Ngân
hàng sẽ linh động hơn trong việc đặt quan hệ với khách hàng, chứ không quá e dè,
chặt chễ dẫn đến “co cụm” tín dụng. Như vậy thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
có vốn ít, tài sản giá trị thấp mới có điều kiện vay vốn để phát triển và mử rộng sản
xuất trở thành những doanh nghiệp lớn hơn.
Để việc lựa chọn khách hàng được khoa học, Ngân hàng nên tiến hành phân tích
và xếp loại các doanh nghiệp nqdtheo 4 nhóm tiêu thức: quy mô doanh nghiệp, khả
năng thanh toán, quan hệ tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cụ thể:
- Quy mô doanh nghiệp được phân thành 3 loại: doanh nghiệp quy mô lớn, vừa
và nhỏ. Dựa trên các chỉ tiêu mức vốn điều lệ, số nhân viên, doanh số hoạt động.
- Đánh giá khả năng thanh toán được phân thành 3 loại: doanh nghiệp có khả
năng thanh toán tốt, trung bình và kém. Dựa trên cơ sở tính toán, phân tích khả
năng tài chính doanh nghiệp, báo cáo chu nghuyển tiền tệ.
- Đánh giá về quan hệ tín dụng của doanh nghiệp được phân thành 5 loại:
trong đó 4 loại: A,B, C,D được xếp loại khoản vay tương ứng nhóm A có dư nợ tốt
(khoản vay trong hạn có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn, các khoản vay đã
gia hạn nợ có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn); nhóm B có dư nợ có vấn đề
gồm các khoản nợ quá hạn <= 180 ngày; nhóm C là nhóm dư nợ tồi gồm các khoản
nơ quá hạn trong khoảng 181- 369 ngày; nhóm D là nhóm dư nợ rất tồi, các khoản
nợ quá hạn > 360 ngày; nhóm O là doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng.
- Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được phân thành hai loại: doanh
nghiệp kinh doanh lỗ và doanh nghiệp kinh doanh có lãi, dựa trên báo cáo kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ để đánh giá.
Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp, là điều kiện để doanh nghiệp có thể trả nợ Ngân hàng. Ngân hàng cần tìm
hiểu, dự tình khi nào hoạt động có lãi, mức lãi bao nhiêu, thời gian kéo dài bao lâu?

Ví dụ đối với những khoản vay ngắn hạn, cần quan tâm đến những hệ số như:
Tài sản lưu động
Hệ số lưu động =
Tổng nợ ngắn hạn
Theo kinh nghiệm cho thấy tỷ lệ này ở mức 2: 1 là tốt để đảm bảo an toàn khi
thua lỗ bất ngờ xảy ra.
Tài sản lưu động – Tồn kho
Hệ số linh hoạt =
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này đo khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong trường hợp các thu nhập
của doanh nghiệp từ bán hàng suy giảm hoặc không còn. Hệ số này lớn hơn 1: 1 là
tốt.
Ngoài ra, Ngân hàng có thể tiến hành xếp loại người lãnh đạo quản lý, điều hành
doanh nghiệp đang có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Việc xếp loại này
dựa trên tiêu thức kỹ năng và kinh nghiệm của các nàh quản lý.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định cần có sự phối hợp cới chuyên gia,
những cán bộ tư vấn về lĩnh vực như giá cả, kỹ thuật, kiểm tra chất lướngản phẩm...
Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ chuyên sâu về công tác
thẩm định.
Ngân hàng nên giao cho cán bộ tín dụng quyền tự quyết trong quá trình xét duyệt
cho vay, phát tiền vay, và thu hồi nợ để đảm bảo tính chủ động và thống nhất trong
công việc. Tuy nhiên, để tránh tiêu cực từ phía cán bộ tín dụng, Ngân hàng phải đồng
thời quy định rõ trách nhiệm của từng người trong phạm vi quyền hạn cho phép.
2.2 Đổi mới cơ chế cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong cho vay là “an toàn và hiệu
quả”. Thực tế trong công tác cho vay đã xảy ra một số mâu thuẫn cần giải quýet hài
hoà là tăng cường doanh số cho vay, tăng dư nợ nhưng phải giảm tỷ lệ nơ quá hạn.
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng
gia tăng cùng với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, ngành nghề kinh doanh phong
phú của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vì vậy việc thường xuyên đổi mới,

hoàn thiện cơ chế cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh là rất cần thiết. Yêu cầu

×