Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Lý thuyết về lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.89 KB, 26 trang )

Lý thuyết về lạm phát
1. Khái niệm về lạm phát:
Nói về lạm phát là nói về một vấn đề lớn của một nền kinh tế, nó là một
biến vĩ mô quan trọng mà bất kỳ một Chính phủ của một quốc gia nào đó cũng
không thể bỏ qua nó khi tiến hành hoạch định một chính sách kinh tế. Hiểu và
vận dụng đúng đắn phạm trù về lạm phát không phải là một vấn đề đơn giản
với bất kỳ một quốc gia nào nhất là đối với những nước đang phát triển như
nước ta. Vì vậy trong cùng một quốc gia có thể có nhiều số liệu khác nhau về
con số lạm phát trong năm của quốc gia đó. Dưới góc độ của bài viết này,
chúng ta có thể quan niệm về lạm phát qua một số khái niệm dưới đây:
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.
Một định nghĩa khác: lạm phát là tỷ lệ phần trăm nói lên sự mất giá của
đồng tiền trong tháng này so với tháng trước, kỳ này so với kỳ trước, năm này
so với năm trước,...
Lạm phát là biểu hiện việc tiêu dùng quá với khả năng hiện có về lực
lượng hàng hoá. Song cũng có đôi lúc, lạm phát không phản ánh đúng thực
chất nói ở trên.
Lạm phát là hiện tượng chung của tất cả các nước trên thế giới, không
phải riêng của nước ta. Đối với nước có nền kinh tế phát triển, đời sống chính
trị ổn định, Nhà nước điều hành tài giỏi sẽ có tỷ lệ lạm phát hợp lý. Nước kém
phát triển hoặc có sự biến động về kinh tế, chính trị sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát
không hợp lý.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số giá chung của giá cả và loại chỉ số
biểu hiện lạm phát hay chỉ số giá chung của toàn bộ hàng hoá cấu thành tổng
sản phẩm quốc dân.
Chỉ số giá là tỷ lệ phần trăm phản ánh sự biến động giá cả khi so sánh hai
mặt hàng với nhau trong một thời gian nhất định (tháng, quý, năm) trong một
không gian nhất định.
Chỉ số giá có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét tình hình biến động giá cả
trong một thời gian nhất định. Thông qua tỷ giá và chỉ số giá, người sản xuất,
kinh doanh sẽ thấy được mặt hàng nào đang được lợi về giá, mặt hàng nào


đang thua thiệt về giá. Từ đó có những quyết định thích hợp trong sản xuất
kinh doanh. Thông qua chỉ số giá, Nhà nước đưa ra những chính sách phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Việc xây dựng chỉ số giá được tiến hành như sau:
Đầu tiên, lựa chọn một “giỏ hàng hoá” để tính chỉ số giá cả. Tổng các
mức giá cho mỗi năm. Sau đó, lựa chọn năm gốc. Chia mức giá năm hiện tại
cho năm gốc và nhân với 100.
100
0
x
P
P
PI
t
=
Trong đó: PI là chỉ số giá
P
t
là tổng các mức giá hiện tại
P
0
là tổng các mức giá năm gốc.
Khi “năm hiện thời” cũng là “năm gốc” thì chỉ số này bằng 100. Đối với
một năm bất kỳ, các mức giá năm hiện thời và các mức giá năm gốc sẽ
không giống có thể xảy ra nhất. Nếu mức giá hiện thời lớn hơn mức giá gốc,
chỉ số này sẽ lớn hơn 100. Ngược lại, nếu mức giá hiện thời nhỏ hơn mức giá
năm gốc thì chỉ số này sẽ nhỏ hơn 100.
Mức giá ổn định được đo bởi phần trăm thay đổi hàng năm của chỉ số
giá:
001

/)(% PPPPp −=∆=
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung, nó được đo bằng chỉ số giá.
Lưu ý rằng đây không phải sự tăng lên của tất cả các mức giá trong suốt quá
trình lạm phát. Một vài mức giá vẫn giảm xuống, nhưng các mức giá này đang
có khuynh hướng tăng kéo giá cả chung tăng lên.
Giảm phát là sự giảm xuống của mức giá cả chung, nó cũng được đo bằng
chỉ số giá. Lưu ý rằng nó không bao gồm sự giảm xuống tất cả các mức giá
trong quá trình giảm phát. Một vài mức giá thực tế vẫn tăng nhưng nó đang có
khuynh hướng giảm xuống kéo mức giá chung giảm xuống.
Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả: chỉ số giá cả được dùng rộng rãi
nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI.
Giá tiêu dùng là giá cả mà người tiêu dùng mua hàng hoá và chi trả các
dịch vụ nhằm phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày của người dân. Giá
tiêu dùng được thể hiện bằng giá bán lẻ hàng hoá trên thị trường và giá các
loại dịch vụ, nhằm phục vụ sinh hoạt đời sống của các tầng lớp dân cư.
Muốn tính chỉ số giá tiêu dùng phải có các điều kiện:
Thứ nhất, phải có danh mục mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ đại diện thống
nhất trong cả nước để thống kê giá tiêu dùng.
Thứ hai, tổ chức mạng lưới điều tra và phương pháp điều tra giá bán lẻ
hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng.
Thứ ba, phải có bảng giá kỳ gốc cố định và quyền số cố định dùng để tính
chỉ số giá tiêu dùng.
Bảng danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện thống kê giá tiêu dùng hiện
nay được chia thành 3 phân nhóm như sau:
♦10 nhóm cấp I bao gồm:
+ Lương thực,
+ Uống và hút,
+ May mặc, mũ nón giày dép,
+ Ở,
+ Thiết bị và đồ dùng gia đình,

+ Y tế, chăm sóc sức khoẻ,
+ Đi lại và bưu điện,
+ Giáo dục,
+ Văn hoá, thể thao, giải trí,
+ Đồ dùng và dịch vụ khác.
10 nhóm trên được gọi 10 nhóm cấp I được chia thành hai bộ phận hàng
hoá tiêu dùng và dịch vụ tiêu dùng.
♦Nhóm cấp II có 34 nhóm
♦Nhóm cấp III có 86 nhóm
Như vậy, CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị
trường. Để tính CPI người ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng
trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
CPI
t
=
[ ]

0,,,
/
ititi
PPw

=
0,0,
0,0,
ii
ii
i
QP
QP

w
Như vậy:
CPI
t
=


0,0,
0,,
ii
iti
QP
QP
Q
i,0
: khối lượng hàng hoá tiêu dùng ở thời kì i từ thời gian gốc
P
i,0
: mức giá hàng hoá ở thời kì i từ thời gian gốc
P
i,t
: mức giá sản phẩm thời kì t.
♦Tỷ lệ lạm phát được xác định bởi:
INF
t
= 100(P
t
– P
t – 1
)/P

t – 1
Trong đó: INF
t
là tỷ lệ lạm phát năm t
P
t
, P
t – 1
là mức giá năm t và t-1
♦Một vài chỉ số liên quan đến lạm phát khác là:
- CCPI đo mức giá tiêu dùng chung nhưng loại trừ các nhân tố cấu thành các
mức giá không ổn định và biến đổi nên không thể dự báo các lý do từ thời kỳ
này đến thời kỳ kia, ví dụ như mức giá của lương thực và năng lượng.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá chung phải trả cho tài sản hữu hình, bán
thành phẩm và thiết bị sản xuất. Nó được tính toán hàng tháng. Sự biến động
của PPI co thể dự đoán sự biến động tương lai của CPI.
- CPPI đo mức giá sản xuất chung nhưng loại trừ các nhân tố cấu thành các
mức giá không ổn định và biến đổi nên không thể dự báo được. Sự biến động
trong chỉ số CPPI có khuynh hướng dự báo sự biến động trong tương lai của
chỉ số CCPI.
2. Phân loại lạm phát:
Có nhiều cách phân biệt lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
+ Về mặt định lượng:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia
lạm phát ra thành:
- Lạm phát một con số mỗi năm: Samuelson gọi là lạm phát vừa phải. Loại
lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm.
Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này
những tác động kém hiệu qủa của nó là không đáng kể.
- Lạm phát 2 con số: khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến hai con số mỗi

năm. Ở mức thấp (11, 12, 13%/năm) thì tác động của nó đến nền kinh tế là
không đáng kể, nền kinh tế có thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng
giá ở mức 2 chữ số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập
vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành
mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: tuỳ theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại
lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát
này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh.
Với siêu lạm phát tác động tiêu cực của nó đến đời sống và nền kinh tế là hết
sức nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của
người lao động giảm mạnh. Chúng ta có thể thấy một hình ảnh của siêu lạm
phát là ở nước Đức năm 1922-1923. Đây có thể nói nó là hình ảnh điển hình về
siêu lạm phát trong lịch sử lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần.
+ Về mặt định tính:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vật lạm phát
không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu
nhập. Thực tế thì lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối
dài với tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể
dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý,
người dân đã quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn
bị để thích nghi với tình hình lạm phát này.
Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có đột biến mà trước đó chưa hề
xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa
thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và
sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển

thường diễn ra trong thời gian khá dài, và vì thế, hậu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn. Cũng vì vậy dựa vào các loại lạm phát đã phân chia ở trên kết
hợp với độ dài thời gian lạm phát để chia lạm phát ở các nước này thành 3
loại:
- Lạm phát kinh niên thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát đến
50% một năm.
- Lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát
trên 50% một năm.
- Siêu lạm phát kéo dài trên 1 năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. Nguyên nhân của lạm phát:
3.1. Lạm phát do tiền tệ:
Ta xét lý thuyết về lượng của tiền tệ:
Hình thức hoá thông thường nhất của lý thuyết đó là công tức Irving
Fisher:
M x V = P x T
Trong đó: M là khối lượng tiền tệ lưu thông;
V là tốc độ lưu thông của tiền tệ (cùng một đơn vị tiền tệ có
thể qua nhiều chu trình chi trả trong một thời gian nhất định);
P là mặt bằng chung của giá cả;
T là khối lượng giao dịch phải bảo đảm.
Một định nghĩa rộng hơn của khối lượng tiền tệ dẫn đến biểu thức:
M x V + M’ x V’ = P x T
Trong đó phân biệt lượng tiền tệ lưu thông M với tiền gửi (M’), mỗi thành
phần của khối lượng tiền tệ chung lại có một tốc độ lưu thông (tương ứng với
V và V’).
Ý nghĩa đơn giản nhất là mọi sự tăng tiền tệ cao hơn tăng sản xuất thực
tế đều được thể hiện (đối với một tốc độ lưu thông không đổi của tiền tệ) ra
bằng sự hiệu chỉnh giá cả chung sao cho giá trị tổng thể của trao đổi bằng giá
trị của khối lượng tiền tệ mới đang lưu thông. Trong thời hạn ngắn hoặc trong
trường hợp bộ máy sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tăng lên, biến động

của giá cả sẽ tỉ lệ thuận với biến động của khối lượng tiền tệ.
Nhà kinh tế học A. Marshall cho rằng sự phát hành tiền với tư cách là nhu
cầu tiền tệ phụ thuộc vào thu nhập thực tế của quốc gia (Y), mặt bằng chung
của giá cả (P) và một hệ số (k), hệ số này tuỳ theo các tác giả biểu thị tỉ số giữa
khối lượng tiền tệ và thu nhập phụ thuộc vào nhiều yếu tố không đơn thuần là
một hệ số kỹ thuật. Công thức M = k x P x Y có ý nghĩa khối lượng tiền tệ quyết
định giá trị giao dịch, lượng tiền tệ mong muốn tác động lên lượng tiền tệ lưu
thông. Như vậy, độ lớn của khối lượng tiền tệ quyết định giá trị của thu nhập
quốc gia (P x Y); nhưng nếu nó tìm cách đưa tiền tệ vào nền kinh tế thật thì nó
lại bỏ qua các quan hệ giữa cung và cầu của tiền tệ.
Sau đó nhà kinh tế M. Friedman đã định rõ nhu cầu của tiền tệ nhờ hàm
số:
);,,,;,( uGRERBRMwyf
P
M
p
d
=
Trong đó: M
d
biểu thị nhu cầu tiền tệ;
P là mặt bằng giá cả;
y là thu nhập thường xuyên;
w là tỉ lệ giữa thu nhập từ thiết bị và con người;
RM, RB, RE là hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ, trái
phiếu và cổ phần.
G
p
là tỉ lệ lạm phát dự kiến;
u là biến biểu thị các yếu tố khác.

Ông khẳng định rằng “lạm phát lúc nào và ở đâu cũng là một hiện tượng
tiền tệ” mà trách nhiệm thuộc về chính sách của Nhà nước. Đối với Friedman,
việc phát hành tiền tệ thuộc về các quyết định hoặc một sự kiểm soát của chính
phủ. Bị sức ép thường xuyên của các yếu tố khác nhau hoặc của hệ thống ngân
hàng, Nhà nước phải tiêu nhiều mà không tăng thuế kịp, hoặc hợp thức hoá
các khoản nợ của tư nhân để duy trì hoạt động kinh tế hoặc giúp đỡ một tầng
lớp xã hội nào đó. Như vậy, việc phát hành tiền tệ cho phép dẫn đến “thuế lạm
phát”, các khoản thu của Nhà nước tăng chừng nào các khoản thuế lợi tức
không khớp một cách máy móc với lạm phát và chừng nào các bản tổng kết tài
sản của các doanh nghiệp không tính lại giá. Cùng trong thời gian đó, nợ của
Nhà nước cũng nhẹ bớt đi. Như vậy, “Chính phủ ở khắp mọi nơi phải chịu trách
nhiệm về lạm phát”.
Muốn kìm hãm lạm phát, theo Friedman nên kìm hãm sự tăng thêm tiền ở
một tỉ lệ cố định và vừa phải, nó có hiệu qủa là ổn định được các dự đoán về
lạm phát và hướng cơ chế đến một sự cân bằng bền trên tất cả các thị trường.
Nhịp điệu tăng trưởng của tiền tệ phải cùng nhịp điệu tăng trưởng của nền
sản xuất đích thực duy trì trong thời gian dài và bảo đảm được một sự phát
triển kinh tế không lạm phát.
Lịch sử về lạm phát chỉ ra rằng không có cuộc lạm phát nào cao mà không
có sự tăng trưởng mạnh mẽ về tiền tệ. Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm
phát càng cao và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào giảm được tốc độ tăng tiền
cũng dẫn đến giảm tỉ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kì ngắn
hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn các chinh phủ có thể in thêm tiền để trang
trải, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và
một khi giá cả tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm
một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này
thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên các chính phủ có thể tài
trợ thâm hụt bằng cách vay dân qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa
không tăng lên thêm nên không có nguy cơ lạm phát. Nhưng nếu thâm hụt kéo

dài, số tiền phải trả cho dân cả gốc lẫn lãi sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để
trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn.
3.2. Lạm phát do nhu cầu:
Quan hệ tiền tệ - nhu cầu, sự cung cấp sản phẩm tạo ra nhu cầu chính
nó, điều đó có nghĩa là nhu cầu tổng thể được tạo nên bởi toàn bộ thu nhập
được phân phối vào dịp sản xuất, cũng tức là nó nhất thiết phải bằng sự
cung ứng tổng thể, không có sự tích trữ tiền của. Vậy nhu cầu quá mức chỉ
có thể có do sự tăng trưởng không kiểm soát được các phương tiện chi trả
trong tay những người có nhu cầu. Học thuyết tiền tệ cho rằng nhu cầu có
thể xuất phát từ sự tăng độc lập tốc độ lưu thông tiền tệ, từ sự du nhập các
ngoại tệ, hoặc lợi nhuận và lãi cổ phần từ nước ngoài chuyển về nước, hoặc
từ chỗ giảm tích trữ hoặc giảm để dành. Việc tăng xu hướng tiêu dùng này
có thể giải thích bằng sự xuất hiện của những sản phẩm mới, của sự sửa đổi
hệ thống giá tương đối, của việc một số tầng lớp xã hội giầu lên cho phép họ
mua được những của cải mới, hoặc của một sự thay đổi trong dự đoán giá
cả, thu nhập hoặc thù lao tiết kiệm.
Việc phát hành tiền tệ mặc dầu nhiều hay ít cũng chỉ dẫn đến lạm phát
trong trường hợp bộ máy sản xuất không thể đáp ứng được mức tăng của
nhu cầu. Sự hiệu chỉnh cung - cầu được thực hiện bằng giá cả thay cho số
lượng, và trường hợp với mọi tình trạng phát hành tiền tệ.
Do đó, việc tăng giá chỉ xuất hiện khi năng lực sản xuất ở người, công
cụ và nguyên liệu đều đã được huy động tối đa, khi các khối hàng dự trữ đều
không đủ và khi nhập khẩu không thoả mãn được nhu cầu trong nước.
Nhưng nó chỉ trở thành lạm phát nếu nhu cầu quá mức lại nảy sinh và
không có yếu tố nào can thiệp vào để làm tăng mức cung ứng tổng thể đủ
thoả mãn nhu cầu.
Biện pháp duy nhất để lập lại cân bằng cung cầu sẽ là một sự hiệu
chỉnh bằng giá cả. Hơn nữa, việc tạo nên thu nhập phụ do việc tăng giá tất
yếu nảy sinh một động lực lạm phát toàn diện.
3.3. Lạm phát do chi phí:

Lạm phát do chi phí sản xuất là lạm phát phát sinh từ chỗ tăng tiền chi
cho các yếu tố sản xuất cao hơn khả năng sản xuất của chúng. Sự tăng đó đã
kích động các chủ doanh nghiệp tăng giá sản phẩm của họ bán cho các
doanh nghiệp hoặc gia đình. Những người này lại có xu hướng tăng giá của

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×