Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHCT BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.29 KB, 18 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI
NHCT BA ĐÌNH
Sau khi phân tích tình hình hoạt động đặc biệt là tình hình cho vay trung
và dài hạn tại NHCT Ba Đình chúng ta nhận thấy bên cạnh những kết quả đạt
được rất đáng khích lệ tình hình cho vay trung và dài hạn còn một số tồn tại
đáng phải xem xét. Lượng vốn mà chi nhánh cung cấp cho nền kinh tế chưa
đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp và chưa phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội. Với mục tiêu mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả
tín dụng trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước, sau một thời
gian nghiên cứu công tác cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh tôi xin nêu ra
một số ý kiến về các giải pháp nâng cao hiệu quả trung và dài hạn tại chi
nhánh NHCT khu vực Ba Đình.
Như ở chương I đã nêu lên khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
cho vay trung và dài hạn, các giải pháp được nêu ra dưới đây cũng nhằm hoàn
thiện các chỉ tiêu đã nêu theo hướng:
- Phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế- xã hội.
- Đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho doanh nghiệp.
- Đảm bảo hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Sau đây là những biện pháp nhằm khuyến khích mở rộng và nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn ở NHCT Ba Đình.
1. Đơn giản hoá thủ tục cho vay.
Hiện nay theo quy định để được vay vốn tại Ngân hàng thì khách hàng
phải trải qua rất nhiều thủ tục rườm rà: Từ khâu lập luận chứng kinh tế kỹ
thuật, dự toán công trình để đưa lên cấp có thẩm quyền phê duyệt và khi đưa
đến Ngân hàng khách hàng phải cung cấp rất nhiều các tài liệu kèm theo như:
Đơn xin vay, bản tính hiệu quả kinh tế của dự án, hạch toán vay trả nợ, các hợp
đồng cung ứng thiết bị, nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, các văn bản pháp
lý về tài sản thế chấp, giấy bảo lãnh vay vốn, báo cáo thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, báo cáo quyết toán và các tài liệu khác có liên quan. Để thu hút
được khách hàng, Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đẩy mạnh
quá trình đầu tư đối với các dự án có hiệu quả. Nhìn chung một khách hàng đi


vay vốn bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quá rườm rà, thủ tục này
càng đơn giản càng tránh cho doanh nghiệp những khó khăn phức tạp trong
việc giải trình, tạo điều kiện cho khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ
với Ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng tạo điều kiện cho
Ngân hàng điều tra có trọng điểm không mất thời gian tìm hiểu lâu. Nhưng
đơn giản không có nghĩa là qua loa, hời hợt. Việc xét duyệt của Ngân hàng
phải chính xác khi đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay.
2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định
trước khi cho vay.
Để hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng, hạn chế rủi ro trong kinh
doanh tín dụng Ngân hàng, trong quá trình xét duyệt cho vay đối với mọi
thành phần kinh tế đảm bảo an toàn vốn và phát triển vốn của Ngân hàng nên
tuân theo những trình tự sau:
Trước khi thiết lập một quan hệ tín dụng, khâu đầu tiên là Ngân hàng
phải tìm hiểu bạn hàng của mình, trong đó việc xem xét khả năng tài chính của
các doanh nghiệp là hết sức quan trọng vì đây là yếu tố quyết định việc Ngân
hàng có thu hồi được vốn hay không. Khi xem xét khả năng tài chinh của doanh
nghiệp Ngân hàng không chỉ xem xét quy mô hoạt động của doanh nghiệp biểu
hiện qua vốn lưu động, vốn cố định mà còn phải biết được năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra từ
đó xem xét khả năng trả nợ đối với Ngân hàng. Trong trường hợp doanh
nghiệp vay vốn để quan hệ buôn bán với bên thứ ba thì Ngân hàng phải xem
xét mức độ hợp lý cũng như tính đúng đắn của hợp đồng kinh doanh này. Điều
này đòi hỏi Ngân hàng phải xem xét hoạt động của các doanh nghiệp qua các
tài liệu kế toán, qua khảo sát thực tế. Ngoài ra Ngân hàng còn phải tiến hành
thăm dò các doanh nghiệp qua các tổ chức kinh tế có quan hệ với doanh
nghiệp như những đơn vị cung cấp vật tư, những đơn vị tiêu thụ hàng hoá của
doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng khác có liên quan nhất là những thông
tin thu thập được từ thị trường. Cụ thể Ngân hàng phải xem xét các vấn đề
sau:

Xem xét xem máy móc, thiết bị đơn vị dự kiến đầu tư có phải là nhu
cầu cấp thiết phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không, thẩm
định về phương diện kỹ thuật cũng như kinh tế của máy móc thiết bị một cách
chính xác
Thẩm định thị trường hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra, đặc
biệt phân tích tính cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường.
Nếu đầu tư máy móc thiết bị đó thì có phát huy được hiệu quả hay
không
Thẩm định là công tác quan trọng trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng. Muốn hoạt động tín dụng đạt kết quả tốt thì công tác thẩm định phải
thực hiện tốt. Công tác thẩm định đặc biệt quan trọng với nghiệp vụ đầu tư tín
dụng trung và dài hạn. Để công tác thẩm định đạt được kết quả cao đòi hỏi
những cán bộ thẩm định phải có kiến thức tổng hợp về tự nhiên, khoa học xã
hội và kinh tế để xem xét tình hình chính xác của các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật,
phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội, nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, phương án đi vay và trả nợ. Do đó đặc biệt
phải chú trọng đến việc nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ tín
dụng. Song không có nghĩa là ngoài việc xem xét những khía cạnh hữu hình
của vấn đề còn phải kiểm tra khía cạnh vô hình của người xin vay nhằm đưa
ra những đánh giá khách quan về khả năng thành công của dự án.
Sau khi thực hiện công tác phân tích các chỉ tiêu định lượng, định tính
cán bộ tín dụng phải dành thời gian để khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của
người vay nhằm xác định khả năng hoạt động của công ty nói chung và năng
lực lãnh đạo của chủ sở hữu thông qua sự cảm nhận thu được từ quan sát tinh
tế cũng như kinh nghiệm của bản thân.
3. Đa dạng hoá các phương thức thu hồi vốn trung và dài hạn.
Theo nguyên tắc, nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn phải là những
nguồn vốn huy động dài hạn, nguồn vốn viện trợ và vay dài hạn nước ngoài.
Nhưng hiện nay do nền kinh tế vẫn chưa thực sự ổn định, tâm lý người dân vẫn
chưa muốn gửi tiền với kỳ hạn dài. Chính vì vậy trong toàn hệ thống Ngân

hàng nói chung và đối với NHCT Ba Đình nói riêng tuy rằng nguồn vốn huy
động khá dồi dào, song nguồn vốn trung và dài hạn lại quá ít ỏi dẫn đến Ngân
hàng thường phải lấy nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc hạn chế đối
với công tác cho vay trung và dài hạn của chi nhánh và nó cũng đặt Ngân hàng
trước những rủi ro. Do đó để biến tín dụng trung và dài hạn thực sự trở thành
một hoạt động quan trọng của Ngân hàng thì ngoài việc mở rộng cho vay
trung và dài hạn Ngân hàng cần có các biện pháp đa dạng hoá các phương
thức huy động nhằm thu hút được khối lượng vốn lớn trung và dài hạn để cho
vay trung và dài hạn.
Ngân hàng nên mở rộng các đợt huy động vốn trung và dài hạn thông
qua việc phát hành các trái phiếu có kỳ hạn lớn hơn 1 năm với lãi suất hợp lý
nhằm khuyến khích các tổ chức kinh tế, dân cư mua các loại trái phiếu này.
Ngoài ra để tránh cho người gửi tiền có kỳ hạn dài khỏi bị thiệt khi có những
biến động trên thị trường Ngân hàng nên có bảo đảm bằng vàng hay bằng
ngoại tệ khi phát hành trái phiếu.
Để tiến hành đa dạng hoá các hình thức huy động trung và dài hạn
Ngân hàng cần:
- Mở rộng nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình
thức lãi suất, nhiều thời hạn nhiều phương thức gửi và thanh toán khác nhau.
Hiện nay NHCT Ba Đình có tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng nguồn vốn huy động nhưng chỉ gồm 2 loại tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm
không kỳ hạn( thường có kỳ hạn < 12 tháng ) vì vậy chi nhánh có thể đưa ra
một số hình thức tiết kiệm dài hạn có mục đích.
- Mở các đợt phát hành trái phiếu trung và dài hạn của Ngân hàng công
thương Việt Nam.
- Đối với các khoản huy động trong nước có thể cho phếp chuyển hoá
giữa nguồn vốn ngắn hạn với tỷ lệ khoảng 20% đến 25 % sang để cho vay
trung và dài hạn.
- Có các biện pháp thu hút nguồn vốn ngoại tệ trong và ngoài nước như:

Triển khai mở rộng công tác chi trả kiều hối, mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ
cho các tổ chức và cá nhân. Ngoài ra còn tăng cường tìm kiếm các nguồn tài
trợ uỷ thác của chính phủ, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đối với các
dự án kinh tế, văn hoá xã hội.
4. Các giải pháp nhằm mở rộng đầu tư đối với khu vực Kinh tế
ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay Kinh tế quốc doanh vẫn nắm vai trò
chủ đạo, định hướng và cần được chú trọng đầu tư một cách thích đáng. Tuy
nhiên bên cạnh đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua
mặc dù chưa thực sự phát triển nhưng vẫn đóng một vị trí quan trọng trong
nền kinh tế- xã hội. Khi nền kinh tế thị trường đã phát triển nó thực sự đã thúc
đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Ngày nay các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh đã có mặt trên hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế như:
xây dựng, lương thực thực phẩm, chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, cơ khí...
Theo số liệu thống kê, khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh năm 2001 tạo ra
khoảng 62% GDP trong đó riêng ngành dịch vụ khu vực Kinh tế ngoài quốc
doanh chiếm khoảng 75% tổng giá trị dịch vụ.
Thành phần Kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta trong thời gian qua
thực sự đã phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay các
thành phần kinh tế này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của nó.
Đây là tình trạng trung đối với tất cả các Ngân hàng Thương Mại ở nước ta
hiện nay. Đặc biệt ở chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Ba Đình tỷ
trọng này hiện nay chỉ đạt khoảng 3 - 4 % tổng cho vay trung và dài hạn( trong
khi đó tỷ lệ cho vay trung và dài hạn đối với các thành phần kinh tế chỉ chiếm
khoảng 18%- 19% tổng dư nợ ). Hướng tới công cuộc CNH - HĐH đất nước
chúng ta cần phải phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong đó có
thành phần Kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có rất nhiều tiềm năng phát
triển. Trong thời gian tới nhu cầu vốn cho đầu tư đổi mới trang thiết bị máy
móc của thành phần kinh tế này rất lớn. Vì thế Ngân hàng cần phải tiếp tục mở
rộng cho vay trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế này. Điều đó không

chỉ đảm bảo vững chắc cho sự tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần nâng cao
hệ số sử dụng vốn của chi nhánh.
So đặc điểm của hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh thường có quy mô nhỏ, lượng vốn ít, khối lượng tài sản cố định thường
nhỏ nhưng bên cạnh đó nó cũng có những ưu điểm như: Tính năng động, nhậy
bén, thích ứng với cơ chế thị trường, bộ máy quản lý gọn nhẹ... Vì thế khi cho
vay đối với khu vực Kinh tế ngoài quốc doanh cần có những chính sách mềm
dẻo, năng động và thận trọng cụ thể như sau:
+ Về phía Ngân hàng trong thời gian tới trước mỗi món cho vay khu vực
Kinh tế ngoài quốc doanh Ngân hàng phải có sự cân nhắc thẩm định kỹ càng
hơn, chính xác hơn. Cán bộ tín dụng cần phải thường xuyên theo sát công
trình, xem xét quá trình cho vay và phát vốn sao cho phù hợp với tiến độ thi
công. Đến kỳ thu nợ Ngân hàng cần đôn đốc doanh nghiệp trả nợ kịp thời.
+ Trong thời gian tới Ngân hàng cần hạn chế thấp nhất những rủi ro mà
khu vực kinh tế này mang lại với mỗi khoản cho vay bằng chính các biện pháp
nghiệp vụ của mình, lựa chọn các doanh nghiệp thực sự có năng lực kinh tế,
biết sử dụng đồng vốn có hiệu quả, duy trì mối quan hệ với các doanh nghiệp
có uy tín từng bước mở rộng cho vay đối với khu vực Kinh tế ngoài quốc
doanh.
5. Đảm bảo hiệu quả an toàn trong cho vay trung và dài hạn Ngân
hàng nên tiến hành phân loại doanh nghiệp.
Để đánh giá được chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp đặc
biệt là doanh nghiệp Nhà nước, Ngân hàng phải tiến hành phân loại để có
những bước đi thích hợp, có những biện pháp xử lý nợ phù hợp với từng
doanh nghiệp. Tiến hành kiểm tra, kiểm soát, chấn chỉnh hồ sơ, thủ tục, diều
kiện dối với từng món vay hình thành nên dư nợ hiện tại theo thể lệ, chế độ tín
dụng hiện hành. Qua kiểm tra rà soát tiến hành xử lý dứt điểm về mặt hồ sơ,
thủ tục, bổ sung hoàn thiện các điều kiện vay vốn. Đối với món vay tín chấp cần
xem xét kỹ bảo đảm đủ các điều kiện của khách hàng được vay tín chấp.

×