Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.94 KB, 36 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
I. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng
1. Tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện trước hết là sự vay mượn
tạm thời một số vốn tiền tệ hay tài sản. Tín dụng từ xa xưa dựa trên lòng tin là chủ yếu,
ngày nay nó được pháp luật bảo trợ. Hiện nay tồn tại các hình thức tín dụng chủ yếu
sau: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước, tín dụng quốc tế.
Trong đó, tín dụng ngân hàng là mối quan hệ kinh tế về sử dụng vốn tạm thời giữa ngân
hàng và các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp và các cá nhân. Tín dụng ngân hàng giữ một vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế và đối với ngân hàng thì tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu. Tất cả các
nghiệp vụ khác của ngân hàng đều có tính chất bổ sung cho nghiệp vụ tín dụng và đây
là nghiệp vụ quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Thông thường, tín dụng ngân hàng được phân theo thời gian khách hàng vay vốn,
bao gồm các loại sau:
- Tín dụng ngắn hạn: đây là hình thức cấp tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, thường áp
dụng trong trường hợp nguồn vốn ngân hàng cho khách hàng vay được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của các cá nhân dân cư.
- Tín dụng trung hạn: Là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, thường áp
dụng trong trường hợp nguồn vốn ngân hàng cho khách hàng vay được sử dụng để đầu
tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có thời gian thu hồi vốn nhanh của các doanh nghiệp,
hộ kinh doanh.
- Tín dụng dài hạn: Là hình thức cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như các công trình xây dựng của Nhà nước, các tổ chức, đơn vị sự
nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô lớn...
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng được coi là huyết mạch trong bộ máy tài chính của đất nước, đặc biệt
trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, hoạt động của hệ thống ngân hàng càng khẳng


định hơn nữa vai trò quan trọng của mình. Đó là:
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, tiền tệ phát triển, góp
phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông
qua chức năng phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả, các nguồn vốn và vật
tư được đưa vào luân chuyển và được sử dụng hợp lý trong sản xuất. Tín dụng ngân
hàng góp phần thỏa mãn các nhu cầu vốn tiền tệ tạm thời của doanh nghiệp, đảm bảo
tính liên tục của quá trình sản xuất cũng như mở rộng sản xuất. Đồng thời tín dụng
ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ cấu tối ưu trong phát triển kinh tế,
là phương tiện để Nhà nước cung ứng tiền cho nền kinh tế phù hợp với sự phát triển
kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nhờ nguồn vốn vay của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể khắc phục khi gặp khó khăn
trong kinh doanh, hoặc doanh nghiệp có nguồn vốn để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư
đổi mới công nghệ...giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
- Tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, vay nợ nước ngoài trở thành một nhu cầu khách quan đối
với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam. Nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển
và nâng cao mức sống vật chất của nhân dân.
1.3. Nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng
- Nguyên tắc thứ nhất: Cho vay phải theo phương hướng mục tiêu, kế hoạch sản xuất
kinh doanh của người vay vốn phù hợp với kế hoạch sản xuất phát triển kinh tế xã hội
của Nhà nước và phải có hiệu quả (phương án sản xuất kinh doanh khả thi).
- Nguyên tắc thứ hai: Cho vay có giá trị tương đương làm bảo đảm. Nguyên tắc này
đặt ra theo yêu cầu tất yếu khách quan của quy luật lưu thông tiền tệ, đòi hỏi các ngân
hàng khi cấp tín dụng phải dựa trên cơ sở tài sản thế chấp hợp pháp và có các vật tư có
giá trị tương đương. Các giá trị tương đương làm bảo đảm có thể là tài sản cố định, vật
tư hang hoá trong kho hay đang trên đường vận chuyển, các giấy tờ có giá, các quyền
về tài sản...
- Nguyên tắc thứ ba: Cho vay có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Đây

là nguyên tắc thể hiện tính đặc trưng của tín dụng ngân hàng, đòi hỏi các khoản tiền
ngân hàng cho vay sau khi đã sử dụng vào mục đích của người vay phải được hoàn trả
cho ngân hàng theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng cả vốn và lãi
vay.
2. Vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng:
2.1. Bảo đảm tiền vay là cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay của các
TCTD.
Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển của các loại hình ngân hàng, các
TCTD cùng với sự đa dạng của các hoạt động và các hình thức tín dụng đã tạo nên một
thị trường tín dụng sôi động. Nhưng điều đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể
xảy ra với các ngân hàng mà khả năng ngăn ngừa chống đỡ kém. Hơn nữa, ngành ngân
hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó chịu ảnh
hưởng của rất nhiều loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Rủi ro trong hoạt động tín
dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi hoặc gốc, hoặc cả
lãi và gốc một cách đầy đủ, đúng hạn cho TCTD. Nguyên nhân có thể là do hoạt động
kinh doanh thua lỗ nên khách hàng không đủ tài chính để trả nợ, thậm chí có một số
trường hợp người đi vay có khả năng tài chính nhưng chây ỳ không trả nợ, hoặc tìm
cách lừa đảo chiếm đoạt vốn ngân hàng. Vì thế pháp luật của hầu hết các nước đều có
quy định cụ thể về an toàn trong hoạt động tín dụng, theo đó các TCTD khi cấp tín
dụng đều phải tuân thủ những điều kiện nhất định. Thông thường để có thể tránh những
rủi ro không trả được nợ của người đi vay, các ngân hàng quy định các điều kiện vay
vốn, trong đó bảo đảm tiền vay được xem là một trong những điều kiện quan trọng
nhất. Bản chất của bảo đảm tiền vay là sử dụng những tài sản làm bảo đảm để trả nợ
thay cho các khoản vay mà người vay đã dùng vào sản xuất kinh doanh nhưng không có
khả năng trả nợ ngân hàng. Như vậy tài sản làm bảo đảm tiền vay phải có giá trị, tức nó
phải là hàng hoá và có thị trường tiêu thụ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó khi có rủi
ro xảy ra thì TCTD có thể thu hồi được vốn thông qua tài sản mà bên vay đã dùng làm
vật bảo đảm ngay cả trong trường hợp bên đi vay không có khả năng trả nợ, đảm bảo an
toàn cho hoạt động cho vay.
2.2. Bảo đảm tiền vay kích thích hoạt động cho vay của các TCTD

Theo Luật các TCTD năm 1997 (khoản 8 Điều 20), hoạt động tín dụng là việc
TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong đó vốn tự
có bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác của
TCTD theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ.
Chức năng cơ bản của nguồn vốn tự có của TCTD là để đảm bảo cho các nghĩa vụ trả
nợ của chính các tổ chức đó đối với những người gửi tiền. Trong hoạt động ngân hàng,
nguồn vốn tự có là cơ sở để cho các TCTD giữ được khả năng trả nợ, khả năng thanh
toán ngay cả trong trường hợp hoạt động kinh doanh ngân hàng không đem lại lợi
nhuận. Nguồn vốn huy động bao gồm tiền gửi của khách hàng, tiền vay của các TCTD
khác, tiền huy động từ việc phát hành trái phiếu và tiền vay tại ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên để huy động được các nguồn tiền này, TCTD phải chứng minh số vốn tự có
của mình và nhờ vào đó khách hàng có thể tin tưởng vào khả năng thanh toán của
TCTD trong tình huống gay cấn. Vậy TCTD thực hiện hoạt động tín dụng trên cơ sở
nguồn vốn huy động là chủ yếu, tức TCTD đi vay để cho vay. Thông qua việc đi vay để
cho vay này, TCTD phân phối các nguồn vốn cho các nhu cầu đầu tư của nền kinh tế.
Các quy định về bảo đảm tiền vay có tác dụng rất quan trọng trong việc kích thích hoạt
động cho vay của các TCTD bởi vì nếu các bên tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng
tuân thủ các điều kiện vay vốn, đặc biệt là điều kiện về bảo đảm tiền vay thì rủi ro tín
dụng sẽ được loại trừ.
2.3. Bảo đảm tiền vay có vai trò quan trọng trong việc hạn chế tranh chấp xảy ra,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong quan hệ tín dụng ngân
hàng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản được thể hiện bằng các hợp đồng cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh mà Nghị định 165/1999/NĐ-CP gọi là các giao dịch bảo đảm. Các bên trong
hợp đồng tín dụng ngân hàng có quyền thoả thuận áp dụng biện pháp bảo đảm cũng
như thoả thuận các điều khoản trong giao dịch bảo đảm. Các giao dịch bảo đảm này là
căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng tín dụng ngân hàng. Theo điều 5 Nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định:
“Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong việc bảo đảm tiền vay.
Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào việc bảo đảm tiền

vay và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các bên”. Do đó các tranh chấp được hạn
chế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho vay vốn của các TCTD cũng như sự phát
triển của kinh tế - xã hội.
II. Quy chế pháp lý về bảo đảm tiền vay
1. Các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân
hàng
Từ khi ra đời cho đến nay, đã có rất nhiều văn bản pháp luật đề cập đến hoạt động
bảo đảm tiền vay, bởi vì đây là vấn đề có tính nhạy cảm và biến động cao tác động tới
sự phát triển ổn định và an toàn của cả hệ thống ngân hàng tài chính. Trong thời gian
đầu các quy định về bảo đảm tiền vay còn rất nhiều bất cập như coi tài sản bảo đảm là
điều kiện tiên quyết để cấp tín dụng, có sự phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và
doanh nghiệp ngoài quốc doanh...Sau một thời gian áp dụng, Nhà nước, tổ chức tín
dụng và khách hàng vay đã thấy được điểm còn hạn chế, do đó hàng loạt những quy
định mới ra đời, bổ sung và thay thế các quy định cũ tạo ra một hành lang pháp lý bảo
đảm tiền vay khá chặt chẽ, chi tiết và hợp lý hơn để thích ứng với sự phát triển của nền
kinh tế. Hiện nay, các TCTD khi thực hiện bảo đảm tiền vay đã và đang áp dụng các
văn bản pháp luật sau:
 Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày
14/6/2005 (thay thế Bộ luật Dân sự ban hành ngày 28/10/1995).
 Luật các Tổ chức tín dụng ban hành ngày 12/12/1997, và luật các Tổ chức tín
dụng được sửa đổi bổ sung năm 2004.
 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền
vay của TCTD. Thông tư số 07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 của NHNN
hướng dẫn thực hiện nghị định số 178/1999/NĐ-CP của chính phủ. Đây là
những văn bản pháp luật cơ bản nhất quy định về bảo đảm tiền vay trong đó quy
định rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch bảo đảm, các nguyên
tắc về đảm bảo tiền vay, các tài sản tham gia làm tài sản bảo đảm...
 Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi bổ sung nghị định
178/1999/NĐ-CP. Trong nghị định số 85/2002/NĐ-CP việc định giá quyền sử
dụng đất được quy định rõ ràng hơn, tạo quyền chủ động hơn cho các TCTD.

Theo đó, việc định giá đất do khách hàng và ngân hàng tự thỏa thuận theo giá
chuyển nhượng thực tế tại địa phương tại thời điểm thế chấp, và tổ chức tín dụng
tự xem xét quyết định mức cho vay và tự chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.
 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của chính phủ về thủ tục chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế
chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của chính phủ về giao dịch bảo
đảm.
 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của chính phủ về đăng ký giao
dịch bảo đảm.
 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của NHNN về quy chế
cho vay của TCTD đối với khách hàng.
 Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Ngân hàng Nhà nước về
quy chế bảo lãnh ngân hàng (thay thế quyết định số 283/2000/QĐ - NHNN).
 Thông tư số 06/2002/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của nghị định số
165/1999/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm.
 Thông tư số 05/2005/ TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của bộ Tư pháp, bộ
Tài nguyên và môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất, bằng tài sản gắn liền với đất.
 Thông tư số 07/2003-NHNN ngày 19/5/2003 của Ngân hàng Nhà nước hướng
dẫn một số quy định về bảo đảm tiền vay của các TCTD.
 Thông tư số 10/2000/TT-NHNN ngày 31/8/2000 và thông tư liên tịch số
12/2000/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCĐT ngày 22/11/2000 hướng dẫn thực hiện
về giải pháp về bảo đảm tiền vay.
 Thông tư liên tịch số 2003/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐT ngày
23/4/2001 hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ của các
TCTD.
 Thông tư số 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 4/7/2003 hướng dẫn về trình tự
đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài

sản gắn liền với đất.
Ngoài ra còn có rất nhiều các văn bản hướng dẫn cụ thể liên quan đến hoạt động
bảo đảm tiền vay do các Ngân hàng thương mại đưa ra dựa trên những quy định của
nhà nước phù hợp với lĩnh vực hoạt động ngân hàng của mình.
2. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của đảm bảo tiền vay
2.1 Khái niệm về bảo đảm tiền vay
Trong xu thế hội nhập Quốc tế của đất nước, hệ thống ngân hàng thương mại nước
ta đang đứng trước những cơ hội phát triển, áp dụng những tiến bộ của nhân loại trên
thế giới, bên cạnh những thách thức to lớn. Để có thể tồn tại và phát triển vững mạnh
các ngân hàng trong nước phải nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt
động của mình để đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường. Nhưng môi trường cạnh
tranh càng lớn sẽ tiềm ẩn khả năng rủi ro cao, đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại. Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng, trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng
thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ
khác. Theo đó nếu như nguyên tắc hoàn trả bị vi phạm thì rủi ro tín dụng xảy ra. Đó là
khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng. Cụ thể là khách hàng không
trả, không trả đầy đủ đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Do vậy quan hệ tín dụng
thường được thể hiện bằng các hợp đồng tín dụng, trong đó đưa ra các điều khoản thi
hành, các cam kết mà hai bên tự nguyện thỏa thuận theo quy định của pháp luật. Như
vậy bảo đảm tiền vay được hình thành trên cơ sở hợp đồng tín dụng là việc ngân hàng
áp dụng các biện pháp đối với khách hàng để khoản vay có thể trở về ngân hàng một
cách an toàn và có lợi khi đến hạn.
Theo nghị định số 85/2002/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
thì “bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi
ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay”
(Điều 2.1). Như vậy thực chất của bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp để
phòng ngừa rủi ro của TCTD, theo đó TCTD đưa ra các hình thức bảo đảm thích hợp áp

dụng cho từng đối tượng khách hàng và biện pháp xử lý các bảo đảm đó nhằm hạn chế
tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
2.2 Các nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay
Khi thực hiện ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay, tổ chức tín dụng và khách hàng
cần xem xét các quy tắc áp dụng dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật để có thể
đưa ra được quyết định cho vay và vay một cách hợp lý nhất. Theo điều 4 nghị định số
178/1999/NĐ-CP của chính phủ ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức
tín dụng (sau đây gọi tắt là nghị định 178/1999/NĐ - CP) bảo đảm tiền vay thực hiện
theo các nguyên tắc:
- Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quyết định cho vay có đảm bảo bằng tài sản,
cho vay không có bảo đảm theo quy định của nghị định này và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của
các khoản vay này được Chính phủ xử lý.
- Trường hợp khách hàng vay được TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, TCTD phát hiện khách hàng vay vi phạm
cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì TCTD có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm
bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
- TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của nghị định này và
quy định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách vay hoặc bên bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
- Sau khi xử lý tài sản bảo đảm bằng tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc hoặc bên bảo
lãnh vẫn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có
trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
* Đặc trưng của bảo đảm tiền vay: Nói chung bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản
được phép giao dịch mà có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo
đảm. Trên thực tế từ góc độ của người cho vay đảm bảo tiền vay phải được thể hiện ở 3
đặc trưng sau:
- Thứ nhất: giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: bảo đảm tiền
vay không chỉ là nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc dục người

đi vay phải trợ nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị tài sản nhỏ hơn nghĩa
vụ được bảo đảm thì người đi vay dễ có động cơ không trả nợ vay. Nghĩa vụ được bảo
đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể các lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận lãi và các lọai phí không thuộc phạm vi bảo đảm được thực hiện
nghĩa vụ. Do đó việc yêu cầu giá trị của bảo đảm phải thích hợp là cần thiết để khách
hàng có trách nhiệm hơn trong nghĩa vụ trả nợ.
- Thứ hai: tài sản đảm bảo phải có sẵn thị trường tiêu thụ. Mức độ thanh khoản của tài
sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Tài sản có độ thanh khoản cao sẽ mất ít
chi phí khi xử lý hơn và có thể thu hồi được vốn nhanh hơn, do đó dễ dàng được ngân
hàng chấp nhận làm đảm bảo. Ngược lại mức độ thanh khỏan thấp tức tài sản khó bán,
khả năng thu hồi vốn thấp sẽ khó được ngân hàng chấp nhận làm đảm bảo vay vốn. Tài
sản có mức độ thanh khoản trung bình có thể được ngân hàng chấp nhận nhưng phải
tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý.
- Thứ ba: tài sản bảo đảm phải có đầy đủ cơ sơ pháp lý để người cho vay có quyền ưu
tiên về xử lý tài sản. Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: Tài sản phải thuộc
sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bão lãnh và được pháp luật cho phép
giao dịch, đồng thời phải có đủ các cơ sỏ pháp lý để ngân hàng – chủ thể cho vay được
quyền ưu tiên xử lý tài sản khi người đi vay không thanh toán đúng hạn.
Như vậy dựa trên những nguyên tắc và đặc trưng của bảo đảm tiền vay để tổ chức
tín dụng xem xét trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo đảm tiền vay, đồng
thời cũng giúp khách hàng vay vốn biết được những quyền lợi và nghĩa vụ của mình để
thực hiện hợp đồng đúng như đã cam kết. Tuy nhiên trong từng hình thức bảo đảm tiền
vay khác nhau mà ngân hàng có những quy định riêng phù hợp. Chúng ta sẽ xem xét
các hình thức bảo đảm tiền vay cụ thể dưới đây mà các ngân hàng thường sử dụng.
3. Hình thức của bảo đảm tiền vay
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín
chấp (Điều 318). Đây là những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong mọi lĩnh
vực mà pháp luật Việt Nam quy định, nhưng trong hoạt động ngân hàng, các biện pháp
bảo đảm ngân hàng thường áp dụng đó là cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, tín

chấp. Theo điều 3 nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo đảm tiền vay
của TCTD bao gồm:
- Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
+ Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
- Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản.
+ Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản.
+ Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ
định của Chính phủ.
+ Tổ chức tín dụng cho cá nhân hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp
của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội.
Như vậy, theo quy định TCTD có thể áp dụng rất nhiều các biện pháp bảo đảm
tiền vay. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp nào đối với mỗi khoản vay lại phụ
thuộc vào các yếu tố như kinh nghiệm của TCTD trong việc đánh giá rủi ro đối với
khoản vay và đánh giá tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ của khách hàng... Tất cả các
biện pháp bảo đảm đều có ý nghĩa nếu nó dẫn đến hệ quả là khách hàng trả nợ đầy
đủ đúng hạn theo như cam kết trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay.
3.1 Các biện pháp cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hình thức bảo đảm mà ngân hàng áp dụng đối
với khách hàng vay vốn, trong đó ngân hàng đóng vai trò chủ nợ được hưởng một
số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng là con nợ. Như vậy, việc bảo
đảm tiền vay bằng tài sản giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro mất hoàn toàn vốn,
đồng thời đem lại cho ngân hàng quyền ưu tiên khi phát mại tài sản so với các chủ
nợ khác của khách hàng nếu khách hàng vay không có khả năng trả được các khoản
nợ đã vay. Thực tiễn cho thấy, không phải bất kỳ tài sản nào cũng có thể dùng làm
bảo đảm tiền vay được ngân hàng chấp nhận. Theo pháp luật về bảo đảm tiền vay,
tài sản dùng để bảo đảm tiền vay phải đáp ứng đủ bốn điều kiện sau:

• Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay hoặc bên bảo
lãnh.
Để chứng minh được điều kiện này, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải xuất
trình Giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế chấp
quyền sử dùng đất, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với
tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước quản lý, sử dụng, doanh
nghiệp phải chứng minh được quyền được cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản đó.
• Thuộc tài sản được phép giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch được hiều là các tài sản mà pháp luật cho phép hoặc
không cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển nhượng, chuyển đổi, cầm cố thế chấp, bảo
lãnh và các giao dịch khác.
• Không có tranh chấp tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm.
Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về việc
tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý tài sản đó
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình.
• Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định.
Đối với các tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm, thì TCTD yêu cầu
khách hàng xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm.
 Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay, có các hình thức
bảo đảm tiền vay bằng tài sản dưới đây.
3.1.1 Bảo đảm bằng tài sản cầm cố.
a. Khái niệm cầm cố.
Theo Bộ luật Dân sự Việt Nam ban hành ngày 14/6/2005 (sau đây gọi tắt là bộ
luật Dân sự năm 2005), điều 326 định nghĩa: “cầm cố là việc một bên (sau đây gọi là
bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, bản chất của
cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó trong quan hệ
tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách hàng (bên vay vốn) dùng
tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng (bên cho vay) để đảm bảo

thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
b. Đối tượng của cầm cố.
Trước đây, trên cơ sở của Bộ luật Dân sự năm 1995, tại điều 2 của Quy chế thế
chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số
217/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN Việt Nam ngày 17/8/1996 quy định: “cầm cố
tài sản vay vốn ngân hàng là việc bên vay vốn có nghĩa vụ giao tài sản là động sản
thuộc sở hữu của mình cho TCTD để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bao gồm nợ
gốc, lãi và tiền nộp phạt nếu có, nếu tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và
giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu cho bên nhận cầm cố giữ”. Theo đó, đối tượng
của cầm cố chỉ có thể là động sản, mở rộng hơn so với các quy định trước đây là
quyền tài sản (trừ quyền sử dụng đất là đối tượng của thế chấp). Nhưng điều 15 nghị
định 165/1999/ NĐ-CP về giao dịch bảo đảm lại cho phép bên cầm cố có thể được
giữ các tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Như vậy cùng một vấn đề văn bản
dưới luật lại mâu thuẫn với văn bản luật, do đó gây rất nhiều khó khăn cho ngân hàng
và khách hàng khi thực hiện việc vay vốn có tài sản cầm cố. Sự ra đời của Bộ luật
Dân sự năm 2005, đã tháo gỡ được vướng mắc trên để tạo điều kiện cho các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân vay vốn ngân hàng phát triển sản xuất. Bộ luật Dân sự năm 2005
đã không định nghĩa bất động sản như Bộ luật Dân sự năm 1995 mà quy định mang
tính liệt kê, theo đó xác định một số tài sản là bất động sản (như nhà ở, công trình
xây dựng, đất đai..) và dùng phương pháp loại trừ để định nghĩa động sản. Đồng thời
phân biệt tài sản cầm cố với tài sản thế chấp bằng tiêu chí dịch chuyển hoặc không
dịch chuyển tài sản từ bên có nghĩa vụ sang bên có quyền khi bên có nghĩa vụ dùng
tài sản đó để cầm cố, thế chấp; chứ không phân biệt bằng động sản hay bất động sản
như quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995.
Tài sản cầm cố, theo thông tư số 07/2003/TT-NHNN của NHNN Việt Nam
ngày 19/5/2003 về hướng dẫn một số quy định về bảo đảm tiền vay của các TCTD
bao gồm:
• Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu
dùng, kim khí quý, đá quý, và các vật liệu có giá trị khác.

• Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán bằn tiền Việt Nam và ngoại tệ.
• Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương
phiếu, các giấy tờ trị giá được bằng tiền. Riêng đối với cổ phiếu của TCTD phát
hành, khách hàng vay không được cầm cố ở chính TCTD đó.
• Quyền đòi tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền
đòi nợ, quyền được nhận só tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ
hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.
• Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
• Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật.
• Tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định
của Bộ luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố.
• Tài sản hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời điểm ký kết
giao dịch cầm cố và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố như hoa lợi, lợi tức,
tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận.
• Các tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố, nếu
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài sản cầm cố được
bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
c. Chủ thể trong quan hệ cầm cố.
Chủ thể trong quan hệ cầm cố là chủ thể của quan hệ tín dụng. Quan hệ cầm cố
có thể coi là quan hệ phụ, hình thành khi phát sinh quan hệ tín dụng. Theo thông tư
số 07/2003/TT-NHNN và Điều 1.4 của nghị định 85/2002/NĐ-CP của chính phủ
ngày 25/10/2002 về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 178/1999/NĐ-CP
về bảo đảm tiền vay của các TCTD (sau đây gọi tắt là nghị định số 85/2002/NĐ-CP)
quy định chủ thể tham gia vào quan hệ cầm cố gồm:
- Bên cầm cố (bên phải dùng tài sản của mình giao cho bên nhận cầm cố để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ) là khách hàng vay vốn bao gồm các cá nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, pháp nhân Việt Nam và

cá nhân, pháp nhân nước ngoài có đủ điều kiện vay vốn tại TCTD theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Bên nhận cầm cố là các TCTD bao gồm TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần,
TCTD hợp tác (ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng),
TCTD liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tai Việt Nam, TCTD
phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
d. Nội dung của quan hệ cầm cố.
Nội dung của quan hệ cầm cố trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, là việc bên cầm
cố (bên đi vay) giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố (TCTD cho
vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trong bất kỳ mối quan hệ nào các bên
cũng có quyền và nghĩa vụ nhất định. Theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và thông tư số
07/2003/TT-NHNN, các chủ thể trong quan hệ cầm cố có các quyền và nghĩa vụ
sau:
* Quyền của khách hàng vay vốn (Điều 331, Bộ luật Dân sự năm 2005):
- Yêu cầu TCTD (bên nhận cầm cố) đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố, nếu do
sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị.
- Được bán tài sản cầm cố nếu được TCTD đồng ý.
- Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thỏa thuận với
TCTD.
- Yêu cầu TCTD giữ tài sản cầm cố trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo
đảm bằng cầm cố chấm dứt.
- Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố.
* Nghĩa vụ của khách hàng vay (Điều 330, Bộ luật Dân sự năm 2005):
- Giao tài sản cầm cố cho TCTD theo đúng thỏa thuận.
- Báo cho TCTD về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố nếu có, trong
trường hợp không thông báo thì TCTD có quyền hủy hợp đồng cầm cố tài sản và
yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người
thứ ba đối với tài sản cầm cố.
- Thanh toán cho TCTD biết chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.

* Quyền của tổ chức tín dụng (Điều 333, Bộ luật Dân sự năm 2005):
- Được yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài
sản đó.

×