Tải bản đầy đủ (.doc) (214 trang)

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẨM PHÁN PHẦN CHUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.38 KB, 214 trang )

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG CÁN BỘ TÒA ÁN

CHƯƠNG TRÌNH
ĐÀO TẠO THẨM PHÁN

PHẦN CHUNG
(Tập bài giảng cho Khóa 1)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN - 2014



TẬP THỂ TÁC GIẢ
1. TS. Nguyễn Văn Thuân
- Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ
Tòa án nhân dân tối cao

Bài 5

2. Ths. Lê Hồng Quang
- Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Bài 3

3. Ths. Nguyễn Thanh Mận
- Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Tòa án

Bài 6


4. Ths. Thái Bá Diệp
Trưởng phòng, Vụ Tổ chức - Cán bộ
Tòa án nhân dân tối cao

Bài 2

5. Nguyễn Thế Trung
- Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng
ban thường trực Ban Dân vận Trung ương

Bài 4

6. Ngô Cường
- Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế
Tòa án nhân dân tối cao

Bài 1



BÀI 1:
LỊCH SỬ NGÀNH TÒA ÁN VIỆT NAM VÀ
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
I. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM
1945 ĐẾN NĂM 1958
1. Toà án trong những ngày đầu thành lập Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa
1.1. Thiết lập Toà án Quân sự
Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự. Theo Điều 1

của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm: ở Bắc
bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ
tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho. Uỷ
ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể
đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Toà án quân sự ở những nơi
trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả
những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền
độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp
phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân
luật (Điều 2). Toà án quân sự xét xử tất cả các hành vi phạm tội
được thực hiện trước hoặc sau ngày 19-8-1945. Ngoài ra, đối với
những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo Sắc
lệnh này, thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ “có thể
cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành lập một Toà án quân sự
có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc
định trong Sắc lệnh này” (Điều 7).
1.2. Thiết lập Toà án đặc biệt
Ngày 23-11-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 64 thiết lập một
ban Thanh tra đặc biệt. Điều 1 Sắc lệnh quy định Ban Thanh tra
đặc biệt có nhiệm vụ “đi giám sát tất cả các công việc và các nhân
viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Điều 3
5


quy định: “Sẽ thiết lập ngay tại Hà Nội một Toà án đặc biệt để xử
những nhân viên của các Uỷ ban nhân dân hay các cơ quan của
Chính phủ do ban Thanh tra truy tố”. Toà án đặc biệt do Chủ tịch
Chính phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ
trưởng Bộ Tư pháp làm Hội thẩm (Điều 4). Toà án đặc biệt có toàn
quyền định, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi

hành trong 48 giờ (Điều 6). Ban Thanh tra và Toà án đặc biệt được
lập ra chỉ có tính chất tạm thời (Điều 7).
2. Toà án trong giai đoạn từ năm 1946 đến trước công
cuộc Cải cách tư pháp năm 1950
2.1. Thiết lập hệ thống Toà án thường
2.1.1. Ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Toà
án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định
một cách đầy đủ việc tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt
các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy định
tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán; cụ thể
như sau:
a. Theo quy định ở tiết thứ nhất thì Ban tư pháp xã được
thành lập ở cơ sở cấp xã “ở mỗi xã, ban thường vụ của Uỷ ban
hành chính cấp xã gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký (theo
Điều 75 Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức chính quyền
nhân dân) sẽ kiêm cả việc tư pháp. Cả ba uỷ viên trong Ban tư
pháp ấy đều có quyền quyết nghị. Thư ký giữ công việc lục sự, lưu
trữ công văn, làm các giấy tờ, biên bản... Mỗi tuần lễ Ban tư pháp
phải họp ít nhất là một lần, họp công khai ở trụ sở của Uỷ ban”
(Điều 2). Ban tư pháp xã có quyền: hoà giải tất cả các việc dân sự
và thương sự; phạt các việc vi cảnh từ năm hào đến sáu đồng bạc
(nếu người bị phạt không chịu nộp phạt, thì Ban tư pháp lập biên
bản và đệ lên Toà án sơ cấp xét xử); thi hành những mệnh lệnh của
các Thẩm phán cấp trên. Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu
tài sản của ai và cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ ai, trừ khi
6


có trát nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội quả

tang (Điều 3 và Điều 4).
b. Theo quy định ở tiết thứ hai thì “ở mỗi quận (phủ, huyện,
châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận. Nếu cần một
Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt
được”. Toà án sơ cấp gồm có: một Thẩm phán, một lục sự và một
hay nhiều Thư ký giúp việc. Mỗi tuần lễ, ít ra phải có hai phiên toà
công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm
phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản, án từ.
Ngoài ra Sắc lệnh còn quy định “ở các thành phố và thị xã, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt Toà án sơ cấp tổ chức theo các
nguyên tắc nói trên” (Điều 11).
c. Theo quy định ở tiết thứ ba thì “ở mỗi tỉnh và ở các thành
phố Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn - Chợ Lớn có một Toà án đệ
nhị cấp. Quản hạt Toà án này theo giới hạn của địa hạt tỉnh hay
thành phố. Nếu cần, một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có
thể thay đổi quản hạt được”. Đồng thời tuỳ theo sự quan trọng, các
Toà án đệ nhị cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Ngoài các thành phố kể trên, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp có thể đặt thêm Toà án đệ nhị cấp ở các thành
phố khác.
Về tổ chức trong một Toà án, thì Toà án đệ nhị cấp gồm có
một Chánh án, một biện lý, một dự thẩm, một chánh lục sự và
những thư ký giúp việc. Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc, có thể tăng
thêm số Thẩm phán và lục sự, hay để một Thẩm phán kiêm nhiều
chức vụ.
Về xét xử thì mỗi tuần lễ, ít ra cũng phải có hai phiên toà
công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Khi xét xử về dân sự,
thương sự, Chánh án xử một mình. Khi xét xử các việc tiểu hình,
phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến (Điều 17).
Theo quy định tại Điều 20, thì các trường hợp không thể cùng làm

phụ thẩm trong một Toà án bao gồm “các người thân thuộc hay
thích thuộc với nhau cho đến bậc thứ ba, các người thân thuộc hay
thích thuộc với các Thẩm phán hoặc với các người đương sự cho
7


đến bậc thứ ba” và “không ai có thể làm phụ thẩm trong một việc
mà mình là người đương sự hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng
hay làm giám định” (Điều 21). Sắc lệnh quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của phụ thẩm nhân dân rất cụ thể, họ “có bổn
phận là lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc
rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vì nể, vì sợ một thế
lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực ai hay làm hại ai.
Các phụ thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong lúc
nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà thượng thẩm phạt từ sáu
tháng đến hai năm tù”. Trước khi mở phiên toà các phụ thẩm nhân
dân không được đọc hồ sơ, nhưng tại phiên toà họ có quyền yêu
cầu ông Chánh án (Chủ toạ phiên toà) hỏi thêm các bị cáo và cho
biết các tài liệu có trong hồ sơ. Ông Chánh án phải hỏi ý kiến các
phụ thẩm về tội trạng của các bị cáo và về hình phạt rồi tự mình
quyết định. Tuy nhiên, về các vấn đề thủ tục, tạm tha và các vấn
đề khác liên quan đến hộ hay thương mại, ông Chánh án không
phải hỏi ý kiến các phụ thẩm nhân dân.
Đối với các việc đại hình, khi xét xử Toà đệ nhị cấp gồm có
năm người cùng ngồi xử và đều có quyền quyết nghị, đó là: Chánh
án Toà đệ nhị cấp ngồi ghế Chánh án (Chủ toạ phiên toà); hai
Thẩm phán làm phụ thẩm chuyên môn được chọn trong các Thẩm
phán của Toà án đệ nhị cấp hay của Toà án sơ cấp trong quản hạt,
do ông Chánh nhất Toà thượng thẩm chỉ định mỗi năm một lần.
Tuy nhiên, trong năm, ông Chánh nhất có thể quyết định việc thay

đổi hai vị phụ thẩm chuyên môn; hai phụ thẩm nhân dân được
chọn bằng cách rút thăm ở danh sách các phụ thẩm nhân dân do
Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm.
Theo quy định tại Điều 34, thì Toà đại hình xử sơ thẩm, ông
biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà thượng
thẩm.
d. Theo quy định ở tiết thứ tư thì ở mỗi kỳ, có một Toà
thượng thẩm; Toà thượng thẩm ở Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội; Toà
thượng thẩm Trung Kỳ đặt ở Thuận Hoá (Huế); Toà thượng thẩm
Nam Kỳ đặt ở Sài Gòn. Mỗi Toà thượng thẩm gồm có một Chánh
8


nhất, các Chánh án phòng, các hội thẩm, một chưởng lý, một hay
nhiều phó chưởng lý, những tham lý, một chánh lục sự, các lục sự,
những tham tá và thư ký. Về cách tổ chức các Toà thượng thẩm và
số các Chánh án, hội thẩm, phó chưởng lý, tham lý và lục sự ở mỗi
Toà do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. “Khi phúc lại các án tiểu
hình và đại hình, ngoài ông Chánh án và hai hội thẩm, phải có
thêm hai phụ thẩm nhân dân có quyền quyết nghị và chọn bằng
cách rút thăm... (Điều 38). Danh sách các phụ thẩm nhân dân tại
Toà thượng thẩm có từ 50 đến 100 người chọn trong nhân dân kỳ
và sẽ do Uỷ ban hành chính kỳ lập vào hồi đầu năm sau khi hỏi ý
kiến ông chưởng lý. Trong việc đại hình, nếu trước Toà thượng
thẩm một bị cáo không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một
luật sư để bào chữa cho bị cáo.
đ. Về tổ chức các ngạch Thẩm phán gồm có hai ngạch
Thẩm phán: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp
làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở các Toà
đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp chia

ra làm hai chức vị: các Thẩm phán xử án do ông Chánh nhất Toà
thượng thẩm đứng đầu và các Thẩm phán của công tố viện (Thẩm
phán buộc tội) do ông chưởng lý đứng đầu. Khi xét xử, Thẩm
phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình. Không
quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công
việc xử án.
Trong Sắc lệnh này cũng quy định một cách rất cụ thể về
tiêu chuẩn của Thẩm phán, cách tuyển chọn và đối tượng được
tuyển chọn (bao gồm cả các quan lại cũ đã từng làm Thẩm phán,
các lục sự Toà nam án đệ nhị cấp cũ), quyền và nghĩa vụ của Thẩm
phán, kỷ luật đối với Thẩm phán và y phục của Thẩm phán.
2.1.2. Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong
những ngày đầu mới giành chính quyền, việc xây dựng hệ thống
Toà án theo Sắc lệnh 13 ngày 24-01-1946 chưa thực hiện được
đầy đủ ở khắp các địa phương trong toàn quốc. Do đó, Chính
phủ đã ra Sắc lệnh số 22-B ngày 18-12-1946 để quyền trợ cấp tư
pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi chưa đặt được Toà án
biệt lập. Theo Sắc lệnh này, ở nơi nào chưa thiết lập được Toà
9


án thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc tư pháp; Uỷ ban tỉnh có
quyền hạn như Toà án đệ nhị cấp; Uỷ ban phủ, huyện, châu có
quyền hạn như Toà án sơ cấp.
Ở tỉnh đương sự có quyền chống án lên Toà thượng thẩm
(Điều 4) khi phúc thẩm, Toà thượng thẩm chỉ xét về nội dung vụ
kiện, còn về hình thức, nếu có chỗ sai lầm mà không hại đến nội
dung vụ án thì Toà thượng thẩm có thể tuỳ nghi công nhận hiệu
lực của bản án bị kháng cáo như không có sự sai lầm ấy (Điều 5).
2.1.3. Tiếp theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946, Chính

phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn định thẩm
quyền các Toà án và sự phân công giữa các thành viên trong Toà
án. Chương thứ nhất của Sắc lệnh quy định cụ thể về thẩm
quyền các Toà án.
2.1.4. Như vậy, từ sau ngày 13-9-1945 đến sau ngày 24-011946, ở nước ta đã có 3 loại Toà án: Toà án Quân sự, Toà án đặc
biệt, Toà án thường. Nhằm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
giữa các Toà án này, chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 43 ngày
3-4-1946 lập ở mỗi kỳ “một hội đồng phân định thẩm quyền giữa
Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường”. Sắc lệnh này
cũng đã quy định cách thức giải quyết việc tranh chấp thẩm quyền
giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường.
2.1.5. Ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Tại
Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan tư pháp”,
theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị
cấp và sơ cấp (Điều 63). Các viên Thẩm phán đều do chính phủ bổ
nhiệm (Điều 64). Về các nguyên tắc xét xử gồm có: “Trong khi xử
việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến
nếu là việc tiểu hình hoặc cùng quyết nghị với Thẩm phán nếu là
việc đại hình (Điều 65); Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng
nói của mình trước Toà án (Điều 66); các phiên Toà án đều phải
công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67); trong khi xét
10


xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác
không được can thiệp (Điều 69)”.
Tuy nhiên, thực dân pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa,

chiến tranh nổ ra, toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống Toà án
chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946.
Để đáp ứng công tác xét xử trong hoàn cảnh kháng chiến
ngày 29-12-1946 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông lệnh số 12/NVCT về tổ chức Tư pháp trong tình thế đặc biệt. Bản Thông lệnh
này cùng với bản Thông lệnh số 6/NV-CT ngày 28-12-1946 về tổ
chức chính quyền trong thời kỳ đặc biệt là những cơ sở pháp lý để
tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án trong thời kỳ kháng
chiến được linh hoạt. Toàn văn Thông lệnh số 12/NV-CT như sau:
“1) Ở mỗi khu, Bộ trưởng Tư pháp sẽ đặt một giám đốc tư
pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến cho Uỷ
ban bảo vệ khu. Uỷ ban này mỗi khi ra quyết định gì có liên can
đến tư pháp, bắt buộc phải hỏi ý kiến của giám đốc tư pháp. Giám
đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát của Uỷ ban bảo vệ khu và
trong trường hợp không liên lạc được với trung ương, thì giám đốc
tư pháp đặt dưới quyền điều khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.
2) Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm để thi hành quyền công tố
sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư pháp. Các biện lý và công cáo uỷ
viên đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Uỷ ban bảo vệ khu.
Các Uỷ ban bảo vệ tỉnh, huyện (phủ hay châu) và xã không có
quyền ra lệnh cho các Toà án. Ở trường hợp không liên lạc được
với nhau, thì Uỷ ban bảo vệ khu có thể tạm uỷ quyền cho Uỷ ban
bảo vệ tỉnh để ra lệnh cho biện lý và công cáo uỷ viên thuộc quản
hạt Uỷ ban bảo vệ tỉnh sau khi nghe các ông này bày tỏ ý kiến.
Khi liên lạc được thì Uỷ quyền ấy sẽ hết hiệu lực.
3) Ở mỗi khu sẽ đặt một hay nhiều Toà án Quân sự. Các bộ
trưởng Tư pháp và Nội vụ có thể uỷ quyền cho Uỷ ban bảo vệ khu
để lập các Toà án Quân sự.
4) Nếu có sự tương tranh giữa Toà án quân sự và Toà án
thường thì Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu, Chánh án Toà án quân sự
11



và giám đốc tư pháp hợp thành hội đồng phân định thẩm quyền.
Chủ tịch Hội đồng là chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu.
5) Ở các Toà án thường, nếu tính thế bắt buộc, Chánh án sau
khi thảo thuận với biện lý và Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ tỉnh, có thể
xử một mình các việc hình mà không cần có phụ thẩm nhân dân
hay chuyên môn.”
2.1.6. Căn cứ vào Thông lệnh tổ chức tư pháp trong tình
thế đặc biệt, ngày 01-01-1947, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị
định số 5-ĐB tạm đình chỉ công việc xử án của các Toà thượng
thẩm, điều thứ nhất Nghị định nêu: “Tạm đình chỉ công việc xử
án các toà Thượng thẩm Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ cho đến khi
có lệnh mới”.
Ngày 12-4-1947, Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 44-DB
“thiết lập ở khu một Hội đồng phúc án”. Nghị định nêu rõ: “Nay
thiết lập ở mỗi khu hay trong nhiều khu một Hội đồng phúc án
(Điều 1)”; Hội đồng phúc án nói trên sẽ thay thế Toà Thượng thẩm
kỳ để xét lại trong quản hạt, những việc thuộc thẩm quyền Toà
Thượng thẩm (Điều 2); thành phần Hội đồng phúc án định như
sau: Một Chánh Hội đồng; hai Hội thẩm do Bộ Tư pháp chỉ định
trong các Thẩm phán; hai Hội thẩm do Bộ Tư pháp chỉ định trong
các Thẩm phán và Giám đốc Tư pháp; một thư ký do Giám đốc Tư
pháp khu chỉ định, sẽ giữ chức lục sự; về hình sự cũng như dân sự,
sẽ xử không có công tố viên; Trong những việc đại hình và tiểu
hình, cách chỉ định phụ thẩm nhân dân sẽ theo pháp luật hiện hành
ở trước các Toà Thượng thẩm (Điều 3). Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã
ban hành Nghị định số 61 DB ngày 9-5-1947 tổ chức các Hội
đồng phúc án, quy định chi tiết thêm về quản hạt và nhiệm vụ của
Hội đồng phúc án, thủ tục thi hành (thủ tục tố tụng - chú thích của

Ban biên soạn) trước Hội đồng phúc án; các biệt lệ trong việc xét
xử các vụ án hình sự, các vụ án dân sự.
Ngày 6-3-1948 Bộ Tư pháp ra Nghị định số 11-MT (sau đó
là Nghị định số 20 MT ngày 24-5-1948 bãi bỏ Nghị định 11-MT)
quy định lập Công tố viên tại Hội đồng phúc án.
2.1.7. Ngày 26-5-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 185-SL
ấn định thẩm quyền các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp theo
12


hướng tăng thẩm quyền cho các Toà án này so với Sắc lệnh số
51 ngày 17-4-1946.
2.2. Thiết lập hệ thống Toà án binh
2.2.1. Ngày 23-8-1946 Chính phủ ra Sắc lệnh số 163 tổ chức
Toà án binh lâm thời đặt ở Hà Nội:
“Điều thứ nhất. Trong khi chờ đợi Sắc lệnh tổ chức của Toà
án binh chính thức được ban hành, nay lập một Toà án binh lâm
thời trụ sở đặt ở Hà Nội”.
Điều thứ 2. Toà án binh lâm thời có thẩm quyền xét xử:
- Các quân nhân phạm pháp bất cứ về một tội gì, trừ những
tội vi cảnh thuộc thẩm quyền các Toà án tư pháp và những
“thường tội” định ở điều thứ 49 Sắc lệnh số 71 ngày 22 tháng 5
năm 1945 thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ huy quân đội;
- Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân đội,
những người làm việc trong quân đội như công nhân, chủ thầu, khi
phạm pháp có liên can đến quân đội;
- Những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở trong
các đồn trại, quân y viện, nhà đề lao binh hoặc một cơ quan nào
của quân đội, hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến quân đội.
*Ngày 16-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 19-SL Tổ chức

các Toà án binh khu trên toàn cõi Việt Nam (trừ các Toà án binh
tại mặt trận):
“Điều thứ 2. - Ở mỗi khu sẽ đặt một Toà án binh. Nhưng nếu
xét cần, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thể ký Nghị định lập thêm
trong khu một hay nhiều Toà án binh ở những nơi quân đội đóng.
Điều thứ 3. - Mỗi Toà án binh gồm có:
- Một Chánh án và hai Hội thẩm ngồi xử;
- Một Uỷ viên Chính phủ ngồi buộc tội;
- Một lục sự chép các điều tranh luận, giữ án từ và giấy má.
Chánh án là khu trưởng hoặc một quân nhân từ cấp trung
đoàn trưởng trở lên, do khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng chuẩn y.
13


Hội thẩm thứ nhất là một Thẩm phán đệ nhị cấp ngạch tư
pháp do Giám đốc tư pháp khu đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ hai là một quân nhân thuộc cấp chỉ huy do khu
trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Uỷ viên Chính phủ là chính trị viên khu hoặc một quân nhân
thuộc cấp chính trị viên trung đoàn trở lên do chính trị viên khu đề
cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Lục sự là một quân nhân do khu trưởng chỉ định.
Đối với mỗi chức vụ kể trên, sẽ cử một nhân viên chính
thức và một nhân viên dự khuyết thay nhân viên chính thức khi
mắc bận.
*Ngày 25-4-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 45 quy định tổ
chức và hoạt động của Toà án binh tối cao.
Điều 1: “Nay đặt một Toà án binh tối cao, quản hạt là toàn

cõi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
*Ngày 5-7-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 59 thành lập Toà
án binh khu trung ương.
Điều 1: “Nay đặt tại Bộ Quốc phòng một Toà án binh gọi
là: Toà án binh khu trung ương”.
2.2.2. Để kịp thời trừng trị những tội phạm xảy ra tại những
nơi đang có chiến sự, liên bộ Quốc phòng- Tư pháp đã ra Thông
lệnh liên bộ số 11-NV-CT ngày 28-12-1946, số 32-TL-ĐB ngày
16-2-1947 và số 60- TT ngày 23-5-1947 về thiết lập Toà án binh
tại mặt trận.
2.2.3. Như vậy, trước ngày toàn quốc kháng chiến (19-121946), trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chỉ có một Toà án binh lâm
thời đặt tại Hà Nội được tổ chức theo Sắc lệnh 163 ngày 23-81946. Nhưng sau đó chính phủ đã ban hành 3 sắc lệnh (Sắc lệnh
163 tự hết hiệu lực) và thông lệnh tổ chức các Toà án binh mới:
- Sắc lệnh số 19- SL ngày 14-2-1947 tổ chức các Toà án binh
khu trên toàn cõi Việt Nam;
14


- Sắc lệnh số 45- SL ngày 25-4-1947 Tổ chức Toà án binh
tối cao;
- Sắc lệnh số 59- SL ngày 5-7-1947 tổ chức Toà án binh khu
Trung ương.
- Thông lệnh liên bộ Quốc phòng - Tư pháp số 60-TL ngày
28-5-1947 tổ chức Toà án binh tại mặt trận.
Thông tư số 64-TT ngày 06-8-1947 về phân biệt Tòa án binh
và Tòa án thường nêu rõ:
a) Toà án Quân sự có quyền xử tất cả mọi người phạm tội có
tính cách chính trị, chỉ trừ khi người phạm tội là binh sĩ thì để
thuộc quyền Toà án binh xử.
b) Toà án binh thì có quyền xét xử tất cả quân nhân phạm

pháp dù họ phạm vào các tội có tính cách nhà binh hay các tội
định trong hình luật chung.
Nên để ý trong sắc lệnh nói rõ là quân nhân nghĩa là những
người tuyển theo quy tắc quân đội Quốc gia. Còn các đội cảnh vệ,
công an.v.v... thuộc hành chính thì vẫn thuộc quyền Tòa án tư pháp
hoặc Tòa án quân sự tùy từng trường hợp.
2.3. Hoàn thiện hệ thống Toà án Quân sự
Ngày 14-02-1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 21 về tổ
chức các Toà án Quân sự, Sắc lệnh này bãi bỏ các Sắc lệnh về Toà
án Quân sự: Sắc lệnh ngày 13-9-1945, ngày 26-9-1945, ngày 29-91945, ngày 28-12-1945, ngày 15-01-1946. Để hướng dẫn thi hành
Sắc lệnh số 21 nêu trên, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 82
ngày 25-02-1946. Ngày 8-02-1948, bộ Tư pháp ra Thông tư số
28/HC định thẩm quyền của Toà án Quân sự. Tiếp đó, Chính phủ
ban hành Sắc lệnh số 170-SL ngày 14-4-1948 tổ chức lại các Toà
án Quân sự.
2.4. Giải thể Toà án đặc biệt
Ngày 18-12-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 138-B/SL thành
lập Ban Thanh tra Chính phủ. Điều 1 Sắc lệnh quy định: “Nay bãi
bỏ Sắc lệnh số 64 ngày 23-11-1945 thành lập Ban Thanh tra đặc
15


biệt”. Như vậy, Sắc lệnh này đã giải thể Toà án đặc biệt được
thành lập theo Sắc lệnh 64 ngày 23-11-1945.
3. Toà án trong giai đoạn cải cách tư pháp 1950 đến 1958
Như vậy, sau gần 5 năm kể từ ngày giành được chính quyền,
chúng ta đã bãi bỏ bộ máy tư pháp của chế độ chính quyền, thực
dân, phong kiến, thiết lập những Toà án mới, trong đó có Toà án
Quân sự và Toà án binh. Tuy nhiên, các Toà án thường còn mang
nặng những ảnh hưởng của nền tư pháp cũ. Thực hiện một cách

máy móc “Toà án tư pháp sẽ độc lập với các Cơ quan hành chính”
(Điều 42 Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946). “Vậy các Toà án trong
thời kỳ kháng chiến vẫn độc lập với Uỷ ban hành chính. Uỷ ban
này không có quyền kiểm soát, điều khiển các Toà án. Các Thẩm
phán không phải báo cáo với Uỷ ban hành chính” (Thông tư số
693 ngày 25-9-1947 của Bộ Tư pháp).
Mặc dầu Sắc lệnh số 47 ngày 10-10-1945 cho giữ tạm thời
các luật lệ cũ đã chỉ rõ ràng “những điều khoản trong luật lệ cũ
được tạm giữ lại do Sắc lệnh này chỉ thi hành khi nào không trái
với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hoà”. Và Thông tư số 34-NV-TP/CT ngày 7-01-1947 của liên
Bộ Nội vụ - Tư pháp cũng đã chỉ rõ: “Các Thẩm phán phải làm
việc với tinh thần chiến đấu, nêu cao gương hy sinh và xung
phong cho dân chúng theo, nên hết sức gần dân, săn sóc đến dân,
đi đến dân chứ không đợi dân đi đến mình”.
Nhưng nhiều Thẩm phán trong các Toà án thường lúc đó
đã không chú ý vận dụng các chính sách của Chính phủ vào
công tác xét xử và đã hiểu “độc lập” là “biệt lập”, tức là Toà án
không chịu sự lãnh đạo của Đảng, không cần phải phối hợp với
Uỷ ban hành chính, cơ quan công an và đoàn thể nhân dân trong
việc bảo vệ chế độ. Tình hình này đã là một trở ngại cho việc
phát huy sức mạnh của Nhà nước, cho nên Đảng ta đã lần lượt
tiến hành một cuộc đấu tranh về tư tưởng và sau đó là cải cách
bộ máy của Toà án.
*Trước hết là Sắc lệnh số 85 ngày 22-5-1950.
16


+ Về tổ chức: - Bộ máy tư pháp được dân chủ hoá các Toà án
sơ cấp, đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân

dân tỉnh. Hội đồng phúc án nay là Toà Phúc thẩm, phụ thẩm nhân
dân nay gọi là hội thẩm nhân dân.
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để xét
xử việc hình và hộ, Toà án nhân dân huyện và tỉnh gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm nhân dân. Toà Phúc thẩm gồm hai Thẩm
phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem
hồ sơ và biểu quyết.
- Thành lập hội đồng hòa giải tại mỗi huyện nhằm mục đích
giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hòa giải tất cả các việc
hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Toà án
tỉnh mới có thẩm quyền. Biên bản hoà giải thành có chấp hành
lực; đây là một điểm tiến bộ so với thể lệ cũ. Khi các đương sự
đã thoả thuận trước hội đồng hòa giải thì việc hoà giải được đem
thi hành ngay.
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
+ Về thẩm quyền:
- Tăng thẩm quyền cho ban tư pháp xã về việc phạt vi cảnh
để làm cho một số việc ít quan trọng về mặt trị an sẽ được giải
quyết mau chóng ngay tại xã.
- Giao cho các Toà án nhân dân huyện quyền ấn định các
phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền
Toà án nhân dân huyện để tránh cho đương sự khỏi phải tốn phí đi
lên Toà án tỉnh và những việc cấp bách có thể được giải quyết mau
chóng hơn.
+ Về tố tụng: Thủ tục tố tụng được hợp lý và giản dị hơn.
Cùng trong năm 1950, ngày 5-6 Chủ tịch Chính phủ ra Sắc
lệnh số 103-SL quy định “Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp
có nhiệm vụ lãnh đạo và điều khiển các ngành chuyên môn cấp
tương đương trong đó có ngành Tư pháp bao gồm cả Công tố và
Toà án” (Điều 1).

Với yêu cầu là dân chủ hoá và tăng cường các Toà án, Sắc
lệnh số 158-SL ngày 17-11-1950 đã quy định đưa cán bộ công
17


nông có thành tích và có kinh nghiệm vào làm Thẩm phán mà
không đòi hỏi phải có bằng cấp về luật học. Sắc luật này đã tạo
điều kiện cho việc nhanh chóng tăng cường cho các Toà án nhân
dân một đội ngũ cán bộ có quan điểm lập trường cách mạng trong
công tác, làm nòng cốt để xây dựng các Toà án trở thành những
Toà án thực sự của nhân dân.
Trên cơ sở các Toà án được tăng cường cán bộ cách mạng,
Sắc lệnh số 156-SL ngày 22-11-1950 đã quy định việc thành lập
Toà án nhân dân liên khu và giao cho các Toà án đó quyền xử cả
những tội phản cách mạng. Từ đó, các Toà án Quân sự đã được
nhập vào hệ thống Toà án thường và các cán bộ của Toà án Quân
sự lại được tăng cường cho Toà án nhân dân liên khu.
*Để “tranh chấp chính quyền với địch trong vùng bị chiếm,
thi hành luật pháp chính quyền nhân dân trong vùng bị chiếm để
bảo vệ nhân dân và trừng trị nguỵ quyền”, Chính phủ đã ban hành
Sắc lệnh số 157-SL ngày 17-11-1950 tổ chức Toà án nhân dân
vùng tạm bị chiếm đóng, mà theo đó trong những vùng tạm bị địch
chiếm đóng có thể thiết lập một Toà án gọi là Toà án nhân dân
vùng tạm bị chiếm. Quản hạt Toà án này có thể là một tỉnh, một số
huyện trong một tỉnh, hay một số xã trong một huyện hay trong
nhiều huyện (Điều 1). Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm có thẩm
quyền của Toà án nhân dân huyện, Toà án nhân dân tỉnh và Toà án
quân sự. Các bản án đều được thi hành ngay. Về việc binh và hộ,
Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của
Toà án nhân dân tỉnh. Nếu quản hạt của Toà án nhân dân vùng bị

tạm chiếm là một tỉnh thì trực thuộc quyền điều khiển của Toà án
nhân dân liên khu hoặc Toà phúc thẩm. Về việc xét xử các việc
thuộc thẩm quyền Toà án quân sự, Toà án nhân dân vùng tạm bị
chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án quân sự liên khu và Uỷ
ban kháng chiến hành chính liên khu. Nếu có Toà án nhân dân liên
khu thì thuộc quyền điều khiển của Toà án này.
*Thực hiện nhiệm vụ phản phong của cách mạng dân tộc dân
chủ, Sắc lệnh số 149 ngày 12-4-1953 đã quy định về chính sách
ruộng đất để tiến hành việc phát động quân chủng cải cách ruộng
đất. Để bảo đảm việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự
18


xã hội, củng cố chính quyền nhân dân, đẩy kháng chiến đến thắng
lợi. Sắc lệnh số 150 ngày 12-4-1953 đã thành lập các Toà án nhân
dân đặc biệt ở những vùng phát động quần chúng để cải cách
ruộng đất. Nhiệm vụ của các Toà án nhân dân đặc biệt là: Trừng trị
những kẻ phản cách mạng, cường hào gian ác, những kẻ chống lại
hoặc phá hoại chính sách cải cách ruộng đất; xét xử những vụ
tranh chấp về tài sản, ruộng đất có liên quan đến các vụ án trên;
xét xử những vụ tranh cãi về phân định thành phần giai cấp.
Các Toà án nhân dân đặc biệt không xử những vụ hình và hộ
thuộc Toà án nhân dân thường.
Những vụ án phản cách mạng phức tạp và phải xét xử lâu dài
thì do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu quyết định chuyển
sang Toà án nhân dân thường xét xử.
Các Thẩm phán của các Toà án nhân dân đặc biệt chủ yếu là
trung, bần, cố nông trong đó có cán bộ chính trị làm chủ chốt. Một
nửa số Thẩm phán do Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh lựa
chọn, một nửa nữa do Nông hội huyện cử ra. Khi làm xong nhiệm

vụ thì các Toà án nhân dân đặc biệt giải tán.
II. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 1959 ĐẾN NĂM 1980
1. Tại Hội nghị lần thứ 14 (tháng 11 năm 1958) Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã chủ trương tăng cường Nhà nước dân
chủ nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính
quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở. Trong tình hình chung đó
bộ máy nhà nước nói chung, Toà án nhân dân nói riêng được tăng
cường và cải cách thêm một bước mới. Tại khoá họp lần thứ tám,
tháng 4-1958 Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối
cao và Viện công tố nhân dân trung ương, tách hệ thống Toà án
nhân dân và Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp.
Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức
Chính quyền địa phương. Theo luật này, đơn vị hành chính cấp
khu ở đồng bằng và trung du được bãi bỏ. Do đó, ngày 14-8-1959
chính phủ đã ra Nghị định số 300- TTg tổ chức lại các Toà án nhân
19


dân phúc thẩm, sáp nhập 6 Toà án nhân dân phúc thẩm thành 3
Toà án nhân dân phúc thẩm: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh.
Quản hạt của TAND phúc thẩm Hà Nội gồm thành phố Hà
Nội và các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hoà Bình, Hà Nam, Nam
Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.
Quản hạt của TAND phúc thẩm Hải Phòng gồm thành phố
Hải Phòng, khu Hồng Quảng và các tỉnh Hải Ninh, Kiến An.
Quản hạt của TAND phúc thẩm Vinh gồm các tỉnh Thanh
Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh.
Thông tư số 92- TC của liên Ngành Bộ Tư pháp, Toà án nhân

dân tối cao ngày 11-11-1959 giải thích và quy định cụ thể về
nhiệm vụ và quyền hạn của các Toà án nhân dân phúc thẩm Hà
Nội, Hải Phòng và Vinh, nêu rõ:
“Sau khi bỏ các khu hành chính ở đồng bằng và trung du,
hướng tổ chức của các Toà án là: dần dần xây dựng TAND huyện
thành TAND sơ thẩm, xây dựng TAND tỉnh thành TAND phúc
thẩm để đi tới bỏ các TAND phúc thẩm khu. Trong khi chưa xây
dựng được các TAND huyện thành TAND sơ thẩm, TAND tỉnh
chưa trở thành TAND phúc thẩm thì vẫn cần phải giữ lại cấp
TAND phúc thẩm hiện nay. Tuy nhiên để làm cho tổ chức của các
TAND phúc thẩm được gọi là hợp lý, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Nghị định dồn 6 TAND phúc thẩm cũ ở đồng bằng và trung du
thành 3 TAND phúc thẩm... TAND phúc thẩm chuyên trách công
việc xét án không phụ trách công việc lãnh đạo về chương trình kế
hoạch, quản lý cán bộ, hướng dẫn về đường lối.
... Trong việc xử án, thì chủ yếu là công việc xử phúc thẩm.
Nhiệm vụ chỉ đạo công tác xét xử của các TAND tỉnh và
thành phố nay tập trung vào TAND tối cao...
...
a) TAND phúc thẩm chỉ đạo công việc xét xử của các TAND
cấp dưới thông qua án lệ của mình…”
20


Ngày 20-10-1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định
số 381-TTg quy định nhiệm vụ và quyền hạn của TAND tối cao,
cụ thể như sau:
“Điều 1. - Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.
Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án
nhân dân địa phương và Toà án Quân sự các cấp.

Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Toà án nhân dân tối cao là:
1. Xử sơ thẩm, chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy
định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ
án mà đặc biệt Viện Công tố trung ương hoặc Toà án nhân dân tối
cao thấy phải do Toà án nhân dân tối cao xét xử.
2. Xử phúc thẩm chung thẩm những vụ án do Toà án cấp
dưới xử sơ thẩm trong các trường hợp có kháng nghị của Cơ quan
công tố hoặc của đương sự.
3. Xử lại hoặc chỉ thị cho Toà án cấp dưới xử lại những vụ án
đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm.
4. Duyệt lại các án tử hình.
Ngoài ra Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ:
1. Nghiên cứu đường lối chính sách xét xử.
2. Nghiên cứu các đạo luật về hình sự và dân sự, hướng dẫn
các Toà án áp dụng pháp luật, đường lối chính sách, thi hành các
thủ tục hình sự và dân sự, vạch chương trình công tác, kiểm tra
công tác xét xử, tổng kết kinh nghiệm công tác xét xử của Toà án
các cấp.
3. Quản lý cán bộ và biên chế Ngành Toà án theo chế độ
phân cấp quản lý cán bộ và biên chế.
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ
chức và hoạt động của Toà án nhân dân, ngày 14-7-1960, Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất đã
thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Theo Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 thì
“các Toà án nhân dân gồm có: Toà án nhân dân tối cao, các Toà
21


án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự” và “Các Toà án

nhân dân địa phương gồm có: Toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, Toà
án nhân dân ở các khu vực tự trị”. “Ở các khu vực tự trị, tổ chức
các Toà án nhân dân địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu
vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp và những
nguyên tắc tổ chức Toà án nhân dân trong luật này” (Điều 2).
Điều đáng lưu ý là trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960
chỉ quy định có tính chất nguyên tắc về thẩm quyền của các Toà
án nhân dân các cấp, mà không quy định cụ thể về tổ chức của
Toà án nhân dân mỗi cấp. Trong đạo luật này cũng chỉ quy định
có tính chất nguyên tắc về chế độ bầu cử Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân mà cũng không quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân.
“Để kiện toàn Toà án nhân dân các cấp, tăng cường tính chất
nhân dân của tổ chức Toà án nhân dân và bảo đảm cho việc xét xử
được chính xác và đúng pháp luật” ngày 23-3-1961 Uỷ ban
thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ
chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân
dân địa phương. Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh thì “Toà
án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó Chánh
án, các Thẩm phán và Thẩm phán dự khuyết. Toà án nhân dân tối
cao có những tổ chức sau đây: Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao; các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao: các
Toà hình sự, Toà dân sự và Toà quân sự; Toà phúc thẩm của Toà án
nhân dân tối cao; Hội đồng toàn thể Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao”. Trong Pháp lệnh này cũng đã quy định một cách cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức tương ứng. Mặc dù trong cơ
cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao Pháp lệnh không quy định
cụ thể bộ máy giúp việc, nhưng theo quy định tại Điều 6 của Pháp
lệnh và thực tiễn tổ chức của Toà án nhân dân tối cao trong thời

gian này cho thấy còn có bộ máy giúp việc như Văn phòng, các
Vụ tổ chức, tổng hợp, nghiên cứu pháp luật v.v... Điều đáng lưu ý
22


là theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 và Pháp lệnh ngày
23-3-1961 nói trên thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc
hội bầu ra và bãi miễn. Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao là năm năm. Còn Phó Chánh án, Thẩm phán, Thẩm phán
dự khuyết và Uỷ viên Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị
của Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Một đặc thù theo quy định của Pháp lệnh ngày 23-3-1961
nói trên, thì “Hội đồng toàn thể Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao có nhiệm vụ duyệt lại các bản án tử hình của Toà án nhân dân
các cấp, căn cứ vào Điều 9 của Luật tổ chức Toà án nhân dân (năm
1960)” (Điều 5).
Đối với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, thì theo Luật tổ chức
Toà án nhân dân năm 1960, Pháp lệnh ngày 23-3-1961 nói trên
gồm có Chánh án, một hoặc nhiều Phó Chánh án và các Thẩm
phán. Trong cơ cấu tổ chức không chia thành các Toà chuyên trách
như Toà án nhân dân tối cao mà chỉ có Uỷ ban Thẩm phán.
“Chánh án, Phó Chánh án và các Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn. Nhiệm
kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính
tương đương là bốn năm. Uỷ viên Uỷ ban Thẩm phán của các Toà
án nhân dân nói trên do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi

miễn” (Điều 27 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960).
Ngoài chức năng, nhiệm vụ xét xử “Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương có nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp ở địa phương, huấn
luyện thư ký cho Toà án địa phương, huấn luyện cán bộ tư pháp
cho thị trấn và xã, và tổ chức việc tuyên truyền giáo dục pháp luật
trong nhân dân” (Điều 9 Pháp lệnh ngày 23-3-1961).
Theo Luật và Pháp lệnh nói trên thì “Toà án nhân dân
huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương
23


đương gồm có Chánh án và Thẩm phán, nếu cần thiết thì có Phó
Chánh án”. Toà án này có thẩm quyền: “a) Hoà giải những việc
tranh chấp về dân sự; b) Phân xử những việc hình nhỏ không phải
mở phiên toà; c) Sơ thẩm những vụ án dân sự; sơ thẩm những vụ
án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống”. Ngoài ra, còn có
nhiệm vụ xây dựng tổ chức tư pháp và hướng dẫn công tác hoà
giải ở các thị trấn và xã, tuyên truyền giáo dục pháp luật trong
nhân dân.
Về quản lý các TAND địa phương, Điều 23 Luật Tổ chức
TAND quy định: “... Bộ máy làm việc và biên chế của các TAND
địa phương các cấp do TANDTC hướng dẫn thực hiện theo quy
định chung về bộ máy làm việc và biên chế của Cơ quan Nhà
nước” và Điều 14 Pháp lệnh ngày 23-3-1961 quy định: “Tổ chức
cụ thể của bộ máy làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân
dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn thực hiện theo những quy định chung về bộ máy làm
việc và biên chế của các cơ quan nhà nước. Tổng biên chế của các
Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân dân

tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Căn cứ vào Điều 95 Hiến pháp năm 1959 và Điều 2 Luật tổ
chức Toà án nhân dân năm 1960, ngày 9-4-1963 Hội đồng nhân
dân khu tự trị Tây Bắc đã ban hành Điều lệ “quy định cụ thể về tổ
chức của Toà án nhân dân các cấp trong khu tự trị Tây Bắc”. Điều
lệ này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tại Quyết
định số 185-TVQH ngày 9-7-1963. Theo Điều 1 của bản Điều lệ
này thì “các Toà án nhân dân trong khu tự trị Tây Bắc gồm có: Toà
án nhân dân khu; các Toà án nhân dân tỉnh; các Toà án nhân dân
thị xã và huyện”. Tại khu tự trị Việt Bắc, Hội đồng nhân dân khu
tự trị Việt Bắc cũng đã ban hành Điều lệ “quy định cụ thể về tổ
chức của Toà án nhân dân các cấp trong khu tự trị Việt Bắc”. Điều
lệ này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tại Quyết
định số 157-NQ-TVQH ngày 2-3-1963. Theo Điều 1 của bản Điều
lệ này thì “các Toà án nhân dân trong khu tự trị Việt Bắc gồm có:
24


Toà án nhân dân khu; các Toà án nhân dân tỉnh; các Toà án nhân
dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã và huyện”.
- Ngày 27-12-1975 Quốc hội khoá V kỳ họp thứ hai đã ra
Nghị quyết “về việc cải tiến các đơn vị hành chính”, bỏ cấp khu tự
trị trong hệ thống các đơn vị hành chính. Do đó, TAND khu tự trị
Việt Bắc và TAND khu tự trị Tây Bắc được giải thể.
Căn cứ vào Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua ngày
31-12-1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, ngày 212-1961 Bộ Tổng tham mưu ra Quyết định số 165 quy định tạm
thời tổ chức biên chế của ngành Toà án quân sự như sau: “Hệ
thống Toà án quân sự bao gồm: Toà án quân sự trung ương và các
Toà án quân sự ở cấp quân khu, quân binh chủng, sư đoàn trực
thuộc Bộ và tương đương. Về quân số Toà án quân sự trung ương

có 15 người, Toà án quân sự quân khu, quân binh chủng và tương
đương có từ 7 đến 9 người, Toà án quân sự sư đoàn trực thuộc Bộ
và tương đương có 6 người”.
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất
nhưng chưa thống nhất về mặt Nhà nước, ngày 15-5-1976 Chính
phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban
hành sắc luật số 01/SL-76 quy định về Tổ chức TAND và Tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân. Tiếp đó, Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra quyết định số 29-QĐ-76 ngày
27-5-1976 thành lập Toà án nhân dân đặc biệt để xét xử các tên tư
bản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối thị
trường. Và sau đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Quyết định
số 181-NQ/QHK 6 ngày 23-01-1978 giao cho Toà án nhân dân đặc
biệt xét xử những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về trật tự xã hội
xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh như: Giết người, cướp của tống
tiền, bắt cóc, đốt nhà, tổ chức lưu manh trộm cắp, hiếp dâm. (Toà
án nhân dân đặc biệt đã được giải thể theo Nghị quyết số 720NQ-HĐND 7 ngày 01-4-1986 của Hội đồng Nhà nước).
Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 4 năm 1976, nước ta thống
nhất về mặt Nhà nước và lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trong khi chưa có Hiến pháp mới, Quốc hội quyết định
Hiến pháp 1959 được áp dụng cho cả nước và giao cho Hội đồng
25


×