Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

ha thu o

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.98 KB, 8 trang )

Hà thủ ô trắng (nam)
Hà thủ ô trắng, Dây sữa bò -
Streptocaulon juventas
Merr., thuộc họ Thiên lý -
Asclepiadaceae
.
Mô tả: Dây leo bằng thân quấn dài 2-5m. Vỏ thân màu nâu đỏ, có nhiều lông mịn. Lá mọc đối,
phiến lá nguyên, hình bầu dục, chóp lá nhọn, gốc lá tròn, dài 4-14cm, rộng 2-9cm. Hoa nhỏ, màu
lục vàng nhạt, mọc thành xim ở nách lá. Quả gồm 2 đại xếp ngang ra hai bên trông như đôi
sừng bò. Hạt dẹt mang một mào lông mịn. Toàn cây có nhựa mủ màu trắng như sữa.
Bộ phận dùng: Rễ củ -
Radix Streptocauli Juventatis

Nơi sống và thu hái: Cây của miền Đông Dương, mọc hoang rất nhiều ở vùng đất cao, đồi gò,
rừng thứ sinh, đặc biệt là trên các nương rẫy đã bỏ hoang hoặc mới khai hoang. Cây tái sinh
khoẻ. Thu hái rễ củ quanh năm. Rễ đào về, rửa sạch, thái lát dày khoảng 3cm, phơi hay sấy khô.
Có thể ngâm nước vo gạo một đêm trước khi phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học: Rễ củ chứa tinh bột, nhựa đắng, tanin pyrogalic và một chất có phản
ứng alcaloid có tinh thể chưa xác định.
Tính vị, tác dụng: Hà thủ ô trắng có vị đắng chát, tính mát; có tác dụng bổ máu; bổ gan và
thận.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa thiếu máu, thận gan yếu, thần kinh suy
nhược, ăn ngủ kém, sốt rét kinh niên, phong thấp tê bại, đau nhức gân xương, kinh nguyệt
không đều, bạch đới, ỉa ra máu, trừ nọc rắn cắn, bạc tóc sớm, bệnh ngoài da mẩn ngứa. Có nơi
còn dùng củ và thân lá của cây để chữa cảm sốt, cảm nắng, sốt rét. Có người còn dùng dây sắc
lấy nước cho phụ nữ sinh đẻ thiếu sữa uống cho có thêm sữa. Cây lá cũng được dùng đun nước
tắm và rửa để chữa lở ngứa. Người ta còn dùng củ chữa cơn đau dạ dày.
Cách dùng:
Thường dùng mỗi ngày 12-20g dạng thuốc sắc. Có thể nấu cao hay ngâm rượu
uống. Cành lá dùng với liều lượng nhiều hơn. Người ta cũng thường chế Hà thủ ô trắng cũng như
Hà thủ ô đỏ.


Đơn thuốc: Bồi dưỡng cơ thể, tăng cường sức lực, chữa đau lưng mỏi gối; giúp ăn ngủ được:
Đậu đen 50g, Đậu đỏ 10g, Đỗ trọng dây 50g, Ráng bay 15g, Củ sen 50g, Bố chính sâm 15g, Hà
thủ ô trắng (sao muối) 50g, Phục linh 15g. Các vị hiệp chung, tán làm viên hoàn, mỗi lần uống
3g, ngày uống 3 lần. (Kinh nghiệm ở An Giang).
Kiêng kỵ: Không dùng Hà thủ ô trắng đối với người hư yếu, tạng lạnh, đồng thời kiêng ăn tiết
canh lợn, cá, lươn, rau cải, hành tỏi.
hông tin chung
Tên thường gọi: Tam thất gừng
Tên khác: Tam thất gừng, Ngải năm ông, Khương tam thất
Tên tiếng Anh: zingiber gingseng
Tên khoa học: Stahlianthus thorelii Gagnep.
Thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô tả
Cây thảo không có thân, có thân rễ dày bao bởi những vết của lá đã rụng thường phân
nhánh mang nhiều củ nhỏ bằng quả trứng chim xếp thành chuỗi, có rễ con dạng sợi. Lá
mọc rời, 3-5 cái, có cuống dài, xuất hiện sau khi cây ra hoa. Phiến lá thuôn dài, chóp nhọn,
màu lục, lục pha nâu hay nâu tím, mép nguyên, lượn sóng. Cụm hoa ở gốc, nằm ở bên lá;
cuống hoa dài 6-8cm, ở phía cuối có một lá bắc hình ống, bao lấy hoa. Hoa 4-5 cái, có lá
bắc và lá bắc con dạng màng. Tràng hoa màu trắng, họng vàng. Bầu nhẵn, chia 3 ô.
Tam thất gừng - Stahlianthus thorelii Ảnh Phuong.bvn
Nơi sống và thu hái
Loài của Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào. Ở nước ta, cây mọc hoang ở chỗ ẩm mát, ven
bờ suối, hốc khe. Thường được trồng lấy củ làm thuốc. Mặt ngoài của củ có vằn ngang
màu đen, trong có chất bột trắng ngà như màu của củ Tam thất.
Tính vị, tác dụng
Vị cay, hơi đắng, tính ấm; có tác dụng tán ứ tiêu thũng, hoạt huyết chỉ huyết, hành khí chỉ
thống.
Công dụng, chỉ định và phối hợp
Thường được dùng chữa: 1. Ðòn ngã sưng đau, phong thấp đau nhức xương; 2. Thổ huyết,
chảy máu cam, kinh nguyệt quá nhiều; 3. Trùng độc cắn và rắn cắn. Cũng dùng chữa hành

kinh chậm kỳ, máu xấu lởn vởn không tươi, ăn kém tiêu, nôn đầy. Liều dùng 4-8g, sắc
nước hoặc ngâm rượu uống. Dùng ngoài lấy củ tán bột rắc, đắp.
Đơn thuốc:
Chữa kinh nguyệt không đều, loạn kỳ, vòng kinh dài ngắn không chừng, người gầy da
xanh sạm, hoặc sau khi sinh rong huyết kéo dài, kém ăn, chóng mặt, đau đầu mỏi mệt. Tam
thất gừng, Hồi đầu, hai vị bằng nhau, tán nhỏ, dùng mỗi lần 2-3g, ngày uống 2-3 lần, với
nước chín, vào khoảng giữa buổi, và trước khi đi ngủ. Uống 5-7 ngày liền (Lê Trần Ðức).
Ghi chú: ở Trung Quốc, người ta sử dụng một loài khác gọi là Tam thất khương -
Stahlianthus involucratus (King ex Baker) Craib., mà rễ có vị cay, tính hàn; có tác dụng
hoạt huyết tán ứ, tiêu sưng giảm đau, dùng trị thổ huyết, ói ra máu, kinh nguyệt quá nhiều
và đòn ngã tổn thương.
Giới thiệu cây thuốc Tam thất
Cập nhật ngày 19/10/2009 lúc 3:25:00 PM. Số lượt đọc: 443.
Trong Đông y, tam thất còn được gọi là "kim bất hoán", "kim", tức là vàng, bất hoán, là
không đổi được; có nghĩa là vị thuốc tam thất rất quý, đến mức có vàng cũng không thể đổi
được
Thông tin chung
Tên thường gọi: Tam thất
Tên khác: Sâm tam thất, Kim bất hoán
Tên tiếng Anh:
Tên khoa học: Panax pseudo-ginseng Wall.
Tên đồng nghĩa: Panax shin-seng Nees var. nepalensis Nees.; Aralia pseudoginseng Benth.
ex C.B. Clarke; A. quinquefolia Decne. & Planch. var. pseudoginseng (Wall.) Burk.; A.
quinquefolia var. nothoginseng Burk; A. quinquefolia var. elegatior Burk.
Thuộc họ Nhân sâm - Araliaceae
Mô tả
Cây thảo sống nhiều năm, thân cao 30-50cm. Lá kép
chân vịt, mọc vòng 3-4 cái một; cuống lá chung dài
3-6cm, mang 3-7 lá chét hình mác dài, mép khía
răng, có lông cứng ở gân trên cả hai mặt; cuống lá

chét dài 0,6-1,2cm. Cụm hoa tán đơn ở ngọn thân;
hoa màu lục vàng nhạt với 5 lá đài, 5 cánh hoa, 5 nhị và bầu dưới 2 ô. Quả mọng hình cầu
dẹt, khi chín có màu đỏ; hạt hình cầu, màu trắng.
Ra hoa tháng 5-7, quả chín tháng 8-10.
Tam thất - Panax pseudo-gingseng
Hình theo lrc-hueuni.edu.vn
Bộ phận dùng
Rễ củ - Radix Panacis Pseudo-Ginseng; thường gọi là Tam thất.
Nơi sống và thu hái
Loài của Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc hoang và được trồng
nhiều từ lâu ở Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng tại các vùng núi cao lạnh 1200-1500m. Người
ta chọn hạt giống tốt ở những cây đã mọc 3-4 năm, gieo hạt tháng 10-11, tháng 2-3 cây
mọc, nhưng phải chờ 1 năm sau, vào tháng 1-2 mới bứng cây con đi trồng chính thức. Sau
4-5 năm đến 7 năm thì mới thu hoạch được rễ củ có phẩm chất tốt. Rửa sạch bùn đất, cắt
bỏ rễ con, phơi nắng cho héo rồi lăn và vò, làm từ 3-5 lần như vậy rồi phơi cho đến khô,
cũng có khi chỉ cần sấy khô.
Thành phần hóa học
Củ Tam thất chứa các saponin triterpen: saponin A, B, C, D, acid oleanolic, đường khử, 16
acid amin như phenylalanin, leucin, isoleucin, valin, prolin, histidin, lysin, cystein, các chất
vô cơ như Fe, Ca.
Tam thất cũng chứa các hợp chất giống như nhân sâm. Các bộ phận của cây như rễ con, lá,
hoa tam thất đều chứa các hợp chất saponosid nhóm dammaran. Ngoài ra còn phải kể đến
các thành phần có giá trị khác như các acid amin, các chất polyacetylen và panaxytriol...
Tính vị, tác dụng
Vị ngọt, hơi đắng, tính ôn; có tác dụng chỉ huyết, phá huyết tán ứ, tiêu thũng định thống và
tư bổ cường tráng.
Tam thất có tác dụng tăng lực rất tốt, tác dụng này giống với tác dụng của nhân sâm; rút
ngắn thời gian đông máu; tiêu máu ứ và tăng lưu lượng máu ở động mạch vành của động
vật thí nghiệm. Làm tăng sức co bóp cơ tim ở liều thấp; tác dụng kích dục, đối với chức
năng nội tiết sinh dục nữ, thể hiện ở các hoạt tính oestrogen và hướng sinh dục; giãn mạch

ngoại vi và không ảnh hưởng đến huyết áp và hệ thần kinh trung ương; điều hòa miễn dịch;
kích thích tâm thần, chống trầm uất
Công dụng, chỉ định và phối hợp
Trong thời gian gần đây, Tam thất cũng được dùng như Nhân sâm điều trị ung thư cũng có
kết quả.
Trong Đông y, tam thất được xếp vào loại đầu vị của nhóm chỉ huyết (cầm máu). Khi
nhấm có vị đắng nhẹ, hơi ngọt và để lại dư vị đặc trưng của nhân sâm. Để dễ phân biệt,
tiền nhân có câu nói về vị của tam thất: "Tiền khổ, hậu cam, hậu cam cam". Nghĩa là khi
nhấm, lúc đầu thấy vị đắng, sau thấy ngọt và càng về sau càng thấy ngọt. Trên thực tế, tam
thất được sử dụng rất đa dạng. Như ta đã biết, tam thất thuộc vào dòng nhân sâm nên có tác
dụng bổ, song lại có phần khác với nhân sâm là tam thất lại theo hướng tác dụng vào phần
âm huyết là chính. Tuy nhiên từ trước đến nay, tam thất vẫn là vị thuốc được sử dụng
chính để cầm máu, tiêu máu cục và bổ máu. Cầm máu vẫn là tác dụng được ưu tiên của
tam thất. Với 3 tác dụng trên, đối tượng được quan tâm sử dụng nhiều nhất của tam thất
vẫn là phụ nữ sau khi sinh, vì thuốc có tác dụng chữa chảy máu, máu tụ và thiếu máu. Để
tăng thêm ý nghĩa bổ, tam thất thường được sử dụng dưới dạng tần gà. Tam thất được dùng
để cầm máu khi xuất huyết bên trong như rong kinh, băng huyết, chảy máu cam, ho ra
máu, thổ huyết, trĩ xuất huyết, đái ra máu, lỵ ra máu, băng huyết, rong kinh, sinh xong máu
hôi ra không hết, mắt đỏ sưng đau, rắn độc cắn. Rễ ngâm rượu trị vết thương do đâm
chém, đòn ngã tổn thương... hoặc thiếu máu gây hoa mắt, chóng mặt, da dẻ xanh xao... Có
thể sử dụng dưới dạng uống (thuốc hãm, bột thuốc). Với chảy máu bên ngoài như chấn
thương, bị thương chảy máu có thể dùng bột tam thất rắc vào vết thương rồi băng lại.
Tam thất có hiệu quả tăng nhanh quá trình phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân suy nhược;
thuốc chế từ củ Tam thất dùng để hồi lại sức của những người đã trải qua bệnh nặng, nhất
là đối với phụ nữ sau khi sinh đẻ bị yếu; Tam thất còn làm tăng nội tiết sinh dục, trị vô
sinh. Liều dùng 4-8g dạng bột, sắc hay cao lỏng, dùng ngoài lấy củ tươi giã đắp hoặc lấy
bột rắc.
Cần chú ý thêm rằng, đối với trường hợp làm tiêu máu tụ, chỉ nên sử dụng tam thất khi
triệu chứng xuất huyết mới xảy ra. Ví dụ xuất huyết tiền phòng ở mắt, dùng tam thất lúc
này rất tốt. Nếu trong mạch máu hoặc trong tim đã có các cục máu đông, không nên dùng

tam thất nữa. Nếu dùng, cục máu này sẽ là trung tâm để kết tụ, làm cho cục máu to dần lên,
ảnh hưởng đến sự lưu thông của mạch máu, đôi khi gây ra đột quỵ. Ngày nay, tam thất còn
được dùng để trị các bệnh u xơ, u cục..., cho kết quả khá tốt, tuy nhiên không phải là tất
cả. Ngoài ra còn dùng tam thất kết hợp với một số vị thuốc khác, như đan sâm để trị bệnh
đau thắt ngực do xơ vữa động mạch vành, hoặc lưu lượng huyết quản giảm, hoặc sau tai
biến mạch máu não...
Tránh nhầm lẫn với các loài có tên Tam thất
Do tam thất có nhiều tác dụng tốt nên trên thực tế, người ta đã dùng nhiều vị thuốc "giả
danh" tam thất. Do vậy, khi sử dụng vị thuốc quý này, cần biết những vị thuốc thường
được dùng dưới tên gọi là tam thất, song không có những tác dụng như vị tam thất đã giới
thiệu.
Tam thất gừng
Tên khoa học: Stahlianthus thorelii Gagnep., họ Gừng Zingiberaceae.
Tên khác: Khương tam thất
Cây này có hình thái thực vật giống cây nghệ, lá có mùi nghệ, được trồng nhiều ở Ba Vì. Ở
mỗi gốc nhổ lên có rất nhiều củ nhỏ, có hình tròn dẹt. Trên thị trường đôi khi người ta
đánh bóng vỏ rễ bằng một lớp màu đen, khi nhấm có vị đắng, mùi nghệ. Nhiều người đã
mua nhầm.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×