Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN dạy hội thoại trong môn tiếng việt lớp 5 ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.65 KB, 16 trang )

më ®Çu
I. Lí do chọn đề tài:
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp là hoạt động bình thường của mọi người.
Trong giao tiếp, hội thoại chiếm tỉ lệ thời gian rất lớn, nếu thống kê, có lẽ hội
thoại chiếm đến 70 - 80% thời gian con người sử dụng ngôn ngữ trong một ngày.
Nhiều việc đạt kết quả hay thất bại phụ thuộc vào kinh nghiệm tham gia hội
thoại của từng người. Ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong hội thoại. Giáo sư
Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ
biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ
khác…”
Trong văn chương, hội thoại cũng chiếm vị trí quan trọng. Các nhân vật
trò chuyện, trao đổi với nhau tạo nên nhiều cuộc hội thoại khác nhau trong dòng
diễn biến của cốt truyện. Các cuộc hội thoại góp phần bộc lộ tính cách nhân vật,
bộc lộ mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển của tình tiết truyện, của các tính cách
nhận vật.
Hội thoại có vị trí quan trọng như thế trong đời sống và trong văn học
nhưng một thời gian dài nó không được quan tâm nghiện cứu, không được đưa
vào giảng dạy trong nhà trường; người ta cứ nghĩ rằng, trẻ dùng được tiếng mẹ
đẻ thì đương nhiên đã biết nói và nghe, đã biết hội thoại. Đây là một quan niệm
phiến diện. Việc đưa hội thoại vào nhà trường đã tạo ra những thay đổi quan
trọng trong nội dung cũng như trong phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại
ngữ. Việc chú ý đến dạy hội thoại trong nhà trường giúp học sinh giao tiếp ngày
càng linh hoạt sinh động.
Xuất phát từ mục tiêu trên mà nội dung dạy tiếng Việt ở tiểu học đã chú
trọng đến dạy phát triển lời nói cho học sinh thông qua nội dung dạy hội thoại.
Lần đầu tiên, chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học đưa hội thoại thành một nội
dung học tập. Các chương trình này quy định các kĩ năng cần rèn luyện trong
phần nội dung chương trình và mức độ cần đạt được trong phần chuẩn kiến thức
và kĩ năng.
Mặc dù hội thoại đã được đưa thành một nội dung học tập trong chương
trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, chương trình tiểu học 2000 đã triển khai được


gần 10 năm, nhưng để hiểu rõ hơn về hội thoại và thực hiện giảng dạy các bài
học có nội dung hội thoại còn là một khó khăn đối với giáo viên. Qua thực tế
giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm, tôi chọn nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài:
“Dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 5 ở tiểu học ”.


NI DUNG
I. Cơ sở lí luận của đề tài

1. Hi thoi:
1.Hi thoi l hot ng giao tip bng li dng núi gia cỏc nhõn vt
giao tip nhm trao i cỏc ni dung miờu t v liờn kt cỏc nhõn vt theo ớch
c t ra.
( Hu Chõu - Bựi Minh Toỏn. i cng ngụn ng hc, tp 1. NXB
Giỏo dc - H Ni).
Hi thoi l cuc giao tip bng li ( dng núi hay dng vit ) ti thiu
gia hai nhõn vt v mt vn nhm t ớch ó t ra.
(Nguyn Trớ. Mt s vn dy hi thoi cho hc sinh tiu hc. NXB
Giỏo dc 2008)
2. Ngụn ng:
Hi thoi l quỏ trỡnh s dng ngụn ng lm cụng c giao lu gia ngi
vi ngi. cú th s dng ngụn ng t hiu qu cao trong hi thoi, ngi
tham gia hi thoi cn chỳ ý n nhng vn nh: c im ca ngụn ng núi,
ng vc v ngụn ng cỏ nhõn.
2.1. c im ca ngụn ng núi:
Ngụn ng cú hai dng l ngụn ng vit v ngụn ng núi. Hai dng ca
ngụn ng cú nhiu c im chung (cựng dung chung kho t vng, h thng cỏc
quy tc ng phỏp v phong cỏch, cựng chu s chi phi ca cỏc c im v
truyn thng v vn hoỏ dõn tc), nhng mi dng ngụn ng li cú nhng c
im riờng khỏc nhau.

3. Cu trỳc ca hi thoi:
n v c bn ca hi thoi l cuc thoi. Cuc thoi li c xem nh s
hp thnh t cỏc n v nh hn nh on thoi, cp thoi, tham thoi, hnh vi
ngụn ng.
tiu hc ch s dng cỏc n v: cuc thoi, on thoi v cp thoi.
1.Cuc thoi:
L n v ln nht ca hi thoi, l sn phm ca tỡnh hung hi thoi.
Cuc thoi gii quyt vn t ra trong tỡnh hung hi thoi.
* Cỏc tiờu chớ nhn din mt cuc thoi:
-Nhõn vt hi thoi.
- Tớnh thng nht v thi gian v a im
- V ti din ngụn
- V ranh gii ca cuc thoi.


Mô hình điển hình của một cuộc thoại gồm 3 loại đoạn thoại: đoạn thoại
mở đầu, các đoạn thoại phát triển nội dung hội thoại (tham thoại) và đoạn thoại
kết thúc. Tuy nhiên, những cuộc thoại không điển hình có thể thiếu một loại đoạn
thoại nào đó.
2. Đoạn thoại:
Được xây dựng trên cơ sở xác lập các cặp thoại liên kết chặt chẽ với nhau
về nội dung (chủ đề) về tính duy nhất của đích.
Đoạn thoại ngắn nhất chỉ gồm một cặp thoại, đoạn thoại lớn nhất không thể hạn
định số cặp thoại.
3. Cặp thoại:
Một cặp thoại tối thiểu chỉ gồm một lời trao (lời dẫn nhập) và một lời đáp
(lời hồi đáp) (Cặp thoại điển hình )
Ví dụ:
- Bé Gioan nói: Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này được không ạ?
Pi-e lấy chuỗi ngọc đưa cho cô bé.

4. Các yếu tố kèm lời và phi lời:
Bên cạnh phương tiện chủ yếu để tham gia hội thoại là lời nói, con người
còn có thể sử dụng các yếu tố kèm lời và phi lời.
+ Các yếu tố kèm lời:
Là các yếu tố gắn liền với lời nói, đi kèm cùng với lời nói như ngữ điệu,
trọng âm, cường độ, độ dài, đỉnh giọng…
Các yếu tố kèm lời có vai trò biểu nghĩa rất rõ, đặc biệt là biểu nghĩa ngữ
dụng.
VD: Trong câu chuyện Người ăn xin, yếu tố kèm lời là yếu tố “ông nói
bằng giọng khản đặc”
+ Yếu tố phi lời:
Là những yếu tố không thuộc lời nói nhưng diễn ra song song với lời nói,
thường được dùng trong hội thoại mặt đối mặt. Như: cử chỉ, vẻ mặt, ánh mắt, tư
thế cơ thể, sự thay đổi khoảng cách không gian, sự tiếp xúc của cơ thể…Các yếu
tố phi lời có thể cho người đối thoại nhiều thông tin quan trọng như giới tính,
tuổi tác, thành phần xã hội …
II. C¬ së thùc tiÔn cña ®Ò tµi
I. Dạy hội thoại ở Tiểu học để dạy giao tiếp bằng Tiếng Việt:
Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học đều nhấn mạnh dạy Tiếng Việt để
giao tiếp và trong giao tiếp.


Dạy tiếng Việt để giao tiếp liên quan đến việc xác định mục tiêu môn học.
Chương trình đặt lên hàng đầu là mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh
các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập giao tiếp trong
môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Học và luyện tập các kĩ năng sử dụng tiếng
Việt trở thành nội dung cốt lõi của môn Tiếng Việt. Dạy Tiếng Việt trong giao
tiếp liên quan đến phương pháp dạy học đặc thù của môn học. Mọi hoạt động
học tập, luyện kĩ năng và kiến thức Tiếng Việt phải được diễn ra trong môi
trường giao tiếp.

II. Nội dung dạy hội thoại ở tiểu học:
1. Dạy hội thoại:
1.1.Dạy hội thoại là dạy hoạt động nói năng:
Hoạt động trước tiên là dạy kĩ năng nghe và nói, trong đó chú trọng rèn
cho học sinh năng lực nghe hiểu, năng lực nói liền mạch theo đề tài, chủ đề nhất
định và đạt được đích giao tiếp. Quá trình rèn luyện năng lực nghe hiểu và nói
liền mạch là quá trình tiếp nhận và sản sinh lời nói.
Hoạt động nói năng là một loại hoạt động giao tiếp. Dạy hoạt động nói
năng là rèn luyện các kĩ năng giao tiếp, rèn luyện các kĩ năng nói trong các tình
huống giao tiếp cụ thể, phù hợp với các nhân tố giao tiếp, với các đề tài và chủ
đề hội thoại và đạt được đích giao tiếp, hội thoại.
1.2.Dạy hội thoại góp phần phát triển tri thức, nâng cao văn hoá ứng xử
trong xã hội
Dạy hội thoại là dạy huy động vốn kiến thức đã có và xử lí các thông tin
mới tiếp nhận trong hội thoại để tham gia hội thoại làm cho hiểu biết của con
người trở nên phong phú, sắc sảo, mở rộng và nâng cao.
Dạy hội thoại là dạy văn hoá ứng xử trong giao tiếp.
2. Nội dung dạy hội thoại trong chương trình Tiếng Việt lớp 5:
Chương trình môn tiếng Việt ở Tiểu học năm 2000 đặt mục tiêu “hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, nói, nghe,
viết) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Xuất phát tự mục tiêu trên mà nội dung dạy Tiếng Việt ở Tiểu học đã chú
trọng đến dạy phát triển lời nói cho học sinh thông qua nội dung dạy hội thoại.
Lần đầu tiên, chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học đưa hội thoại thành một
nội dung học tập. Các chương trình này quy định các kĩ năng cần rèn luyện trong
phần nội dung chương trình và mức độ cần đạt được trong phần chuẩn kiến thức
và kĩ năng.


Chương trình Tiếng Việt lớp 5 ở Tiểu học (ban hành năm 2006) quy định

các kiến thức và kĩ năng cần học và rèn luyện phục vụ cho dạy hội thoại như sau:
2.1. Nội dung chương trình:
2.1.1. Kiến thức tập làm văn:
- Sơ giản về liên kết câu, đoạn văn
- Văn miêu tả (tả cảnh, tả người)
- Văn bản thông thường: đơn từ, báo cáo thống kê, biên bản, chương trình
hoạt động.
- Một số quy tắc giao tiếp trong trao đổi, thảo luận.
2.1.2. Kĩ năng:
a. Nghe:
* Nghe và kể lại câu chuyện. Nhận xét về nhân vật trong truyện.
* Nghe - thuật lại bản tin, văn bản phổ biến khoa học.
* Nghe và tham gia ý kiến trong trao đổi thảo luận.
* Nghe - viết chính tả một đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ.
* Nghe - ghi chép một số thông tin, nhân vật, sự kiện.
b. Nói:
- Kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc; thuật lại sự việc đã chứng kiến hoặc
tham gia.
- Trao đổi, thảo luận về đề tài phù hợp với lứa tuổi; bày tỏ ý kiến, thái độ
về vấn đề đang trao đổi, thảo luận.
- Giới thiệu về lịch sử, văn hoá, các nhân vật tiêu biểu… của địa phương.
III.Thực trạng của dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 5 ở Tiểu
học Mỹ Thủy.
Qua thực tế giảng dạy, trao đổi với các thầy cô giáo trong các buổi họp
chuyên môn của trường, học hỏi kinh nghiệm các đồng nghiệp tôi nhận thấy hầu
hết các giáo viên đều cho rằng nội dung dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt ở
Tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng là một nội dung mới,
có tầm quan trọng trong việc dạy tiếng cho học sinh theo quan điểm giao tiếp.
Tuy nhiên khi giảng dạy những nội dung này, nhất là những bài tập ở phân môn
Tập làm văn, do đặc trưng của từng bài nên khi học, học sinh còn gặp một số khó

khăn trong việc tham gia vào bài học. Cụ thể sẽ nêu trong hệ thống bài tập dạy
hội thoại cho học sinh. Những bài đầu tiên về hội thoại, sách giáo khoa có đưa ra
mẫu. Ví dụ:


Bài tập: Hãy đóng vai một trong ba bạn Hùng, Quý, Nam (trong bài: Cái
gì quý nhất) nêu ý kiến tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí lẽ và dẫn chứng để
lời tranh luận thêm sức thuyết phục.
Mẫu: (Hùng): Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Lúa gạo quý như vàng. Trong
bài Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo là “Hạt vàng làng
ta”. Lúa gạo nuôi sống tất cả mọi người. Có ai trong chúng ta không ăn mà sống
được đâu?...
(Bài tập 2 trang 91 - TV5, tập 1)
Đây là bài tập đầu tiên giúp học sinh làm quen với thuyết trình, tranh luận
nên đã có gợi ý sẵn ngay sau yêu cầu của bài nhằm định hướng cho học sinh.
Điều này có ưu điểm và hạn chế nhất định:
+ Ưu điểm:
- Học sinh có thể dựa vào mẫu để đóng vai Quý hoặc Nam trình bày ý kiến
của mình một cách nhanh chóng, dễ dàng, không cần sáng tạo.
- Phát huy được khả năng giao tiếp (thuyết trình, trao đổi) cho học sinh
+ Hạn chế:
- Tiếp thu bài thụ động, theo khuôn mẫu.
- Lí lẽ và dẫn chứng các em đưa ra thường ngắn, đơn giản, xoay quanh ý
kiến của nhân vật trong bài.
- Học sinh chưa gắn được ý kiến của các nhân vật trong bài với các vấn đề
trong cuộc sống do vốn kinh nghiệm, ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Do vậy
mà ý kiến các em đưa ra thường chưa phong phú.
Qua khảo sát và quan sát thực tế giảng dạy, tôi thấy học sinh rất hào hứng
trong các tiết học có nội dung hội thoại, nhất là khi các em được trực tiếp tham
gia đóng vai, nhưng để hiểu được bài học thông qua đóng vai các em phải có vốn

ngôn ngữ, vốn hiểu biết nhất định; nhưng đây lại là hạn chế của học sinh.
III. mét sè biÖn ph¸p ®Ó n©ng cao chÊt lîng d¹y häc.
I.Tổ chức dạy hội thoại:
Một bài tập dạy hội thoại có thể thực hiện theo một trong hai hướng:
Hướng phân tích và hướng thực hành.
1.Dạy hội thoại theo hướng phân tích:
Là cách dạy đưa ra những nhận xét, đánh giá các yếu tố tạo thành tình
huống giả định nêu ra trong đề bài. Sự phân tích này làm rõ đích giao tiếp, nhân
vật giao tiếp, đề tài giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp. Từ đó đưa ra dự kiến các lời
hội thoại phù hợp nhất với đích giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp
Việc phân tích các tình huống hội thoại để chỉ ra các yếu tố của ngữ cảnh
và tìm ra lời thoại phù hợp. Lúc này thật sự cuộc thoại chưa diễn ra. Cả thầy và


trò đều phỏng đoán về diễn biến của cuộc thoại. Cách dạy này mang tính chất
duy lí, dự báo chứ chưa tạo ra cuộc hội thoại đích thực, không quan sát, đánh giá
nó trong diễn biến thực tế. Vì vậy, khi dạy cần coi phân tích tình huống giao tiếp
giả định như một biện pháp dạy mở đầu tiết học về hội thoại sau đó chuyển sang
tổ chức thực hành cuộc thoại theo đề bài, chứ không dùng duy nhất phân tích
tình huống giao tiếp giả định như một phương pháp dạy học.
2.Dạy hội thoại theo hướng thực hành:
Giao tiếp là hoạt động thực tiễn nên cách tốt nhất để nhanh chóng trau dồi
năng lực giao tiếp cho học sinh là đưa các em vào hoạt động thực hành. Dựa trên
tình huống giao tiếp giả định trong đề bài hội thoại, giáo viên tổ chức cho học
sinh thực hành tình huống đó trên lớp. Phương pháp thích hợp nhất lúc này là
đóng vai. Giáo viên chỉ cần thống nhất với cả lớp các yếu tố giao tiếp chi phối
cuộc thoại đã quy định trong đề bài, còn các hoạt động hội thoại (lời nói, nét mặt,
cử chỉ …), quá trình hội thoại diễn ra như thế nào cứ để cho học sinh đóng vai
sáng tạo và tự hoàn thiện dần qua các lần luyện tập.
Ví dụ: Bài “Luyện tập thuyết trình, tranh luận” TV5, tập 1 (trang 91)

Bài tập 2: Hãy đóng vai một trong ba bạn Hùng, Quý, Nam (trong bài Cái
gì quý nhất) nêu ý kiến tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí lẽ và dẫn chứng để
lời tranh luận thêm sức thuyết phục.
Mẫu: (Hùng) - Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Lúa gạo quý như vàng. Trong
bài Hạt gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo là “ hạt vàng làng
ta”. Lúa gạo nuôi sống tất cả mọi người. Có ai trong chúng ta không ăn mà sống
được đâu?...
( Bài tập 2 trang 91 - TV5, tập 1)
Với bài tập này, giáo viên chỉ cầ thống nhất với học sinh:
Nhân vật tham gia hội thoại: Hùng, Quý, Nam.
Đề tài hội thoại: về cái gì quý nhất đời trên đời.
Hoàn cảnh giao tiếp: ở lớp học (diễn lại cảnh các bạn trên đường đi học
về)
Tình huống hội thoại: 3 bạn tranh luận về cái gì quý nhất ở trên đời.
Đích hội thoại: Học sinh phải nêu được ý kiến tranh luận về cái gì quý
nhất (bằng cách mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để lời tranh luận thêm sức thuyết
phục)
Dạy hội thoại theo hướng thực hành có thế mạnh là đưa học sinh tắm mình
trong thực tiễn hội thoại, khai thác kinh nghiệm hội thoại có sẵn của các em để
nâng cao lên. Do đó, giúp các em thêm tự tin và mạnh dạn; đồng thời hứng thú


học tập hội thoại. Cả giáo viên và học sinh cùng bình luận, đánh giá cuộc hội
thoại như nó đã diễn ra trong thực tiễn và học được chứng kiến.
Khi dạy bài hội thoại, nếu chỉ có hoạt động thực hành hội thoại thì không
đủ, vì bên cạnh việc rèn luyện kĩ năng hội thoại còn cần nâng dần hiểu biết có
tính lí luận nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng hội thoại. Vì vậy cần kết hợp
phương thức dạy hội thoại theo hướng thực hành với sử dụng biện pháp phân
tích hội thoại khi cần thiết.
II. Phương pháp đặc trưng dạy các bài tập hội thoại cho học sinh

* Đóng vai
II.1.Mỗi bài tập dạy hội thoại tiểu học nhằm thực hiện một tình huống
giao tiếp giả định.
Dạy hội thoại theo hướng phân tích, phương pháp sử dụng chủ yếu là
phương pháp hỏi đáp (giữa thầy và trò, giữa trò và trò) để phân tích tình huống
giao tiếp giả định, phân tích cuộc hội thoại dự báo sẽ diễn ra. Còn dạy hội thoại
theo hướng thực hành chủ yếu là tập trung tạo ra cuộc hội thoại phù hợp yêu cầu
đề bài bằng phương pháp đóng vai. Học sinh sẽ tham gia đóng các nhân vật hội
thoại và thực hiện cuộc giao tiếp như đề bài quy định.
Ví dụ: Bài “ Tập viết đoạn đối thoại” TV5, tập 2 (trang 77 - 78)
1. Đọc đoạn trích sau của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người làm
chức câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:
- Ngươi có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những
câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Người ấy kêu van mãi, ông mới tha cho.
II.2. Đặc điểm của phương pháp đóng vai:
a. Đóng vai chỉ là một cách thức, một phương pháp để học sinh học tập.
Nó diễn ra ngay trong lớp học, không đòi hỏi sự trang trí phức tạp. Các đoạn
thoại kế tiếp nhau để phát triển đề tài hội thoại, thúc đẩy giao tiếp tự hình thành
và hoàn thiện ngay trong thực tiễn đóng vai, do cả thầy và trò cùng tham gia
sáng tạo.
Người tham gia đóng vai là học sinh trong tổ, trong lớp. Các em đóng vai
nhằm tập dượt theo đề bài tập hội thoại. Sản phẩm của các lần đóng vai là các
màn hội thoại hoặc giao tiếp, các sản phẩm này sẽ được các bạn trong lớp phân
tích, nhận xét, rút kinh nghiệm. Nhờ đó, các lần tập dượt hội thoại tiếp theo đạt
hiệu quả cao hơn, tốt hơn. Mục đích của việc đóng vai là hoàn thành một bài tập
hội thoại; thông qua đó hình thành kĩ năng hội thoại, tích luỹ các kinh nghiệm



ứng xử trong hội thoại để chuẩn bị cho các cuộc hội thoại đích thực các em sẽ
trải qua trong cuộc đời.
Khi đóng vai, học sinh cần chú ý không chỉ lời nói mà còn cả các động tác
hình thể, cách biểu cảm trên nét mặt, trong giọng nói.. có tác động đến hiệu quả
hội thoại.
b. Khi tổ chức đóng vai thực hiện một tình huống giao tiếp giả định, ngoài
hội thoại, giáo viên có thể dùng kết hợp thêm nhiều biện pháp để phát triển đề tài
như: phiếu bài tập, đưa ra lời giải trên giấy, hỏi - đáp, sử dụng các đồ dùng dạy
học…
c. Hội thoại trong hoạt động đóng vai được thực hiện trong mỗi giai đoạn
của cuộc giao tiếp với những chức năng nhiệm vụ khác nhau:
+ Đoạn thoại mở đầu cuộc giao tiếp: bao gồm những nghi thức lời nói
dùng trong lúc gặp gỡ, làm quen và các lời thoại giới thiệu đề tài giao tiếp.
+ Đoạn thoại triển khai đề tài giao tiếp: gồm những đoạn thoại của các
nhân vật trò chuyện và thương lượng hay trình bày, phân tích trao đổi, thảo
luận…
+ Đoạn thoại kết thúc cuộc giao tiếp: gồm những nghi thức lời nói dùng
trong lúc kết thúc cuộc giao tiếp.
III. Quy trình dạy bài hội thoại:
Cùng với văn bản, hội thoại cũng có hai phương diện cần xem xét: tiếp
nhận hội thoại và sản sinh hội thoại. Người nghe hội thoại chủ yếu là tiếp nhận
khi hội thoại đang diễn ra (cũng có trường hợp người nghe tiếp nhận cuộc thoại
khi đã kết thúc, ví dụ: nghe thông qua lời kể, lời ghi âm, …); hội thoại là sản
phẩm của nhiều người (tối thiểu là hai người).
Nhà trường có dạy tiếp nhận và sản sinh hội thoại không?
Nhà trường khi dạy đọc và nghe các văn bản tự sự, khi dạy phân tích các
ngữ liệu tự sự trong các phân môn của môn Tiếng Việt đều ít nhiều đề cập đến
tiếp nhận hội thoại.
Nhà trường thực sự đưa việc dạy Tiếng Việt vào quá trình giao tiếp,
thông qua học mà học sinh được hướng dẫn để tìm hiểu cách xác định đề tài, chủ

đề, đích của hội thoại, phân biệt vai trò các đối tượng tham gia hội thoại, luyện
tập cách mở đầu, kết thúc, cách phát triển cuộc thoại, luyện tập các kĩ năng trao
lời và đáp lời… Tức là các em được hướng dẫn để sản sinh hội thoại.
Thông qua việc học hội thoại trong nhà trường, học sinh mới thực sự học
cách sử dụng tiếng nói phong phú, đa dạng gắn với cuộc sống sôi động hàng
ngày, học tiếng nói trong giao tiếp và để giao tiếp.


Theo PGS.TS Nguyễn Trí trong cuốn “Một số vấn đề dạy hội thoại cho
học sinh tiểu học” thì dạy hội thoại có thể được tiến hành theo quy trình ba bước
chính như sau:
Bước 1: Phân tích tình huống hội thoại nêu ra trong đề bài.
Ở bước này, cần làm rõ các nội dung:
 Đề tài hội thoại.
 Nhân vật tham gia hội thoại.
 Hoàn cảnh xã hội.
 Môi trường xảy ra hội thoại.
 Đích của hội thoại.
 Vấn đề cần giải quyết qua hội thoại.
Bước 2: Phác hoạ diễn biến chính cuộc thoại bằng lời
Giáo viên cho học sinh dựa trên kết quả phân tích tình huống hội thoại,
mỗi em nêu ra cách giải quyết vấn đề đặt ra trong bài tập. Các em dùng trí tưởng
tượng kết hợp với các hiểu biết của bản thân liên quan đến đề tài để nêu ra khái
quát các diễn biến chính trong một cuộc thoại. Dựa vào diễn biến chính và nội
dung chủ yếu mà khi thực hành hội thoại học sinh sẽ tự tìm ra lời hội thoại cụ
thể.
Bước 3: Thực hành hội thoại:
Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành cuộc thoại theo tình huống được
bài tập đặt ra theo phươg pháp đóng vai.
Khi thực hành, dựa trên gợi ý những diễn biến chính của cuộc thoại, từng

nhân vật phải tìm ra lời thoại của mình.
Tổ chức thực hành tối thiểu 2 lần hoặc nhiều hơn tuỳ thuộc theo quỹ thời
gian. Sau mỗi lần thực hành, giáo viên và học sinh nhận xét về:
- Mức độ phù hợp của lời thoại với nội dung cuộc thoại, với hoàn cảnh xã
hội, với môi trường và nhân vật tham gia hội thoại
- Việc giải quyết vấn đề đặt ra trong cuộc thoại
- Đích của hội thoại
- Cách sử dụng ngữ điệu, các yếu tố phụ trợ cho lời nói…nhằm giúp cho
lần thực hành sau phát triển các kết quả đạt được, khắc phục các nhược điểm của
lần thực hành trước.
IV. Các kiểu bài tập về dạy hội thoại cho học sinh trong sách giáo
khoa Tiếng Việt 5:
Nội dung dạy hội thoại được được phân phối ở sách tiếng Việt lớp 5: Tập
thuyết trình, tranh luận, chuyển thể các câu chuyện thành cuộc thoại. Cụ thể:


1. Kiểu bài tập dạy tập thuyết trình, tranh luận:
a. Cấu trúc của bài tập:
Bài tập này đưa ra một đề tài (mẩu chuyện hoặc bài ca dao …), sau đó yêu
cầu học sinh nêu ý kiến tranh luận, thuyết trình bằng cách mở rộng lí lẽ và dẫn
chứng.
Bài tập 1: Hãy đóng vai một trong ba bạn Hùng, Quý, Nam (trong bài Cái
gì quý nhất) nêu ý kiến tranh luận bằng cách mở rộng thêm lí lẽ và dẫn chứng để
lời tranh luận thêm sức thuyết phục.
Mẫu: (Hùng) - Theo tớ, quý nhất là lúa gạo. Lúa gạo quý như vàng. Trong
bài Hạ gạo làng ta, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã gọi hạt gạo là “ hạt vàng làng ta”.
Lúa gạo nuôi sống tất cả mọi người. Có ai trong chúng ta không ăn mà sống
được đâu?...
(Bài tập 2 trang 91 - TV5, tập 1)
* Với bài tập này, học sinh phải tạo ra được các đoạn thuyết trình ngắn

phù hợp với tình tiết trong truyện nhằm thuyết phục người nghe.
Đây là bài tập đầu tiên giúp học sinh làm quen với thuyết trình, tranh luận
nên đã có gợi ý sẵn ngay sau yêu cầu của bài nhằm định hướng cho học sinh.
Điều này có ưu điểm và hạn chế nhất định:
+ Ưu điểm:
- Học sinh có thể dựa vào mẫu để đóng vai Quý hoặc Nam trình bày ý kiến
của mình một cách nhanh chóng, dễ dàng, không cần sáng tạo.
- Phát huy được khả năng giao tiếp (thuyết trình, trao đổi, …) cho học sinh
+ Hạn chế:
- Tiếp thu bài thụ động, theo khuôn mẫu.
- Lí lẽ và dẫn chứng các em đưa ra thường ngắn, đơn giản, xoay quanh ý
kiến của nhân vật trong bài
- Học sinh chưa gắn được ý kiến của các nhân vật trong bài với các vấn đề
trong cuộc sống do vốn kinh nghiệm, ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Do vậy
mà ý kiến các em đưa ra thường chưa phong phú.
- Khả năng sáng tạo của học sinh chưa rõ ràng.
b. Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập:
- Thao tác 1: Đọc kĩ lại mẫu chuyện, xác định số ý kiến của các nhân vật,
những điểm có lí của từng ý kiến mà các nhân vật nêu ra, đọc kĩ mẫu.
- Thao tác 2: Phân tích những điểm có lí trong từng ý kiến
- Thao tác 3: Sáng tạo thêm các các lí lẽ và dẫn chứng nhưng vẫn đảm bảo
lí lẽ và dẫn chứng gốc.


Bài tập 2: Dựa vào ý kiến của một nhân vật trong mẩu chuyện dưới đây,
em hãy mở rộng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết trình, tranh luận cùng các bạn:
Đất, Nước, Không Khí và Ánh Sáng đều tự cho mình là người cần nhất
đối với cây xanh.
Đất nói:
- Tôi có chất màu để nuôi cây lớn. Không có tôi, cây không thể sống

được!
Nước kể công:
- Nếu chất màu không có nước vận chuyển thì cây có lớn lên được không?
Không Khí chẳng chịu thua:
- Cây xanh rất cần khí trời. Không có khí trời thì tất cả cây cối đều chết rũ.
Còn Ánh Sáng nhẹ nhàng nói:
- Cây cối dù có đủ đất, nước, không khí nhưng thiếu ánh sáng thì sẽ không
thể có màu xanh. Không có màu xanh thì còn gọi là cây xanh sao được!
(Bài tập 1 trang 93 - TV5, tập 1)
* Giống như bài tập 1, bài tập này học sinh phải tạo ra được các đoạn
thuyết trình ngắn phù hợp với tình tiết trong truyện nhằm thuyết phục người
nghe. Nhưng do là tiết thứ hai nên không cần có gợi ý sẵn ngay sau yêu cầu của
bài. Điều này có ưu điểm và hạn chế nhất định:
- Ưu điểm:
+ Học sinh tự do tìm lí lẽ và dẫn chứng theo quan điểm của mình.
+ Ý kiến đưa ra đa dạng, phong phú.
+ Học sinh tự khám phá ra kiến thức cho mình.
+ Tiếp thu bài nhanh, chắc chắn.
+ Phát triển khả năng sáng tạo lời thoại, ngôn ngữ, tư duy, khả năng lập
luận có lí cho học sinh.
- Hạn chế: Những học sinh trình độ đại trà hoặc yếu sẽ gặp khó khăn trong
việc sáng tạo được lời thoại, tìm lí lẽ, dẫn chứng.
* Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập:
- Thao tác 1: Đọc kĩ lại mẩu chuyện, xác định số nhân vật và ý kiến của
các nhân vật, những điểm có lí của từng ý kiến mà các nhân vật nêu ra.
- Thao tác 2: Phân tích những điểm có lí trong từng ý kiến, sự cần thiết của
từng thành phần: đất, nước, không khí, ánh sáng trong đời sống.
- Thao tác 3: Sáng tạo thêm các lí lẽ và dẫn chứng nhưng vẫn đảm bảo lí lẽ
và dẫn chứng gốc.



Bài tập 3: Hãy trình bày ý kiến của em nhằm thuyết phục mọi người thấy
rõ sự cần thiết của cả trăng và đèn trong bài cao dao sau:
Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng, hỡi đèn?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây?
Bài tập này giống bài tập 2, chỉ có một khó khăn khác đối với học sinh:
đối với học sinh thành phố thì sự hiểu biết về sự cần thiết của chiếc đèn dầu
trong cuộc sống trước khi có điện rất khó hình dung đối với các em, kinh nghiệm
thực tế không có, mặt khác việc ngắm trăng đối với trẻ em thành phố là cái gì đó
xa vời nên việc xâu chuỗi các sự kiện để tìm lí lẽ và dẫn chứng đưa ra nhằm
thuyết phục được mọi người là rất khó nếu không có sự trợ giúp của giáo viên.
Do vậy khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập giáo viên nên thu thập tư liệu
(tranh ảnh, băng hình, tin tức..) nhằm giúp học sinh hiểu rõ hơn về sự cần thiết
của chiếc đèn dầu trong cuộc sống của ông cha ta, từ đó học sinh mới có thể thực
hiện được bài tập đầy đủ, phát huy khả năng sáng tạo, ngôn ngữ cho học sinh,
mặt khác tích hợp việc hiểu cuộc sống của con người cho học sinh.
2. Kiểu bài tập dạy chuyển thể các câu chuyện thành cuộc thoại :
a. Cấu trúc của bài tập:
Bài tập này nêu ra một đoạn chuyện hay một câu chuyện, sau đó yêu cầu
học sinh chuyển thành một đoạn thoại hay một cuộc thoại theo một số gợi ý.
Sách tiếng Việt 5 có một số bài tập theo kiểu này:
Bài tập 1: Tập viết đoạn đối thoại
1. Đọc đoạn trích sau của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Có lần, Linh Từ Quốc Mẫu, vợ ông, muốn xin riêng cho một người làm
chức câu đương. Trần Thủ Độ bảo người ấy:
- Ngươi có phu nhân xin cho làm chức câu đương, không thể ví như những
câu đương khác. Vì vậy, phải chặt một ngón chân để phân biệt.
Người ấy kêu van mãi, ông mới tha cho.

2. Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong
nhóm viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch theo gợí ý sau:
Xin Thái sư tha cho!
Nhân vật: Trần Thủ Độ; một phú nông muốn xin làm chức câu đương;
mấy anh lính hầu.


Cảnh trí: Công đường có đặt một án thư lớn. Trên án thư có một hộp bút,
vài cuốn sách, một chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi viết bên án thư. Hai bên
có mấy người lính đứng cung kính.
Thời gian: Buổi sáng
Gợi ý lời đối thoại:
- Trần Thủ Độ lệnh cho lính hầu mời cho phú nông vào.
- Trần Thủ Độ hỏi tên tuổi, nguyện vọng của phú nông.
- Trần Thủ Độ hỏi phú nông về chức phận của câu đương
- Phú nông trả lời, chứng tỏ rất ít hiểu biết về chức phận của câu đương.
- Trần Thủ Độ bảo phải chặt một ngón chân của phú nông để đánh dấu.
- Phú nông sợ hãi kêu van xin tha.
- Trần Thủ Độ tha cho anh ta.
Lính:
- (Bước vào) Bẩm Thái sư! Người nhà phu nhân đã tới rồi ạ.
Trần Thủ Độ: - Cho anh ta vào!
(Lính đi ra, sau đó dẫn vào một người khoảng 30 tuổi, ăn
mặc kiểu nhà giàu nhưng hơi quê kệch).
Phú nông:
- Lạy Đức Ông!
Trần Thủ Độ: - Ngươi có phải là Đặng Văn Sửu không?
Phú nông:…..
(Bài tập 1-2 ( trang 77,78 ) - Tiếng Viết 5, tập 2 )
Thực hiện bài tập này, học sinh có nhiệm vụ cần tạo ra các đoạn đối thoại

phù hợp nội dung câu chuyện. Học sinh sẽ gặp một số khó khăn:
- Các em phải huy động chủ yếu vốn sống gián tiếp về nhà Trần mới làm
được bài tập, trong khi vốn sống này ở đa số các em hầu như chưa có gì.
- Các em chưa được hướng dẫn cách chuyển thể câu chuyện thành đoạn
thoại.
Bài tập 2: Tập viết đoạn đối thoại
1. Đọc đoạn trích dưới đây của truyện Thái sư Trần Thủ Độ:
Linh Từ Quốc Mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị một người quân
hiệu ngăn lại. Về nhà, bà khóc:
- Tôi là vợ thái sư mà bị kẻ dưới khinh nhờn.
Ông cho bắt người quân hiệu đến. Người này nghĩ là phải chết. Nhưng khi
nghe anh ta kể rõ ngọn ngành, ông bảo:
- Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa!
Nói rồi, lấy vàng, lụa thưởng cho.


2. Dựa theo nội dung của đoạn trích trên, em hãy cùng các bạn trong
nhóm viết tiếp một số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch sau:
Giữ nghiêm phép nước
Nhân vật: Trần Thủ Độ; Linh Từ Quốc Mẫu; người quân hiệu; một vài
người lính và gia nô.
Cảnh trí: Một căn phòng rộng có kê án thư, trên có hộp bút, mấy cuốn
sách, một chiếc quạt. Trần Thủ Độ đang ngồi đọc sách.
Thời gian: Khoảng gần trưa.
Gợi ý lời đối thoại:
- Linh Từ Quốc Mẫu phàn nàn với Trần Thủ Độ về chuyện bà bị người
quân hiệu coi thường
- Trần Thủ Độ lệnh cho quân lính đi bắt người quân hiệu.
- Quân lính áp giải người quân hiệu vào.
- Trần Thủ Độ hỏi người quân hiệu có đúng là anh ta bắt vợ ông xuống

kiệu không, có biết bà là phu nhân của thái sư không.
- Người quân hiệu khẳng định là anh ta biết và kể lại đầu đuôi câu chuyện.
- Trần Thủ Độ khen ngợi, thưởng vàng và lụa cho người quân hiệu.
+ Hành động, hoạt động của các nhân vật và trình tự xảy ra (giúp cho việc
xác định và sắp xếp các hành động, hoạt động của các đối tượng tham gia hội
thoại, phân định thứ tự các lượt lời).
+ Ý nghĩa, lời nói của các nhân vật được kể lại gián tiếp (Giúp cho việc
xây dựng thành các lời thoại trực tiếp của các đối tượng tham gia hội thoại).
- Thao tác 3:
+ Sáng tạo thêm các nhân vật đệm hoặc các lời thoại để diễn giải hoặc nối
các sự kiện, các hoạt động của các nhân vật tạo nên sự liền mạch cho cuộc thoại.
+ Thao tác ghi chép lại cuộc thoại vừa hoàn thành, sau đó sửa chữa, hoàn
chỉnh.


KÕt luËn
Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu nội dung hội thoại trong môn
Tiếng Việt lớp 5 ở tiểu học tôi thấy, đây là một nội dung mới nhưng có vai trò
quan trọng trong đời sống cũng như trong văn chương. Giờ học có nội dung hội
thoại nếu được tổ chức hợp lí sẽ kích thích được hứng thú học tập, rèn luyện sự
tự tin cũng như trau dồi kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp và để giao tiếp
cho học sinh. Tuy nhiên nội dung từng bài tập hội thoại còn có sự tích hợp ở một
số nội dung khác của các phân môn trong môn Tiếng Việt. Vì vậy, mỗi giáo viên
cần nắm vững chương trình môn Tiếng Việt của lớp mình phụ trách cũng như
của cả cấp học để có những hiểu biết nhất định về hội thoại, về vai trò của hội
thoại, trau dồi vốn sống, vốn giao tiếp, từ đó có phương pháp cũng như cách
thức, con đường chuyển tải nội dung dạy cho học sinh một cách tự nhiên, gợi
mở, chân thật, phù hợp, không gò bó. Giúp học sinh phát triển toàn diện.
Bên cạnh đó, nhà trường còn cần tạo điều kiện và tổ chức cho học sinh
tham gia nhiều hơn nữa vào các hoạt động tập thể với các chủ đề gần gũi, thân

thuộc, phù hợp với lứa tuổi của các em để các em có cơ hội trau dồi khả năng
giao tiếp, học hỏi lẫn nhau qua giao tiếp, nhất là khả năng tham gia hội thoại với
nhiều người trong một cuộc giao tiếp, các em nói theo cách nghĩ và cách nói của
mình, không gượng ép.
Trên đây là đề tài của bản thân tôi được rút ra trong quá trình giảng dạy
Tiếng việt lớp 5. Do điều kiện thời gian và khả năng nghiên cứu của bản thân
còn hạn chế, là bước tập dượt nghiên cứu khoa học nên trong khuôn khổ sáng
kiến kinh nghiệm này những điều làm được còn ít ỏi, ít nhiều còn hạn chế, không
tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ, khích lệ của
Hội đồng khoa học và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này được
hoàn thiện hơn và vận dụng hiệu quả vào công tác giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!
Mỹ Thuỷ, ngày 18 tháng 5 năm 2013
XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG

NGƯỜI VIẾT

Võ Thị Hiệp



×