CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP
TÍCH CỰC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC THEO MÔ HÌNH
TRƯỜNG HỌC MỚI
Lệ Thủy, tháng 05 năm 2015
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP TÍCH
CỰC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC THEO MÔ HÌNH
TRƯỜNG HỌC MỚI
Họ và tên: Nguyễn Thị Tố Như
Chức vụ: GVCN lớp 5C
Đơn vị công tác: Trường TH số 1 An Thủy
Lệ Thủy, tháng 05 năm 2015
2
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Trường học là cái nôi đầu tiên cho mỗi học sinh bắt đầu cuộc sống và lao
động. Trong nhà trường, học sinh được tiếp thu những tri thức khoa học, những
kĩ năng cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con
người mới tự lực tự cường, chuẩn bị bước đầu cho việc đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến
sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ xã
hội đa dạng. Kết luận hội nghị TW6 khóa XI của Đảng đã khẳng định mục tiêu
giáo dục hiện nay là “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hiện nay chúng
ta đang ở thời kì hội nhập quốc tế, đời sống kinh tế xã hội đang có sự thay đổi
lớn ảnh hưởng không ít đến đời sống tinh thần và sự phát triển nhân cách của
học sinh. Mục tiêu giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.
Phương pháp giảng dạy và giáo dục ở các trường Tiểu học hiện nay đã quan
tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh từ việc xây
dựng nền nếp học tập tự quản. Hướng đến giáo dục học sinh một cách toàn diện
về kiến thức - kĩ năng, về năng lực và phẩm chất thông qua các hoạt động thực
tiễn. Tuy nhiên không phải giáo viên viên nào, trường học nào cũng làm tốt điều
này. Một phần do chưa vận dụng thành công các phương pháp dạy học, một
phần do chưa xây dựng được nền nếp học tập tích cực, thói quen học tập cho
học sinh. Một phần nào đó còn mang tính hình thức, đôi khi còn áp đặt, gò bó,
chưa quan tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá sửa
sai cho học sinh còn có biểu hiện khắt khe, thiếu dân chủ, chủ yếu là giáo viên
nhận xét, đánh giá. Bởi vậy học sinh còn có những khiếm khuyết về nhân cách
như: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không
mạnh dạn thể hiện khả năng,...
Việc xây dựng nền nếp học tập tích cực cho học sinh theo mô hình trường
học mới đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục và giáo viên quan tâm. Tuy
nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu và đưa ra các giải pháp chung
cho vấn đề này. Trường tôi đang công tác không nằm trong các trường thực hiện
3
Dự án VNEN, trường tôi dang vận dụng mô hình trường học mới ở mức 1. Là
một giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, bản
thân tôi nhận thấy : Để vận dụng thành công các phương pháp dạy học tích cực
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh thì ngoài việc
linh hoạt lựa chọn đúng phương pháp cần phải chú ý đến việc hình thành nền
nếp học tập tích cực cho học sinh, nhất là khi tổ chức dạy học theo mô hình
trường học mới VNEN. Hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà
trường của giáo viên thành các hoạt động “tự giáo dục” của học sinh. Từ đó hình
thành cho các em nền nếp, thói quen học tập để các em tự hoạt động chiếm lĩnh
kiến thức ; tự đánh giá mình và đánh giá bạn, thi đua học tập dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Vì vậy, khi được nhà trường phân công chủ nhiệm, tôi đã mạnh
dạn lựa chọn và vận dụng “Một số biện pháp xây dựng nền nếp học tập tích
cực cho học sinh tiểu học theo mô hình trường học mới” cho lớp học mà tôi
đang chủ nhiệm nhằm khẳng định những việc đã làm được tại lớp, đồng thời
trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học và công tác chủ nhiệm
ở trường tiểu học.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm giúp học sinh thực hiện tốt
nền nếp học tập tự quản, chủ động chiếm lĩnh kiến thức mới dưới sự điều hành
của các nhóm trưởng, sự tương tác giữa các học sinh trong nhóm với sự hướng
dẫn, tổ chức của giáo viên. Từ đó xây dựng nền nếp và thói quen tự học, tự
quản, tự tìm tòi, khám phá phát hiện kiến thức mới của bài học ; hình thành và
phát triển năng lực và phẩm chất của người học thông qua các hoạt động thực
tiễn trên lớp.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé công sức của mình vào sự nghiệp đào
tạo những chủ nhân tương lai, nâng cao chất lượng dạy học và công tác chủ
nhiệm ở trường tiểu học mà tôi đang giảng dạy nói riêng và trên địa bàn huyện
nói chung, cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường
tiểu học theo mô hình trường học mới. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh
nghiệm thiết thực cho bản thân trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm sau này.
* Phạm vi nghiên cứu sáng kiến
Do điều kiện và thời gian không cho phép nên sáng kiến chỉ tập trung nghiên
cứu một số biện pháp xây dựng nền nếp học tập tích cực cho học sinh ở trường
tiểu học mà tôi đang công tác.
4
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP TỰ
QUẢN TÍCH CỰC CHO HỌC SINH THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC
MỚI - NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG.
2.1.1. Thực trạng tình hình xây dựng nền nếp học tập tích cực cho học sinh
theo mô hình trường học mới.
2.1.1.1. Về phía giáo viên
Để tìm hiểu thực trạng xây dựng nền nếp học tập tích cực cho học sinh,
ngay từ đầu năm học, khi được phân công làm công tác chủ nhiệm, tôi đã tiến
hành khảo sát ý kiến của 10 giáo viên dạy học theo mô hình VNEN ở trường tôi
qua mẫu phiếu điều tra và đã thu được kết quả như sau:
Bảng 1. Vai trò của việc xây dựng nền nếp học tập tích cực
Vai trò của việc xây dựng nền nếp
Số lượng GV
Tỉ lệ (%)
học tập tích cực
Rất quan trọng
8
80
Quan trọng
2
20
Không quan trọng
0
0
Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy : Không có giáo viên nào cho rằng vai
trò của việc xây dựng nền nếp học tập tích cực là không quan trọng (tỉ lệ 0%).
Điều này cho thấy, hầu hết các giáo viên đã ý thức được tầm quan trọng của việc
làm này. Trong đó, tỉ lệ giáo viên xác định vai trò rất quan trọng (80%) và quan
trọng (20%). Việc xác định hay không xác định được tầm quan trọng vai trò của
việc xây dựng nền nếp học tập tích cực sẽ phần nào ảnh hưởng đến chất lượng
dạy học các môn học nói chung và nền nếp học tập lớp học nói riêng. Qua đó
cũng để khẳng định rằng : Vai trò của việc xây dựng nền nếp học tập tự quản
tích cực là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học của môn
học và nền nếp học tập của lớp học.
Bảng 2 : Sự quan tâm của GV đối với vai trò của việc xây dựng nền nếp học tập tích
cực
Mức độ quan tâm của GV
Số lượng GV
Tỉ lệ (%)
Rất quan tâm
8
80
Quan tâm
2
20
ít quan tâm
0
0
Không quan tâm
0
0
Từ bảng thống kê trên, tôi nhận thấy : Hầu hết Gv đều quan tâm đến vai trò
của việc xây dựng nền nếp học tập tự quản tích cực. Tỉ lệ 80% GV rất quan tâm
5
là một tỉ lệ tương đối cao. Mức độ quan tâm của GV sẽ ảnh hưởng đến việc lựa
chọn nội dung và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
học và xây dựng nền nếp học tập.
Bảng 3 : Hiệu quả vận dụng các biện pháp xây dựng nền nếp học tập tích
cực
Hiệu quả vận dụng các biện pháp
Số lượng GV
Tỉ lệ (%)
xây dựng nền nếp học tập tích cực
Hiệu quả rất cao
1
10
Hiệu quả cao
3
30
Hiệu quả bình thường
4
40
Hiệu quả thấp
2
20
Qua bảng thống kê cho thấy: Có 40% giáo viên đã biết vận dụng việc dạy học
theo nền nếp tích cự đạt hiệu quả cao và rất cao. Điều đó cho thấy hiệu quả vận
dụng theo nền nếp tích cực của giáo viên đạt tỉ lệ còn thấp. Có 40% giáo viên
vận dụng đạt hiệu quả bình thường và 20% vận dụng đạt hiệu quả thấp. Đây là
một con số không nhỏ khiến tôi phải băn khoăn suy nghĩ: có thể do họ còn lúng
túng khi thực hiện dạy học VNEN, có thể thiếu kĩ năng lập kế hoạch cụ thể về
việc dạy học tích cực, có thể phương pháp dạy học cò mang tính truyền thống,
có thể do cách vận dụng các phương pháp chưa đúng cách, cũng có thể mô hình
trường học mới còn mới mẻ ở trường tôi,...Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển toàn diện của học sinh.
2.1.1.2. Về phía học sinh
Song song với việc khảo sát ý kiến của giáo viên, tôi cũng đã tiến hành
khảo sát ý kiến của học sinh về vai trò của Hội đồng tự quản trong việc tổ chức
các hoạt động học tập của lớp học và sự tham gia vào Hội đồng tự quản. Tôi đã
khảo sát ý kiến của 150 học sinh lớp 4, 5 trường tôi và đã thu được một số kết
quả sau:
Bảng 4. Vai trò của Hội đồng tự quản trong việc tổ chức các hoạt động học
tập của lớp học
Vai trò của Hội đồng tự quản trong
Số lượng HS
Tỉ lệ (%)
việc tổ chức các hoạt động học tập
6
của lớp học
Rất quan trọng
32
21,3
Quan trọng
37
24,7
Không quan trọng
81
54
Bảng thống kê 3 cho thấy: Có 46% học sinh (chỉ chiếm chưa đến một nửa
số học sinh được khảo sát) cho rằng vai trò của Hội đồng tự quản trong việc tổ
chức các hoạt động học tập của lớp học là quan trọng và rất quan trọng. Ngược
lại, 54% số học sinh cho rằng không quan trọng. Điều này cho thấy, vai trò của
Hội đồng tự quản trong việc tổ chức các hoạt động học tập của lớp học chưa
phát huy hiệu quả. Đây là điều kiện khó khăn để hình thành nền nếp và thói
quen học tập tích cực cho học sinh theo mô hình VNEN.
Bảng 4. Sự tham gia vào Hội đồng tự quản và các ban của lớp học
Sự tham gia vào Hội đồng tự quản và
Số lượng HS
Tỉ lệ (%)
các ban của lớp học
Rất muốn tham gia
10
6,7
Muốn tham gia
20
13,3
Tham gia cũng được, không tham gia
37
24,7
cũng được
Không tham gia
83
55,3
Từ bảng thống kê 4 tôi nhận thấy: Nhiều học sinh không muốn tham gia
vào Hội đồng tự quản và các ban của lớp học. Điều này cho thấy, các em chưa
hứng thú với việc tham gia quản lí lớp học. Do đó, các em không được phát huy
năng lực và sở trường của mình ; không mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Một số
học sinh lại cho rằng tham gia cũng được hay không tham gia cũng được. Bên
cạnh đó, số học sinh rất muốn tham gia và muốn tham gia vào Hội đồng tự quản
và các ban của lớp học là rất thấp, chỉ chiếm 20%. Điều này giáo viên cần nắm
được đặc điểm tâm lí học sinh để có các biện pháp tác động thích hợp.
Bảng 5. Năng lực điều hành của Hội đồng tự quản
Năng lực điều hành của Hội đồng tự
quản
Rất tốt
Tốt
Bình thường
Chưa tốt
Số lượng HS
Tỉ lệ (%)
23
16
34
77
15,3
10,7
22,7
51,3
7
Bảng thống kê trên cho thấy, năng lực điều hành của Hội đồng tự quản
chưa tốt (chiếm 51,3%). Ngược lại, tỉ lệ rất tốt và tốt còn thấp (chỉ chiếm 26%).
Điều này phần nào phản ánh việc bồi dưỡng năng lực tự quản cho học sinh của
giáo viên chưa được quam tâm đúng mức.
2.1.2. Nguyên nhân thực trạng
2.1.2.1. Về phía giáo viên
- Một số giáo viên chưa khai thác triệt để nội dung bài dạy hoặc thiếu linh hoạt,
sáng tạo khi tổ chức các hoạt động dạy học, cứ rập khuôn theo phương pháp của
sách giáo viên.
- Một số giáo viên còn lúng túng khi thực hiện dạy học theo phương pháp
VNEN. Họ chưa thấy hết tầm quan trọng của việc rèn cho học sinh phương pháp
tự học và nề nếp học tập. Hơn nữa một số giáo viên đã quen với phương pháp
dạy học truyền thống nên học sinh còn thụ động khi chiếm lĩnh kiến thức mới,
các em luôn có thói quen chờ đợi, không tự mình suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện
ra kiến thức mới.
- Một bộ phận giáo viên có nhận thức tốt về việc cần phải xây dựng nền nếp học
tập tích cực cho học sinh. Tuy nhiên, các biện pháp đưa ra chưa mang lại hiệu
quả.
- Giáo viên chưa quan tâm bồi dưỡng năng lực điều hành cho nhóm trưởng. Việc
phân chia nhóm học tập, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong ban hội
đồng tự quản chưa hợp lí, rõ ràng.
- Một số giáo viên chưa thường xuyên quan tâm rèn nền nếp, thói quen học tập
tích cực cho học sinh
- Việc huy động xã hội hóa để trang trí lớp học, xây dựng các góc học tập của
giáo viên chưa thật linh hoạt, hiệu quả chưa cao.
2.1.2.2. Về phía học sinh
- Khả năng nhận thức của học sinh còn hạn chế. Học sinh chưa hình thành được
nền nếp, thói quen học tập theo mô hình trường học mới (chưa có thói quen tự
học, tự đánh giá mình và đánh giá bạn, …)
- Năng lực quản lí, điều hành nhóm (lớp học) của học sinh còn hạn chế
8
- Học sinh ít tập trung trong lúc giáo viên giảng bài, chưa biết dựa vào các điểm
tựa để ghi nhớ, chưa biết xây dựng dàn ý tài liệu cần ghi nhớ. Nên nhiều em còn
rụt rè, thiếu tự tin vào bản thân nên ít tham gia vào các hoạt động học tập nhóm
- Một số em chưa có thói quen tìm hiểu yêu cầu, nhiệm vụ học tập để tự mình
hoàn thành các bài tập hay giải quyết các vấn đề của bài học.
2.1.1.3. Nhận xét chung
Sở dĩ học sinh chưa hình thành được nền nếp và thói quen học tập tích
cực một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, một phần do ý thức của
học sinh. Bên cạnh những học sinh có năng lực, tích cực tham gia vào các hoạt
động học tập của lớp còn có nhiều học sinh năng lực hạn chế, còn rụt rè, thiếu tự
tin vào bản thân. Do vậy, vấn đề đặt ra là giáo viên cần phải quan tâm đúng mức
đến việc xây dựng nền nếp tích cực cho học sinh nhằm phát triển toàn diện: kiến
thức – kĩ năng; năng lực và phẩm chất cho học sinh đáp ứng được yêu cầu giáo
dục trong giai đoạn hiện nay.
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NỀN NẾP HỌC TẬP TÍCH CỰC
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI
Từ thực trạng trên, ngay từ đầu năm học tôi đã mạnh vận dụng các biện
pháp xây dựng nền nếp học tập tích cực cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm như sau:
2.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao hiệu quả vận dụng các biện pháp trong việc xây
dựng nền nếp học tập tích cực theo mô hình VNEN của giáo viên
Muốn học sinh thực hiện tốt nền nếp học tập tích cực theo mô hình trường
học mới trước hết người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Phương
pháp dạy học hiện hành đã phần nào phát huy được tính tích cực chủ động của
học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên vẫn còn nặng nề về vai trò truyền thụ kiến
thức. Một số bộ phận học sinh chưa mạnh dạn tự tin khi tham gia vào các hoạt
động học tập và các hoạt động giáo dục. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường
học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư
phạm của mình với phương châm “chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo
viên sang tổ chức các hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo
dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử
dụng tài liệu để tự học, tự khám phá thông qua quá trình mang tính hợp tác.
Giáo viên chỉ hỗ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Giáo viên phải khuyến
khích mọi cố gắng, nỗ lực, sáng kiến và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học
sinh để những học sinh vốn rụt rè, nhút nhát dần dần trở nên mạnh dạn tự tin
9
hơn. Có thể tổ chức các hoạt động học tập của học sinh không nhất thiết theo tài
liệu hướng dẫn, đồng thời phải dựa vào đối tượng học sinh để lựa chọn phương
pháp dạy phù hợp nhất. Trên thực tế, các biện pháp nêu trên có những ưu điểm
và hạn chế riêng, không có biện pháp nào là vạn năng. Vì vậy, giáo viên cần
linh hoạt phối hợp đồng bộ các biện pháp để phát huy hiệu quả cao nhất
2.2.2. Biện pháp 2: Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự quản học
sinh nhiệt tình, có năng lực chỉ đạo lớp.
- Ngay từ khi mới nhận lớp tôi đã giới thiệu ý tưởng về các Hội đồng tự
quản trong học sinh phạm vi lớp học cho các đồng nghiệp biết . Tôi xem đây là
một biện pháp để khuyến khích sự tham gia của học sinh và phát triển các kĩ
năng tham gia cho các em. Sau đó tôi đã giới thiệu phương pháp học tập trên
tinh thần hợp tác cho học sinh trong lớp và mong muốn dựa vào kinh nghiệm
này để tiếp tục tăng cường các kĩ năng hợp tác. Tôi đã tổ chức một cuộc họp phụ
huynh học sinh để thảo luận về những thay đổi đang diễn ra trong phạm vi nhà
trường. Tôi đã mạnh dạn thăm những phụ huynh học sinh không có khả năng
tham gia cuộc họp để tất cả các phụ huynh đều có cơ hội thảo luận về Hội đồng
tự quản học sinh sẽ được thành lập. Trong cuộc họp tôi đã giải thích cho phụ
huynh biết rằng cách tốt nhất để học sinh học về quyền và trách nhiệm của các
em là tổ chức cho các em sống một các dân chủ và chịu trách nhiệm một cách
thực sự. Tôi cũng cho phụ huynh biết là những nghiên cứu gần đây cho thấy quá
trình học tập hợp tác đã tác động tích cực đến sự phát triển về tình cảm, xã hội
của học sinh cũng như thành tích học tập của các em. Từ những việc làm trên
tôi đã lấy được ý kiến tư vấn của học sinh và giáo viên, phụ huynh học sinh.
- Xây dựng kế hoạch bầu cử hội đồng tự quản.: Tôi đã tạo cơ hội cho học
sinh tham gia ý kiến về kế hoạch này, ví dụ như Chủ tịch hội đồng tự quản phải
là người có năng lực lãnh đạo, gương mẫu trong các hoạt động, phải là người
học giỏi…Hội đồng tự quản gồm có: 1 chủ tịch hội đồng tự quản, 2 phó chủ tịch
hội đồng tự quản.
- Đăng kí danh sách ứng cử, đề cử : Tôi đã cho các học sinh tự xung
phong đăng kí danh sách ứng cử, để cử. Sau đó ứng cử viên trình bày đề xuất
hội đồng (Ví dụ như tôi tên là…., tôi xin được ứng cử làm chủ tịch hội đồng tự
quản của lớp, nếu được các bạn đồng ý tôi sẽ đưa phong trào của lớp ngày càng
10
đi lên…). Học sinh và giáo viên cùng tổ chức bầu cử, Chủ tịch và hai Phó chủ
tịch đã được bầu. Ai có số phiếu cao thì người đó là Chủ tịch hội đồng tự quản.
2.2.3. Biện pháp 3: Phân chia nhóm học tập, thành lập các ban học tập trong
lớp ngay từ đầu năm học.
Nhóm học tập là một thành tố đặc trưng, quan trọng của mô hình trường học
mới. Có thể nói mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học sinh
chủ yếu làm việc với nhóm; có thể làm việc với giáo viên, làm việc chung cả lớp
khi cần thiết.
Việc phân nhóm ta phải thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí về sức học, về
khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành của nhóm
trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm. Để làm tốt điều này,
ngay từ đầu năm, giáo viên cần tổ chức kiểm tra khảo sát chất lượng văn hóa
cũng như kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp của các em, từ đó phân loại đối tượng
và phân chia các nhóm. Mỗi nhóm khoảng 5 đến 7 em để đảm bảo tính hiệu quả
của việc tổ chức dạy học. Nếu nhóm học tập quá đông thì kết quả giáo dục sẽ
không cao.
Tổ chức bầu nhóm trưởng tạm thời vì nhóm trưởng sẽ thay thế luân phiên để
tạo ra sự bình đẳng giữa các thành viên trong nhóm. Trước mắt giáo viên nên
hướng các nhóm chọn những bạn học khá, giỏi, có khả năng điều hành làm
nhóm trưởng.
Tổ chức đặt tên nhóm học tập. Tên nhóm phải do các nhóm thảo luận thống
nhất và đưa ra tên cho nhóm mình. Tên nhóm có thể là tên của các loài hoa, loài
vật, loài chim hoặc các từ chỉ phẩm chất của người,...
Bầu hội đồng tự quản và một số ban học tập trong lớp. Giáo viên dựa vào kết
quả khảo sát đầu năm để gợi ý học sinh bầu hội đồng tự quản và các ban hoặc
cũng có thể tổ chức một số hội thi nhỏ trong lớp như: thi kể chuyện, thi hát và
biểu diễn các bài hát trong chương trình, thi xử lí một số tình huống do giáo viên
đưa ra,...để chọn đúng các trưởng ban nhằm phát huy hết năng lực của các em.
11
2.2.4. Biện pháp 4: Giúp hội đồng tự quản, các thành viên trong ban nắm
được chức năng nhiệm vụ của mình.
Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình. Hội
đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực hiện.
Các em được làm chủ trong việc bầu ra Hội đồng tư quản, Chủ tịch, Phó chủ
tịch và các Ban của Hội đồng tự quản.
Sau khi đã thành lập được HĐTQ, tôi đã tổ chức tập huấn cho HĐTQ học sinh
về nhiệm vụ cụ thể của từng ban và cách thức làm việc. Từ những gợi ý mẫu,
giáo viên yêu cầu học sinh của các ban tự đề xuất một số yêu cầu, nội dung và
cách thức hoạt động để cả lớp bàn bạc, bổ sung và đi đến thống nhất. Sau đó
yêu cầu các thành viên trong lớp có trách nhiệm thực hiện các quy ước do mình
xây dựng dưới sự giám sát của các thành viên ở mỗi ban.
Ví dụ : CTHĐTQ cần phải làm những việc như: Vào đầu và cuối mỗi tiết học
hoặc khi có khách tới CTHĐTQ biết mời các bạn đứng lên chào. Vào mỗi tiết
học, CTHĐTQ bước ra khỏi chỗ ngồi đứng trước lớp mời Ban văn nghệ lên sinh
hoạt văn nghệ, sau đó mời Ban học tập lên phát tài liệu và đồ dùng học tập. Về
lại chỗ ngồi học tập.
Ví dụ: Ban học tập: Chẳng hạn các nội dung sau:
- Đi học đều và đúng giờ.
- Tham gia tích cực các hoạt động học trong nhóm.
12
-
Giữ gìn sách vở, dụng cụ học tập.
Tham gia xây dựng các góc học tập.
Hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Kết quả học tập tốt.
Phục tùng sự điều hành của nhóm trưởng.
Chia sẻ giúp đỡ bạn học tập....
Các ban Văn nghệ, Đối ngoại, Vệ sinh,... cũng thống nhất một số nội
dung tương tự.
* Ban văn nghệ : Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học
và cuối tiết học. Có thể lồng ghép chơi trò chơi để ôn lại kiến thức cũ.
Ví dụ: Ban văn nghệ có thể tổ chức cho các bạn chơi trò chơi Tìm từ nhanh để
tìm từ đồng nghĩa, cùng nghĩa hoặc từ đồng âm hoặc có thể chơi các trò chơi
khác do các em sáng tạo hay nhờ sự tư vấn của phụ huynh. Tôi luôn hướng dẫn
và động viên các em trong ban văn nghệ vào những lúc rãnh rổi đến phòng Tin
học của trường để cùng nhau lên mạng tìm kiếm những bài hát, những trò chơi
tập thể như: cái trống, đếm sao, cá bơi, giành ghế số 1, tôi là vua, tôi bảo…..vừa
phù hợp với chủ điểm vừa tạo không khí vui vẻ, vừa tạo hứng thú cho HS trước
khi vào tiết học, cũng như giải tỏa sự căng thẳng mệt mỏi của các em sau mỗi
tiết học.
* Ban học tập: Có nhiệm vụ phát đồ dùng và mời các nhóm trưởng lên nhận tài
liệu và đồ dùng học tập. Kiểm tra bài cũ, bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo
với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải
quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập
của lớp. Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo
viên có thể để ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa
thảo luận xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường
mời ban học tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em.
*Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi buổi
học phải phân công vệ sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra nhóm nào chưa
thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học cũng phải kiểm tra lại xem
nhóm nào thực hiện vệ sinh chưa tốt để kịp thời nhắc nhở các bạn thực hiện tốt.
* Ban thể dục: Có nhiệm vụ theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học
thể dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt.
13
* Ban sức khỏe: Theo dõi về sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề về sức
khỏe thì đưa bạn đến phòng y tế của trường hoặc đi báo với cô y tế.
* Ban thư viện: Ra chơi cho các bạn mượn truyện đọc, thu truyện và sắp xếp
thư viện gọn gàng ngăn nắp.
* Ban ngoại giao: Có nhiệm vụ nếu lớp có khách đến thăm thì ra mời khách vào
và biết giới thiệu về trường, lớp các góc học tập, cô giáo, các bạn.
Sau mỗi buổi học, HĐTQ ở lại về sau các bạn 5 phút để gặp giáo viên báo
cáo những việc đã làm được những việc chưa làm được còn gặp khó khăn để
giáo viên kịp thời tư vấn giúp đỡ và giao nhiệm vụ ngày mai cho các bạn.
Cuối mỗi tháng yêu cầu các Ban đánh giá hoạt động của các bạn trong lớp cụ
thể, rõ ràng, có tuyên dương, nhắc nhở.
2.2.5. Biện pháp 5: Xây dựng một số công cụ để giúp Hội đồng tự quản học
sinh làm việc có hiệu quả.
Để hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả giáo viên phải xây
dựng được : Nội quy lớp học do các em đề ra. Sau đó dưới sự hướng dẫn của
giáo viên học sinh tự xây dựng nội quy lớp học (không vứt rác bừa bãi, đi học
đúng giờ, hợp tác tốt và vẽ thành những hình ảnh đẹp mắt (chiếc lá, bông hoa..),
tôi đã tận dụng những đĩa CD hỏng trang trí và cam kết thực hiện. Ngoài Nội
quy lớp học thì Hòm thư cá nhân tôi hướng dẫn học sinh dùng giấy A4 hoặc
giấy bìa cứng cắt thành phong bì ghi tên mình, tự mình sáng tạo vẽ thêm những
hình ảnh mà các em thích ngoài phong thư. Hằng ngày qua hộp thư này các em
có thể gửi thư để trao đổi và góp ý cho nhau cùng giúp đỡ nhau tiến bộ. Thêm
nữa là Hòm cam kết, Hộp thư vui, Điều em muốn nói …Tôi đã tận dụng
những hộp bánh, hộp giấy cứng ở gia đình thải ra mang đến lớp rồi dán những
hình ảnh ngộ nghĩnh, bắt mắt. Đây là nơi chứa đựng những nội dung các em học
sinh viết ra để chia sẻ những niềm vui hay mong muốn nhận được sự giúp đỡ,
hay cần sự hổ trợ, với những vấn đề cá nhân các em gặp phải, 15 phút đầu giờ,
cuối tuần sinh hoạt lớp giáo viên cùng các em ngồi lại với nhau thảo luận các
vấn đề các em gặp phải rồi tìm hướng giải quyết. Ngoài ra còn có bảng Ngày
em đến lớp tôi đã tận dụng những tờ lịch cũ, kẻ theo mẫu treo ở nơi thích hợp
trong lớp học, hướng dẫn học sinh tự điền đánh dấu ngày đi học của mình giúp
các em thấy được việc đi học là tự giác,vui vẻ thoải mái. Đi học là cần thiết,
phải đi học đúng giờ, có trách nhiệm trong học tập.
14
2.2.6. Biện pháp 6: Quan tâm bồi dưỡng năng lực điều hành cho nhóm
trưởng
Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát hoạt
động học của mối nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực giáo viên trong
việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo viên kết quả học tập
hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần hỗ trợ.
Một nhóm trưởng tốt là phải tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự
học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự
tin, cần được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm.
Không để tình trạng một số thành viên khác làm thay, làm hộ các thành viên
khác trong nhóm, đồng thời phải tạo mối đoàn kết hợp nhất trong nhóm.
Giáo viên hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều hành nhóm, hiểu
các bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong nhóm đều
tích cực, tự giác thực hiện các hoạt động học. Các học sinh yếu cần được quan
tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm và không có bất cứ bạn nào ngoài cuộc, không
một bạn nào ngồi chơi. Và công việc chính của nhóm trưởng là: thay giáo viên
điều hành các bạn hoạt động nhóm. Xác định được mục tiêu của hoạt động
nhóm. Phân công nhiệm vụ cho công bằng giữa các thành viên trong trong
nhóm.
Một điều qua trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào để
huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm.
Hướng dẫn các bạn biết các tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn
gặp phải. Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo quản
tài liệu học tập. Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành công việc và biết giơ thẻ cứu trợ
khi không tự giải quyết được vấn đề. Một vài cách bồi dưỡng năng lực cho
nhóm trưởng như sau:
Cách 1: Vào cuối hoặc đầu mỗi buổi học giáo viên cần mời các nhóm trưởng
ngồi lại tạo thành một nhóm và hướng dẫn các em cụ thể từng bước một.
Ví dụ: Sau khi đã ghi xong đề bài nhóm trưởng điều khiển các bạn đọc mục
tiêu:
15
- Nhóm trưởng nói to đủ cho cả nhóm nghe (Mời các bạn đọc mục tiêu. Bạn
nào đọc xong thì đưa tay lên)
- Nhóm trưởng nói: Mình mời bạn A đọc mục tiêu thứ nhất, mời bạn B đọc
mục tiêu thứ hai.
(Sau khi các bạn trong nhóm mình đọc xong mục tiêu thì giơ thẻ hoàn thành lên
để giáo viên biết đến kiểm tra).
Cách 2: Đối với những nhóm trưởng còn yếu, nhóm trưởng làm việc còn lúng
túng thì người giáo viên phải là người “làm mẫu” và đóng vai trò là một nhóm
trưởng chứ khổng phải vai trò là một người giáo viên.
Cách 3: Giáo viên chọn ra một số học sinh giỏi, nhanh nhẹn trong học tập xếp
cho các em này ngồi vào một nhóm để giáo viên huấn luyện khi học sinh đã biết
việc và biết cách điều hành nhóm rồi chia các bạn này đến mỗi nhóm mỗi bạn
làm nhóm trưởng các nhóm.
Cách 4: Hoặc có thể cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào đó
và các nhóm còn lại chú ý học tập theo. Giáo viên cũng không quên động viên,
tuyên dương kịp thời các nhóm làm tốt.
Một diều cần phải lưu ý đó là vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm tự học.
Qua kinh nghiệm giảng dạy, tôi thấy việc bao quát lớp hết sức quan trọng. Việc
này sẽ giúp giáo viên đánh giá được nhóm nào nhanh, đúng để các em có sự thi
đua giữa các nhóm từ đó thúc đẩy được quá trình tự học của các em.
2.2.7. Biện pháp 7: Thường xuyên quan tâm rèn nền nếp, thói quen học tập
tích cực cho học sinh
Trước hết người giáo viên chủ nhiệm phải rèn cho học sinh các kĩ năng làm
việc có hiệu quả ngay từ đầu năm học. Để học sinh thực hiện có hiêu quả việc
học tập theo mô hình VNEN giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh một số kĩ
năng học tập. Trước hết phải rèn cho học sinh nền nếp tự học theo nhóm. Mỗi
hướng dẫn trong phiếu học tập, câu lệnh trong sách giáo khoa là một chuỗi hoạt
động liên kết nhằm giúp học sinh tự học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các
chỉ dẫn trong bài học. Vì vậy người giáo viên cần quan tâm luyện tập cho học
sinh các kĩ năng sau:
16
- Kĩ năng đọc - hiểu tài liệu: Giáo viên cần cho học sinh hiểu được các
câu lệnh, các chỉ dẫn, các yêu cầu, các loại dạng hoạt động học tập.
-
Kĩ năng làm việc cá nhân: Khi học sinh hoạt động các nhân, giáo viên
phải rèn cho học sinh ý thức tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ của cá
nhân, tự mình trình bày ý kiến và tự đánh giá kết quả hoạt động của cá nhân.
- Kĩ năng làm việc theo cặp, theo nhóm, giáo viên phải rèn cho học sinh
biết tổ chức hoạt động nhóm, nhận nhiệm vụ, lên kế hoạch, phân công, đảm
nhận trách nhiệm, phối hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành tốt
công việc của nhóm.
- Kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ở các góc học tập, sử dụng tài liệu
tham khảo ở thư viện trong lớp học.
- Kĩ năng tự học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng đồng.
Đồng thời, giáo viên phải rèn cho học sinh có được nhận thức đúng đắn về
mục đích học tập và tự lực, tích cực thực hiện mục đích đó bằng hành động của
mình. Học sinh được học tập theo khả năng và nhịp độ riêng của mình phù hợp
với trình độ nhận thức của cá nhân học sinh. Mỗi học sinh được giao nhiệm vụ
và mục tiêu học tập cụ thể, nhưng luôn có thể tự điều chỉnh hoạt động của chính
mình để việc học phù hợp với nhịp độ tiếp thu của các nhân.
Hoạt động tự học của học sinh vữa rèn luyện tính độc lập tích cức của học
sinh, đồng thời thúc đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường ý thức tập thể của học
sinh.
Việc học tập tích cực trong nhóm sẽ hình thành cho các em kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng ra quyết định...trước khi đưa ra vấn đề, tạo sự tương tác giữa các
bạn cùng nhóm, luôn có thái độ hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau. Tăng cường tính tích
cực, chủ động, linh hoạt hơn và học sinh thật sự tham gia vào quá trình chiếm
lĩnh kiến thức.
Tuy nhiên để học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng và thuận tiện cho giáo viên trong
tổ chức hoạt động tự học, học sinh thực hiện 10 bước học tập sau:
17
Việc rèn cho học sinh có nền nếp tự học sẽ giúp học sinh có nhiều cơ hội
độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng và giúp học sinh phát huy được năng lực
của mình. Học sinh được tranh luận, tự đánh giá bản thân và đánh giá bạn, tự
18
phỏng vấn hoặc phản biện với kết quả trình bày. Học sinh được thể hiện được
khả năng của “người lãnh đạo nhí” khi điều hành tổ chức các hoạt động học của
nhóm. Một điều dễ nhận thấy đó là học sinh đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo
hơn trong học tập và trong giao tiếp.
2.2.8. Biện pháp 8: Phối kết hợp với các tổ chức và các lực lượng xã hội trong
và ngoài nhà trường để xây dựng nền nếp học tập tích cực.
Người giáo viên muốn nâng cao chất lượng giáo dục của lớp cần phải biết
tranh thủ sự ủng hộ của các cấp, các đoàn thể, chính quyền địa phương, hội
khuyến học, hội phụ huynh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, đặc biệt
là tất cả phụ huynh của lớp mình phụ trách.
Ở mô hình này là luôn có sự góp tay, chung sức của cộng đồng dân cư trong
quá trình xây dựng Bản đồ cộng đồng: giáo viên cần phối hợp tốt với phụ
huynh học sinh để xây dựng được góc cộng đồng và bản đồ cộng đồng. Bởi vì
nó giúp ta hiểu được khoảng cách mà mỗi em học sinh phải đi từ nhà đến
trường, giúp giáo viên biết đường đi đến nhà học sinh. Việc xây dựng Góc cộng
đồng giáo viên cần nhờ phụ huynh học sinh cùng chung tay góp sức vì góc cộng
đồng giúp cho giáo viên biết các sản phẩm đặc trưng của địa phương, lễ hội
văn hoá để đưa vào bài học, mặt khác những kiến thức học sinh được học ở trên
lớp cũng có thể được áp dụng vào cuộc sống gia đình và cộng đồng.
- Tuyên truyền và nâng cao nhận thức trong xã hội về vai trò của giáo dục, từ
đó khắc phục những tư tưởng, nhận thức không đúng đắn về giáo dục; giúp
phụ huynh phối kết hợp với giáo viên cùng với nhà trường trong việc tham gia
giáo dục học sinh nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng, thực hiện: "Giáo dục cho
mọi người, mọi người làm giáo dục".
Tóm lại, việc hình thành nền nếp và thói quen học tập tốt cho học sinh không
phải ngày một ngày hai mà có thể làm được. Đó là một quá trình rèn luyện
thường xuyên và lâu dài. Trên thực tế, các biện pháp nêu trên có những ưu điểm
và hạn chế riêng, không có biện pháp nào là vạn năng. Vì vậy, giáo viên cần
linh hoạt phối hợp đồng bộ các biện pháp để phát huy hiệu quả cao nhất.
2.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Các biện pháp nêu trên tôi đã áp dụng để xây dựng nền nếp học tập tự quản
cho lớp tôi phụ trách trong thời gian qua. Tuy điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp
ứng hết việc tổ chức dạy học theo mô hình VNEN, nhưng bước đầu đã thu được
một số kết quả sau: (Theo kết quả chất lượng giáo dục cuối học kì II):
19
- Số học sinh hoàn thành kiến thức kĩ năng: 27/27 em, tỉ lệ 100%
- Số học sinh đạt năng lực và phẩm chất: 27/27 em, tỉ lệ 100%. Trong đó:
+ Số em tiến bộ về kĩ năng giao tiếp và ứng xử: 23 em, tỉ lệ 85,2%
+ Số học sinh có khả năng tự quản, làm nhóm trưởng tốt: 18/27 em, tỉ lệ 66,7%
+ Số học sinh có khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề: 25/27 em, tỉ lệ 92,6%
- Lớp được đánh giá là lớp có nền nếp học tập tốt
Những kết quả đạt được cho thấy: Học sinh đã hình thành được nền nếp,
thói quen học tập tốt, trong đó 100% học sinh lớp tôi chủ nhiệm hoàn thành nội
dung kiến thức mô học, phẩm chất và năng lực đều đạt. Số học sinh tiến bộ về kĩ
năng giao tiếp và ứng xử chiếm tỉ lệ cao (85,2%). Năng lực quản lí, điều hành
của Hội đồng tự quản tốt. Số học sinh có khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề
của bài học chiếm tỉ lệ khá cao (92,6%). Điều này cho thấy bước đầu các biện
pháp đã có tính khả thi, góp phần nâng cao chất lượng dạy học và công tác chủ
nhiệm ở trường tôi nói riêng và trên địa bạn huyện nói chung.
2.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Làm tốt việc đổi mới dạy học tích cực của giáo viên.
- Ngay từ đầu năm, giáo viên chủ nhiệm cần xác định được tầm quan trọng
của việc xây dựng nền nếp học tập theo mô hình trường học mới
- Giáo viên cần tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lí cũng như năng lực học sinh
để phân nhóm học tập phù hợp ngay từ đầu năm học.
- Cần tổ chức bình bầu, thành lập Hội đồng tự quản, các ban phụ trách và phân
công cụ thể nhiệm vụ cho từng ban trong việc tổ chức các hoạt động học tập của
lớp.
- Cần tập huấn, bồi bưỡng nâng cao năng lực cho các thành viên Hội đồng tự
quản, trưởng ban, nhóm trưởng
- Thường xuyên quan tâm rèn nền nếp, thói quen học tập cho học sinh
- Phối hợp với phụ huynh trong việc huy động cơ sở vật chất trang trí lớp học,
xây dựng góc học tập, giáo dục học sinh ở nhà.
20
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Mô hình trường học mới VNEN ở Việt Nam được đánh giá là “luồng gió
mới” góp phần tích cực làm thay đổi tư duy trong dạy học ở nước ta. Đây là kiểu
mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại. Để giúp học sinh có một nền nếp tự học
tốt theo mô hình này không phải một sớm một chiều mà làm ngay được mà đòi
hỏi phải thật kiên trì, nhẫn nại, tích cực tự học, tự bồi dưỡng; luôn quan tâm,
chia sẻ và động viên học sinh để các em có đủ tự tin học tập. Phối kết hợp chặt
chẽ với phụ huynh và cộng đồng để được nhận sự hỗ trợ. Thực hiện tốt nền nếp
dạy học theo mô hình VNEN này là một đóng góp không nhỏ trong công cuộc
đào tạo thế hệ trẻ có kĩ năng sống tốt, có đủ cả đức, trí, thể, mỹ cho tương lai đất
nước. Qua một thời gian thực hiện, tôi nhận thấy rằng học sinh của tôi đã mạnh
dạn tự ti hơn nhiều so với khi chưa áp dụng. Học sinh đã biết tự học, tự chiếm
lĩnh kiến thức, khả năng giao tiếp cũng tiến bộ rõ rệt. Chúng tôi đang rất tin
tưởng vào sự đổi mới tích cực và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
mà mô hình “Trường học mới” mang lại. Tôi thiết nghĩ rằng các biện pháp xây
dựng nền nếp học tập tích cực của sáng kiến có thể áp dụng các lớp ở trường tôi
nói riêng và các trường trên địa bàn toàn huyện nói chung.
3.2. Những kiến nghị đề xuất
- Nhà trường, cụm liên trường nên tổ chức chuyên về xây dựng nền nếp lớp
học theo mô hình VNEN để giáo viên trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là một số biện pháp và kết quả đạt được trong quá trình làm công
tác chủ nhiệm của bản thân tôi trong. Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng
nhưng không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự trao đổi, góp ý của
chuyên môn, đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này nhằm
thực hiện tốt việc xây dựng nền nếp dạy học tích cự theo mô hình VNEN.
Xin chân thành cảm ơn !
21