Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng nói tiếng anh cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.33 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN
KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 4

Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019
1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN
KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 4

Họ và tên: Đỗ Thị Ngọc Trang
Chức vụ: Giáo viên Tiếng Anh
Đơn vị công tác: Trường TH số 1 An Thủy

Lệ Thủy, tháng 02 năm 2019
2


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển và hội nhập của toàn cầu, tiếng Anh dần trở nên
phổ biến hơn với mọi người, vai trò của ngôn ngữ này càng được thể hiện rõ.
Hiện nay, dạy và học ngoại ngữ có vai trò rất quan trọng giúp đào tạo nguồn


nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Tiếng
Anh hiện nay ngoài là công cụ để mọi người học hỏi thêm về tin học, khoa học
kĩ thuật nói chung, còn là cách để mọi người giao tiếp, chia sẻ về vốn văn hóa và
kiến thức xã hội. Xác định được tầm quan trọng của nội dung này, những năm
qua, cùng với việc nâng cao chất lượng dạy và học các môn học và hoạt động
giáo dục, Phòng Giáo dục huyện Lệ Thủy luôn quan tâm, chú trọng đến việc
nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ cho học sinh ở tất cả các cấp học,
nhất là học sinh bậc Tiểu học.
Nhận thức được vai trò quan trọng này, môn Tiếng Anh dần trở thành một
môn học quan trọng trong trường tiểu học. Trường Tiểu học nơi tôi công tác
cũng không nằm ngoài xu hướng này bằng việc đầu tư cho việc dạy – học Tiếng
Anh qua việc tạo điều kiện cho giáo viên bồi dưỡng năng lực, nâng cao trình độ
chuyên môn của mình, tạo điều kiện được sử dụng trang thiết bị hiện đại (máy
chiếu, smart TV, cassette) cho việc dạy – học. Nhờ vậy, việc dạy – học Tiếng
Anh có sự khởi sắc nhất định. Nhiều năm qua, chất lượng dạy học bộ môn này
luôn ổn định và đạt chất lượng chuẩn vùng quy định. Hằng năm trường đều có
học sinh tham gia các hội thi và đạt giải cao cấp huyện, cấp tỉnh.
Dạy và học tiếng anh bậc Tiểu học được xem là nền tảng quan trọng góp
phần hình thành cho học sinh những kĩ năng giao tiếp cơ bản, giúp các em có
thêm nhiều kiến thức, hiểu biết, áp dụng khi lên các bậc học cao hơn. Không
giống như các môn học khác, tiếng Anh là một môn học đặc thù và khó đối với
học sinh. Học sinh cần phải thành thạo cả bốn kĩ năng nghe - nói - đọc - viết,
trong đó “nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng
Anh để học sinh có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao
nhất. Qua nhiều năm giảng dạy ở trường, tôi thấy học sinh khó khăn kĩ năng
nghe và nói. Các em rất ngại nói tiếng Anh trong giờ học do nhiều nguyên nhân
khác nhau như: tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, sợ các bạn cười khi mình nói sai.
Mặt khác, mức độ nhận thức và tiếp thu đối với môn học Tiếng Anh ở từng em
khác nhau. Nhiều em với trình độ khá hơn thường tự tin, trả lời nhanh các câu
3



hỏi hoặc giải quyết nhiệm vụ đặt ra sớm dẫn đến các học sinh yếu hơn chây ỳ, ỷ
lại, không hợp tác tham gia hoặc thiếu tự tin. Mặt khác, nhiều em khá hơn
thường có tâm lý tìm bạn học khá giống mình khi cùng thực hiện một nhiệm vụ.
Là một giáo viên giảng dạy tiếng Anh, nhận thức được vai trò quan trọng
của kĩ năng nói tiếng Anh, bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh nói
tốt tiếng Anh nên tôi mạnh dạn vận dụng “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả
rèn kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 4” nhằm tạo cho các em hứng
thú và tự tin trong giao tiếp bằng tiếng Anh, góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn Tiếng Anh trong nhà trường tiểu học hiện nay.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Ở sáng kiến này, tôi dựa vào kinh nghiệm dạy học trên lớp của bản thân,
qua thực tiễn vận dụng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động của học sinh và qua tham khảo một số ý kiến của đồng nghiệp, từ đó
tôi đi sâu tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng nói Tiếng Anh cho
học sinh lớp 4 phù hợp với tình hình lớp học, đặc điểm của học sinh.Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của môn học nói chung và kĩ năng nói
tiếng Anh nói riêng ở trường tôi công tác.
1.3. Phạm vi nghiên cứu sáng kiến
Sáng kiến này được vận dụng thực hiện trên đối t ượng là h ọc sinh
lớp 4 ở trường Tiểu học mà tôi công tác có độ tuổi từ 9 đến 10 tuổi.

4


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH VÀ
NGUYÊN NHÂN.
2.1.1. Thực trạng kĩ năng nói tiếng Anh của học sinh ở trường tôi công tác

Trường Tiểu học nơi tôi công tác là một trong những trường thuộc vùng
nông thôn, phần lớn các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ làm nông
nên không có thời gian kèm cặp ở nhà. Để tìm hiểu thực trạng kĩ năng nói tiếng
Anh của học sinh, ngay từ hai tuần đầu năm học này, tôi đã tiến hành khảo sát và
đánh giá kĩ năng nói đối với 66 em học sinh khối lớp 4 và thu được một số kết
quả như sau:
Bảng 1. Hứng thú của học sinh đối với môn tiếng Anh
Hứng thú của học sinh đối với
môn tiếng Anh
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú

Số lượng học
sinh
7
20
16
23

Tỷ lệ ( %)
10,6
30,3
24,2
34,8

Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy: Số học sinh có hứng thú đối với
môn học này là 27 em, chiếm 40,9%; số học sinh không có hứng thú là 23 em,
chiếm 34,8%; còn lại là bình thường. Điều này cho thấy, có thể là do phương

pháp/biện pháp dạy học của giáo viên chưa thực sự tạo được hứng thú, niềm tin
cho các em hoặc có thể là do môn học này khó tiếp thu nên học sinh không có
hứng thú để học.
Bảng 2. Ngữ điệu, cách phát âm bằng tiếng Anh của học sinh
Ngữ điệu, cách phát âm
Luôn đúng
Thỉnh thoảng sai
Thường xuyên sai

Số lượng học
sinh
21
22
23

Tỷ lệ ( %)
31,8
33,3
34,8

Bảng thống kê trên cho thấy vẫn còn nhiều học sinh phát âm chưa chính
xác, trong đó chỉ có 21 em (chiếm 31,8%) phát âm luôn đúng, có 23 em (chiếm
34,8%) phát âm thường xuyên sai và 22 em (chiếm 33,3%) phát âm thỉnh thoảng
sai. Điều này cho thấy, khả năng phát âm của học sinh là một vấn đề cần phải
khắc phục sớm ngay từ đầu. Phát âm sai dẫn đến người nghe không hiểu hoặc
hiểu sai nội dung mà người nói muốn truyền đạt.
5


Bảng 3. Cách dùng từ, đặt câu, khả năng trình bày/diễn đạt của học

sinh
Cách dùng từ, đặt câu, khả năng
trình bày /diễn đạt của học sinh
Rất tốt
Tốt
Bình thường
Kém
Rất kém

Số lượng học
sinh
9
17
23
11
6

Tỷ lệ ( %)
13,6
25,8
34,8
16,7
9,1

Bảng thống kê trên cho thấy cách dùng từ, đặt câu, khả năng trình bày
/diễn đạt của học sinh chưa tốt. Vẫn còn một bộ phận học sinh không biết cách
dùng từ, đặt câu hoặc nói còn lủng củng, ấp a ấp úng, nói nhỏ, thiếu tự tin khi
đứng trước giáo viên, trước lớp. Điều này cho thấy trong quá trình học tập ở
trường, những em này rất ít được nói, ít được thể hiện khả năng của mình trước
tập thể lớp. Cách dùng từ, đặt câu, khả năng trình bày /diễn đạt của học sinh là

một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá khả năng nói của học sinh cũng
như kĩ năng nói của môn học này.
Bảng 4. Chất lượng kĩ năng nói của học sinh
Khảo sát chất lượng kĩ năng nói đầu năm của 66 học sinh khối lớp 4,
chúng tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số
66

Hoàn thành tốt
SL
%
15
22,7

Hoàn thành
SL
%
34
51,5

Chưa hoàn thành
SL
%
17
25,8

Kết quả khảo sát ở bảng 4 cho thấy, chất lượng kĩ năng nói của học sinh
đầu năm còn hạn chế, số học sinh hoàn thành tốt chỉ chiếm 22,7%, trong khi đó
số học sinh chưa hoàn thành chiếm 25,8%, còn lại hoàn thành 51,5%. Điều này
cho thấy, việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng Anh nói chung và kĩ năng nói

tiếng Anh nói riêng là vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Từ việc tìm hiểu thực trạng kĩ năng nói tiếng Anh của học sinh lớp 4 và
thực tế giảng dạy tại trường tôi trong những năm qua, tôi rút ra được những
thuận lợi, khó khăn trong quá trình dạy học môn tiếng Anh như sau:
Thuận lợi:
- Trong những năm học qua, Phòng giáo dục Lệ Thủy đặc biệt quan tâm
đến dạy học môn Tiếng Anh bằng việc tổ chức tập huấn cho giáo viên giảng dạy
6


Tiếng Anh các chuyên đề cấp cụm, huyện với những nội dung thiết thực, sát với
tình hình dạy học tiếng Anh hiện nay.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ, động viên, sẵn sàng
chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của giáo viên và tạo mọi điều kiện để chúng
tôi hoàn thành tốt công việc của mình.
- Bản thân tôi và các giáo viên giảng dạy Tiếng Anh nhiệt tình, có tay
nghề vững vàng, tích cực, chủ động và luôn có ý thức học hỏi.
- Nhiều phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ trong quá trình học tập của học
sinh.
- Nhiều học sinh rất yêu thích và có năng khiếu về môn học này, sẵn sàng
tham gia vào các hoạt động của giờ học.
- Học sinh được làm quen với công nghệ thông tin, các em sớm được tiếp
xúc với máy tính, với mạng Internet và thu nhận được nhiều thông tin.
Khó khăn:
- Tiếng Anh là một môn học đặc thù và rất khó đối với học sinh Tiểu học.
Hơn nữa các em đều ở vùng nông thôn nên không có điều kiện tiếp xúc với
người nước ngoài, ít nghe băng đĩa Tiếng Anh nên có xu hướng phát âm không
chuẩn xác.
- Phần lớn các em học sinh tập trung nhiều vào môn Toán, Tiếng Việt
nhưng chưa chú tâm và đầu tư cho môn Tiếng Anh, chuẩn bị bài một cách sơ sài.

Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc
đọc – nói Tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
- Học sinh phát âm tiếng địa phương nên khi đọc Tiếng Anh không chuẩn,
phát âm Tiếng Anh bị Việt hóa, một số em nói ngọng nên khó khăn khi phát âm
Tiếng Anh.
- Tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ nên các em ngại trong giao tiếp, sợ
mắc lỗi, hay xấu hổ với bạn bè và thầy cô.
- Phương tiện, công cụ phục vụ cho việc học tập Tiếng Anh đối với học
sinh còn hạn chế.
2.1.2 Nguyên nhân thực trạng
2.1.2.1. Về phía giáo viên
- Khi soạn bài, giáo viên chưa chú ý thiết kế phiếu cho hoạt động phỏng
vấn nhằm tăng cường tính tích cực, sáng tạo của học sinh
7


- Trong khi thiết kế kế hoạch dạy học, GV chưa nghiên cứu kĩ bài học nên
chưa kịp thời bổ sung, thay thế các hoạt động chưa phù hợp đối tượng, qua đó để
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh
- Trong quá trình dạy học, giáo viên chưa có các biện pháp hữu hiệu để
giúp học sinh hiểu và nắm vững yêu cầu, chủ đề nói; chưa tạo hứng thú, niềm tin
cho học sinh trước khi nói
- Chưa thường xuyên quan tâm sửa lỗi phát âm, lỗi dùng từ, đặt câu, diễn
đạt cho học sinh trong quá trình nói.
- Giáo viên chưa thường xuyên tạo môi trường để tăng cường khả năng
nói tiếng Anh cho học sinh, chưa tăng cường kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của
từng học sinh về kĩ năng nói tiếng Anh
- Giáo viên chưa thật sự kiểm soát tốt hoạt động nói của tất cả các học
sinh, dẫn đến một số em còn dùng Tiếng Việt trong giao tiếp hoặc không tham
gia vào các hoạt động nói.

2.1.2.2. Về phía học sinh
- Học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Anh trong
thời đại hiện nay, nhất là kĩ năng nói. Chính vì thế, các em còn thờ ơ, chây lười,
không hứng thú tham gia vào các hoạt động, thiếu tự tin. Tiếng Anh không phải
là tiếng mẹ đẻ nên các em ngại giao tiếp, sợ mắc lỗi, hay xấu hổ với bạn bè và
thầy cô.
- Nhiều học sinh chưa hiểu yêu cầu/chủ đề nói nên nói không đúng trọng
tâm, không đúng yêu cầu của giáo viên đưa ra.
- Trong quá trình học tập, khả năng nói của nhiều học sinh chưa tốt, vốn
từ của các em còn hạn chế, nói còn nhỏ, e dè, trình bày/diễn đạt còn lủng củng,
thiếu sự linh hoạt và sáng tạo.
2.2. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KĨ NĂNG NÓI TIẾNG
ANH CHO HỌC SINH LỚP 4
Từ thực trạng nêu trên và qua nghiên cứu các bài dạy trong sách giáo
khoa tiếng Anh lớp 4, chúng tôi đã mạnh dạn vậng dụng các biện pháp dưới đây
nhằm nâng cao chất lượng kĩ năng nói cho học sinh lớp 4 ở trường tôi công tác
như sau:
2.2.1. Biện pháp 1: Tạo sự hứng thú, niềm phấn khởi, sự tự tin, mạnh dạn
cho học sinh khi tham gia vào hoạt động nói
Việc tạo sự hứng thú, niềm phấn khởi, sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh
khi tham gia vào hoạt động nói có vai trò rất quan trọng.
8


Để làm được điều này, đầu tiên phải chú ý thái độ lên lớp của giáo viên.
Tôi nhận thấy phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc
trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi, không nên tạo sự căng
thẳng trong giờ học ngoại ngữ. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt,... học
sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Tiếng Anh, giáo viên cần tạo không khí
lớp học, sinh động, vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình

để các em thấy rằng, Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ.
Vì vậy, trong khi lên lớp bản thân tôi luôn vui vẻ, hòa nhập vào thế giới
trẻ thơ của học sinh, chính thái độ ấy sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn nói
Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ tôi trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị
sai.
Khi bước vào lớp, tôi luôn nở nụ cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện
với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới.
Bản thân tôi cũng rèn luyện cho mình tính “khôi hài” và sử dụng nó trong
tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ, nếu diễn tốt
sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt.
Sau đó, thay vì miễn cưỡng hay ép buộc các học sinh lên trình bày hay trả
lời các câu hỏi thì tôi đã tiến hành tổ chức các trò chơi vui nhộn, nếu học trò nào
thua cuộc trong các trò chơi đó thì sẽ tự giác thực hiện hoạt động nói đó.
Ví dụ 1: Ở Unit 5: Can you swim?- Lesson 2 (Activity 3- Let’s talk)
Tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Listing”. Các em học sinh phải
nhớ lại những từ vựng về các hoạt động mà các em đã học. Theo lần lượt, các
em phải nói ra những hoạt động đó, em sau không được lặp lại từ mà em trước
đã nói. Nếu em nào nói lặp hoặc không nói ra từ chỉ hoạt động nào thì thua cuộc
và người thua cuộc phải nói về khả năng mình có thể làm gì và không làm gì, sử
dụng mẫu câu: I can..................., but I can’t................
Ví dụ 2: Ở Unit 7: What do you like doing? – Lesson 2 (Activity 3- Let’s
talk)
Tôi đã cho học sinh chơi trò chơi “Passing the ball”. Học sinh nghe nhạc
và chuyền bóng, khi nhạc dừng, em nào giữ quả bóng màu vàng sẽ là người đặt
câu hỏi ( What do you like doing? hoặc What’s your hobby?) em nào giữ quả
bóng màu xanh sẽ trả lời câu hỏi. Nếu học sinh yếu nắm giữ quả bóng không thể
trả lời được hoặc “ấp a ấp úng”, thì tôi sẽ động viên và khuyến khích.
9



Qua việc tổ chức các trò chơi, tôi nhận thấy các em thật sự hứng thú và
tiếp thu bài học nhanh hơn.
2.2.2 Biện pháp 2: Thường xuyên quan tâm đến phát âm và ngữ điệu của
học sinh khi giao tiếp Tiếng Anh
Hiện nay, có quan điểm cho rằng, học sinh tiểu học không cần phát âm
chuẩn như người bản xứ, các em chỉ cần nói đạt yêu cầu là ổn. Nhưng tôi không
đồng tình với quan điểm này. Đối với tôi, phải tập các em nói đúng và chuẩn
ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì, người xưa thường nói “ tre non dễ uốn”
và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học
nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi
phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng tâm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe
người khác phát âm đúng, các em sẽ không nhận ra và hiểu được người đối diện
nói gì. Mặt khác, sẽ làm các em lúng túng, e dè và không tự tin trong giao tiếp.
Vì vậy khi lên lớp tôi luôn quan tâm đến việc rèn luyện cho học sinh phát
âm chuẩn từ vựng. Tôi đã sử dụng tối đa băng đĩa ở các hoạt động cần thiết
trong các tiết dạy của mình. Tôi hướng dẫ học sinh tập trung khi nghe và khuyến
khích các em bắt chước giọng đọc trong đĩa càng giống càng tốt. Sau khi nghe
và lặp lại, tôi yêu cầu học sinh đọc đồng thanh, sau đó học sinh tiếp tục luyện
theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay
nếu học sinh đọc sai và không chuẩn.
Bên cạnh đó, tôi cũng đã cố gắng kiên trì luyện phát âm cho học sinh để
tạo cho các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, các em
mới bước đầu học Tiếng Anh nhưng phát âm không đúng sẽ thành thói quen ảnh
hưởng không tốt trong quá trình học và giao tiếp sau này.
Tôi chú ý luyện tập cho học sinh phát âm có các âm cuối.
Ví dụ 3: Khi nói từ coat /ˈkoʊt/, boat /ˈboʊt/, cat /cæt/.... thì tôi cho học
sinh đọc bật âm cuối /t/ lên, và đọc đồng thanh cả lớp khoảng 2 – 3 lần, sau đó
gọi từng nhóm và cá nhân.
Tập cho học sinh có thói quen đọc nối bằng cách nếu thấy từ phía trước
kết thúc bằng một phụ âm và từ sau nó được bắt đầu bằng một nguyên âm thì

các em nối phụ âm cuối đó với nguyên âm đầu của từ tiếp theo.
Ví dụ 4: Khi nói stand-up /ˈstænd^p/ thì học sinh nối phụ âm cuối /d/ với
nguyên âm đầu tiên của từ tiếp theo là âm /u/. Khi nói look-at /lukæt/ thì học
sinh nối phụ âm cuối /k/ với nguyên âm đầu tiên của từ tiếp theo là âm /a/.
10


Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm trong
việc nhấn mạnh đuôi số nhiều
Khi phát âm các từ có chữ /s/ nằm sau các phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/,
/f/, /e/ thì tôi hướng dẫn học sinh đọc thành âm /s/.
Ví dụ 5: Khi phát âm từ books thì học sinh đọc là /buks/. Khi phát âm các
từ có chữ /s/ nằm sau các nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh /b/, /d/, /g/, /v/,
/ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/ thì tôi hướng dẫn học sinh đọc thành âm /z/.
Ví dụ 6: Khi phát âm từ apples thì học sinh đọc là /ˈapəlz/. Khi phát âm từ
tables thì học sinh đọc là /ˈteiblz/. Khi phát âm các từ có chữ /s/ nằm sau những
phụ âm, cụ thể các phụ âm như:/z/, /s/, /ss/, /ch/, /sh/, /x/, /ge/, /o/, /ce/… thì tôi
hướng dẫn học sinh đọc thành âm /iz/.
Ví dụ 7: Khi phát âm từ oranges thì học sinh đọc là /ɒrindʒiz/. Khi phát
âm từ nurses thì học sinh đọc là /nə:siz/.
Ngoài ra, trong Tiếng Anh có một số âm rất khó phát âm, ngay cả với học
sinh nhỏ bản ngữ. Âm /r/ là âm khó, khi gặp âm này tôi nhắc học sinh cần chú ý
đến khẩu hình miệng. Âm /ð/ chỉ cho học sinh đặt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý
cắn nhẹ đầu lưỡi khi đọc âm này.
Ví dụ 8: Khi phát âm các từ this, they, these thì tôi nhắc học sinh đặt lưỡi
giữa hai hàm răng. Cho học sinh đọc lại theo cá nhân và luyện theo nhóm.
Việc sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp cho học sinh trong khi nói là một việc
làm quan trọng. Việc sửa lỗi sẽ giúp em đó nhận ra để phát âm đúng, song cũng
giúpcho nhóm học sinh, cho lớp một lần nữa được nói, được luyện thêm kỹ năng
cho bản thân mình. Có thể giáo viên sửa sai cho học sinh, học sinh sửa sai cho

học sinh, nhóm này sửa sai cho nhóm khác…
Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng thì đây
là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai.
Ví dụ 9: Khi học sinh nói “I go to school from Monday to Friday.” Phần
lớn học sinh hay phát âm school /sku:l/ thành /sku:n/, thì tôi đã kịp thời sửa lỗi
cho các em để tránh lặp đi lặp lại lỗi phát âm sai. Hay trong câu “I go to the
supermarket to buy clothes.”, đa số học sinh đọc nhầm từ clothes /kləʊðz/
thành /kləʊðiz/.
Do đó khi nghe học sinh phát âm sai từ, tôi để cho học sinh nói xong câu
thì sửa lại cho các em. Việc sửa kịp thời cho một em hoặc một nhóm học sinh
cũng lan tỏa đến các đối tượng khác trong lớp, tôi thường khuyến khích những
11


học sinh phát âm tốt sửa cho bạn. Đối với trường hợp khi học sinh đang tập
trung suy nghĩ và tìm ý tưởng từ vựng để thể hiện một nội dung nào đó, tôi
không bao giờ ngắt lời học sinh để sửa lỗi. Vì điều này sẽ làm mất đi sự tự tin,
tính hiếu động, thích tham dự vào các hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em.
Mỗi giáo viên chúng ta cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học
sinh. Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp
học sinh học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè.
Bên cạnh việc rèn phát âm, tôi thường xuyên chú ý rèn cho học sinh cách
sử dụng ngữ điệu.
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng
nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu
như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của
câu. Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ âm điệu giọng nói xuống thấp
ở trong các trường hợp sau:
Dùng trong câu chào hỏi: Good morning! ↓
Dùng trong câu đề nghị: Sit down ! ↓

Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (who, whose, whom, which,
what, when, where, why, và how): Who are they? ↓; What can you do? ↓
Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh:Open your book ↓;Close your book ↓
Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm điệu giọng nói lên cao ở
trong các trường hợp sau:
Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “Yes/ No”: Is today your birthday?↑;
Can you swim?↑; Do you like playing football? ↑…
Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi: You are Mai? ↑
Trong quá trình luyện tập tôi cho học sinh nói đi nói lại nhiều lần, cả lớp
đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó học sinh tiếp tục luyện đôi và tiếp tục
giúp đỡ những học sinh khó khăn.
2.2.3. Biện pháp 3: Tập cho học sinh cách phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh
Với các em điều kiện sống ở nông thôn, môi trường Tiếng Anh chưa được
nhiều, vốn từ vựng cũng còn hạn chế. Dù vậy, tôi vẫn tăng cường nói Tiếng
Anhtrên lớp, thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản như: Stand up,
please; Sit down, please; Open your book, please; Close your book, please;
Look at your book/ the picture on page...; Listen and repeat; Come on; Go to the
12


board...Nhìn chung, lúc đầu nhiều học sinh còn bỡ ngỡ, chưa hiểu nhưng dần
dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của tôi.
Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì tôi thường xuyên sử dụng
trong lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt. Không chỉ qua các mẫu câu
mệnh lệnh đơn giản, mà học sinh tập cách phản xạ thông qua các tình huống
trong thực tế.
Ví dụ 10: Khi gặp thầy cô giáo, hay bạn bè, các em có thể chào nhau bằng
những câu Tiếng Anh như Hello, Good morning, Good afternoon…Hay trò
chuyện bằng những câu hỏi về bản thân What’s your name?, How are you?,
What’s the weatherlike today?, What day is it today?, What is the date

today?....Những câu hỏi về đồ vật, sử dụng các đồ vật thật có trong lớp học (bàn,
ghế, thước, vở... ) như các mẫu câu: What’s this?, What are these? ...; Các câu
hỏi về màu sắc và vị trí: What colour is it? Where is this? Where are they?...
Tôi tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang
Tiếng Anh. Cụ thể là thông qua các giáo trình có họa tiết đẹp, các bộ phim hoạt
hình, các trò chơi, quảng cáo, các đồ dùng hay gặp... làm cho các em có hứng
thú với các dòng chữ, âm thanh khác với tiếng Việt; chơi trò chơi và tập hát theo
phim, theo đĩa, theo các bài hát Tiếng Anh. Có như vậy khả năng ngôn ngữ của
các em mới phát triển được. Chúng ta đang tạo một môi trường xung quanh kích
thích các em thấy rằng học Tiếng Anh là rất cần thiết.
Trong giờ học tôi đã sử dụng hình vẽ, cử chỉ,… các hành động khác phi
lời nói để diễn đạt 1 từ. Khi nói chuyện bằng Tiếng Anh, cố gắng diễn đạt bằng
mọi cách có thể được kể cả dùng điệu bộ.
Ví dụ 11: Khi đưa từ “swim’’ tôi có thể làm động tác đưa hai cánh tay ra
bơi hay cụm từ “play the guitar” thì tôi làm động tác đánh bóng bàn.
Như vậy các em sẽ khắc sâu lâu hơn. Để học sinh nhớ nhanh và hiểu
Tiếng Anh thì nhất thiết các em phải sử dụng nó. Cái cách chép đi chép lại một
câu, một từ mới không còn hữu dụng nữa. Mà khi các em học được một từ mới,
một mẫu câu mới thì phải sử dụng nó ngay trong tình huống thực tiễn hàng ngày.
Do vậy, phương pháp luyện tập theo mẫu là rất quan trọng. Các em nên sử dụng
Tiếng Anh ở nhiều nơi chứ không phải chỉ trong lớp học. Đừng làm cho học sinh
sợ hay ngại nói Tiếng Anh vì lo mình nói bị sai. Khuyến khích các em đừng bao
giờ sợ mắc lỗi khi nói và viết Tiếng Anh. Chính sự mạnh dạn là điều học tốt
Tiếng Anh. Dạy các em biết cách hỏi lại hoặc đề nghị người nói nhắc lại nếu
13


chưa hiểu rõ nghĩa.
Ví dụ 12: Can you say it again?
Can you repeat your question?

Mặt khác, giờ học Tiếng Anh luôn phải sôi nổi và tạo tâm lí nhẹ nhàng,
không gò bó về điểm số đánh giá kết quả học tập. Tôi luôn dành những lời khen,
lời động viên, khuyến khích cho học sinh của mình.
Dạy Tiếng Anh qua tình huống giao tiếp là hay nhất. Dạy các em cố gắng
đoán nghĩa của từ, câu bằng cách căn cứ nội dung bài đọc, bài nghe hoặc tình
huống giao tiếp.
Can you guess the content of the dialogue?
How do you answer it?
Ví dụ 13: ở phần 1 trong mỗi bài: Look, listen and repeat
Học sinh quan sát tranh và trả lời một số câu hỏi: Who are they?; Where
are they?; What are they talking about?
Từ những câu hỏi gợi ý đó, tôi tiếp tục đặt câu hỏi Can you guess the
content of the dialogue? để xem học sinh có nắm được nội dung tình huống giao
tiếp đó không. Sau đó hướng dẫn học sinh dựa vào tình huống đó và xây dựng
một đoạn hội thoại dựa vào ngôn ngữ của mình.
2.2.4. Biện pháp 4: Trong khi thiết kế kế hoạch dạy học, GV cần điều chỉnh
các hoạt động để phù hợp với mức độ nhận thức của học sinh, phát huy
được tính tích cực, chủ động của các em
Trong quá trình thiết kế hoạt động dạy học, tôi nhận thấy có không ít hoạt
động nói gây ra sự nhàm chán và không phát huy được tính năng động, sáng tạo
của học sinh, từ đó không mang lại hiệu quả hoạt động cao. Vì thế, việc điều
chỉnh tài liệu trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết.
Ví dụ 14: Unit 3: What day is it today? (Lesson 2 – Activity 3)
Thay vì hoạt động work in pairs và trả lời các câu hỏi: What day is it
today và What do you do on..........?, tôi đã điều chỉnh hoạt động này trở thành
một hoạt động phỏng vấn cho học sinh.
Tôi đã thiết kế mẫu phiếu phỏng vấn như sau
No
.


Name
s

1
2
3

14


4

Tôi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi “What do you do on Tuesday?” trên
mặt sau phiếu nhỏ của mình bằng cách ghép “I” và hoạt động. Sau đó, cho học
sinh luyện tập mẫu câu hỏi với phạm vi cả lớp. Tôi làm mẫu với một học sinh và
kiểm tra xem học sinh có nhớ yêu cầu: chỉ sử dụng tiếng Anh, hỏi 4 người rồi
đánh dấu tick mỗi người chọn lựa, câu hỏi, câu trả lời, không quá ồn. Tôi cho
học sinh đi vòng quanh phỏng vấn nhưng phải quản lý lớp thật tốt để tránh gây
ồn ào, mất trật tự. Sau 3 phút, kết thúc hoạt động, tôi yêu cầu 2 học sinh hoàn
thành sớm lên bảng báo cáo lại kết quả (theo gợi ý “My name is ... I have four
friends. They are A, B, C and D. On Tuesday, A ... B... C ... and D ...” (thay thế
A, B, C, D bằng tên người được phỏng vấn)), tiếp đó, kiểm tra thêm thông tin
của một số học sinh hoàn thành chậm nhất.
Ở Unit 8: What subjects do you have today? (Leson 3- Activity 6)Hoạt
động yêu cầu: Ask a friend in another school about his/her timetable. Then tell
the class about it.
Tôi nhận thấy hoạt động này không phù hợp với học sinh của tôi vì các
em hầu hết chơi với bạn cùng trường, ít có cơ hội để tiếp xúc với các bạn ở địa
bàn trường khác. Vì thế, tôi đã thay thế hoạt động bằng hoạt động phù hợp với
khả năng của các em hơn.

Ví dụ 15: Tôi đưa ra hoạt động yêu cầu: Design your favourite timetable.
Then tell the class about it.
Tôi yêu cầu học sinh thiết kế thời khóa biểu yêu thích của mình và trang
trí. Sau đó cho các em chia sẻ với các bạn trong nhóm về thời khóa biểu của
mình (This is my favourite timetable. I have……..on Mondays, I have….. on
Tuesday……). Lúc này, tôi quản lý lớp và đưa ra gợi ý giúp đỡ cho các em còn
lúng túng (nếu cần thiết). Tôi gọi 3 em lên bảng trình bày về thời khóa biểu yêu
thích của mình rồi yêu cầu các em học sinh tự đánh giá lẫn nhau dưới sự hướng
dẫn của tôi.
2.2.5. Biện pháp 5: Tăng cường tổ chức các buổi ngoại khóa Tiếng Anh cho
các em trải nghiệm
Học sinh học những kiến thức trong sách giáo giáo khoa sẽ làm cho các
em thấy nhàm chán và áp lực, đặc biệt là rất thụ động trong quá trình thực hành.
Giảng dạy trong sách giáo khoa, giáo viên thường phải logic theo trật tự của nội
dung chương trình và thep phân phối chương trình. Việc dạy và học giữa giáo
15


viên và học sinh cứ lặp đi lặp lại suốt cả năm học, thời gian trên lớp hạn chế, vì
thế giáo viên chỉ có thể yêu cầu học sinh thực hành như yêu cầu của sách giáo
khoa. Điều này không thể giúp cho các em phát triển kĩ năng giao tiếp một cách
tự nhiên được. Vì vậy, để học sinh có thể phát triển được kĩ năng giao tiếp, tôi đã
tạo cho các em môi trường để thực hành Tiếng Anh bằng cách tổ chức các hoạt
động ngoại khóa để học sinh vừa có điều kiện thực hành giao tiếp lại được vui
chơi, giải trí , giúp các em phát triển toàn diện.
Nhận thấy hoạt động ngoại khóa đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo
sự hứng thú, niềm đam mê học tiếng anh cho các em học sinh cũng như tạo nền
tảng vững chắc cho phát triển kĩ năng giao tiếp cho các em. Chính vì thế, cứ hai
tháng một lần, tôi cùng các đồng nghiệp của mình đã lên kế hoạch cụ thể (về
thời gian, địa điểm, hình thức, nội dung, trò chơi) tổ chức buổi ngoại khóa tiếng

anh với các chủ điểm phù hợp. Trong các buổi ngoại khóa, các em học sinh đã
tự tin thể hiện một số bài hát tiếng Anh, vận dụng tất cả các kiến thức, kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết tham gia một cách mạnh dạn, sôi nổi các trò chơi như: I can
hear your voice, ring the golden bell, Around you! với nhiều dạng câu hỏi về các
chủ đề khác nhau như: nghề nghiệp, gia đình, nhà trường, thầy cô, các đồ dùng,
dụng cụ học tập trong nhà trường…
Bên cạnh đó, buổi ngoại khóa đã tạo điều kiện cho các em học sinh thể hiện
những năng khiếu về Tiếng Anh của mình như hát, nhảy, đóng kịch và thuyết
trình. Đây là cơ hội giúp các tất cả các em chủ động thể hiện khả năng của mình,
tạo cho các em có động lực hơn trong học bộ môn Tiếng Anh.
2.2.6. Biện pháp 6: Tăng cường đánh giá thường xuyên và coi trọng sự tiến
bộ của học sinh về kĩ năng nói tiếng Anh
Tôi nhận thấy rằng, đánh giá thường xuyên có vai trò rất quan trọng trong
hoạt động dạy học, giáo dục của mỗi giáo viên. Nó cung cấp những thông tin
phản hồi cho giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự
tiến bộ của học sinh theo mục tiêu về học tập, năng lực và phẩm chất. Đánh giá
sự tiến bộ của học sinh có thể giúp học sinh phát hiện sự thay đổi của chính
mình so với trước đó một cách thoải mái qau việc khuyến khích, động viên, hỗ
trợ, tư vấn của giáo viên, bạn bè và nỗ lực của bản thân để đạt mục tiêu.
Nhận thấy được tầm quan trọng đó, trong mỗi tiết dạy của mình, tôi luôn
chú trọng đến phần đánh giá sự tiến bộ về học sinh của mình. Tôi đã vận dụng
nhiều hình thức, phương pháp đánh giá khác nhau. Và mỗi phương pháp, tôi sử
16


dụng những kĩ thuật phù hợp. Đó có thể là sự đánh giá của giáo viên dành cho
học sinh, và cũng có thể học sinh tự đánh giá lẫn nhau.
Ví dụ 16: ở hoạt động “Point and say”, tôi đã đưa ra các tiêu chí đánh giá
phù hợp (phát âm, vậm dụng mẫu câu, sự tương tác, sự tự tin) và dựa vào đó học
sinh có thể dễ dàng tự đánh giá lẫn nhau. Học sinh thực hiện tốt sẽ được tuyên

dương trước lớp, và những học sinh còn hạn chế sẽ nhận được những lời động
viên, khích lệ từ bạn bè và tôi để lần sau các em cố gắng thực hiện tốt hơn. Và
các tiết sau đó, tôi sẽ tạo điều kiện cho các em còn hạn chế được thể hiện mình.
Và nhờ những sự động viên, khích lệ và hỗ trợ của bạn bè và thầy cô, mặc dù
vẫn còn e dè, ấp úng, nhưng các em đã có sự tiến bộ về cách phát âm và vận
dụng mẫu câu. Hay trong hoạt động “Let’s talk”, khi một bạn lên trình bày trước
lớp, tôi sẽ phát cho các em phiếu đánh giá ghi rõ các tiêu chí (phát âm, nội dung,
sự tương tác, sự tự tin), các em đánh giá bạn bằng việc khoanh tròn số lượng mặt
cười phù hợp. Nếu bạn nào nói tốt và nhận được sự đánh giá tốt từ các bạn, tôi
sẽ tặng cho các em 1 cái sticker để các em dán vào sau vở. Sau một tháng, tôi sẽ
tổng hợp số sticker đó. Nếu bạn nào có tổng số nhiều sticker nhiều nhất sẽ là
nhân vật của tháng và nhận được phần quà từ tôi. Còn những học sinh nào có ít
sticker hơn, tôi sẽ khuyến khích và động viên các em cố gắng lần sau.
2.3. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Quá trình thực tiễn vận dụng các phương pháp trên khi rèn kĩ năng nói
cho học sinh, thì chất lượng bộ môn Tiếng Anh và kỹ năng nói Tiếng Anh của
học sinh trong các lớp tôi giảng dạy có nhiều chuyển biến tích cực:
Nhiều em tự tin, hào hứng khi nói, khi giao tiếp bằng Tiếng Anh. Các em
đã mạnh dạn hơn khi trao đổi với nhau bằng Tiếng Anh, không ngần ngại, lo sợ
vì nói sai, phát âm sai.
Phần lớn các em học sinh đã chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn
bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Trong các giờ học, đa số các em đã tích cực,
chủ động làm việc theo các hoạt động được giao và phát biểu để tìm hiểu bài
học sôi nổi. Ngữ điệu, cách phát âm của các em đã có những tiến bộ nhất định.
Chính nhờ đó mà kỹ năng nói của học sinh nói riêng và chất lượng học
tập môn Tiếng Anh được nâng lên đáng kể. Cụ thể:
Bảng 5. Chất lượng kĩ năng nói cuối học kì I năm học 2018 - 2019
Tổng số

Hoàn thành tốt


Hoàn thành

Chưa hoàn thành
17


66

SL
27

%
40,9

SL
31

%
47,0

SL
8

%
12,1

Kết quả ở bảng 5 cho thấy, chất lượng kĩ năng nói của học sinh cuối học
kì 1 đã có những chuyển biến đáng kể: số học sinh hoàn thành tốt là 27 em
(chiếm 40,9%, tăng 18,2% so với khảo sát đầu năm), trong khi đó số học sinh

chưa hoàn thành là 8 em (chiếm 12,1%, giảm 13,7% so với khảo sát đầu năm)
còn lại hoàn thành 47,0%. Điều này cho thấy, bước đầu các biện pháp mà tôi vận
dụng đã phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng
Anh nói chung và kĩ năng nói tiếng Anh nói riêng là một quá trình lâu dài và
kiên trì. Do vậy, người giáo viên không nên nóng vội mà phải cố gắng tìm các
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học.
Bên cạnh đó, nhờ vận dụng các phương pháp rèn kỹ năng nói Tiếng Anh
một cách linh hoạt và phù hợp với từng bài dạy mà chất lượng tham gia các hội
thi của bộ môn Tiếng Anh trong năm học 2018 - 2019 được nâng cao rõ rệt: nhà
trường luôn có học sinh đạt giải cao các hội thi cấp huyện, cấp tỉnh.
Chính những kết quả đó đã cho thấy rằng song song với việc rèn luyện kỹ
năng nghe, đọc, viết thì rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh là một yếu tố rất
quan trọng để chúng ta đánh giá chất lượng công tác giảng dạy bộ môn Tiếng
Anh.
2.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Trong khi thiết kế kế hoạch dạy học, GV cần nghiên cứu kĩ bài học để
kịp thời bổ sung, thay thế các hoạt động chưa phù hợp đối tượng, qua đó để phát
huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh
- Trong quá trình dạy học, giáo viên cần có các biện pháp hữu hiệu để
giúp học sinh hiểu và nắm vững yêu cầu, chủ đề nói; tạo sự hứng thú, niềm phấn
khởi, sự tự tin, mạnh dạn cho học sinh khi tham gia vào hoạt động nói.
- Thường xuyên quan tâm sửa lỗi phát âm, ngữ điệu, lỗi dùng từ, đặt câu,
diễn đạt cho học sinh trong quá trình nói.
- Giáo viên cần thường xuyên tạo môi trường để tăng cường khả năng nói
tiếng Anh cho học sinh như tổ chức các hoạt động ngoại khóa để học sinh trải
nghiệm, tăng cường kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của từng học sinh về kĩ năng
nói tiếng Anh.
- Giáo viên cần thật sự kiểm soát tốt hoạt động nói của tất cả các học sinh,
hạn chế tối đa việc học sinh dùng Tiếng Việt trong giao tiếp hoặc không tham
18



gia vào các hoạt động nói.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Dạy và học tiếng Anh bậc Tiểu học được xem là nền tảng quan trọng góp
phần hình thành cho học sinh những kĩ năng giao tiếp cơ bản, giúp các em có
thêm nhiều kiến thức, hiểu biết, áp dụng khi lên các bậc học cao hơn.
Để rèn kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 4 có hiệu quả tôi đã áp
dụng một số biện pháp: Tạo sự hứng thú, niềm phấn khởi, sự tự tin, mạnh dạn
cho học sinh khi tham gia vào hoạt động nói; Thường xuyên quan tâm đến phát
âm và ngữ điệu của học sinh khi giao tiếp Tiếng Anh; Tập cho học sinh cách
phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh; Trong khi thiết kế kế hoạch dạy học, GV cần
điều chỉnh các hoạt động để phù hợp với mức độ nhận thức của học sinh, phát
huy được tính tích cực, chủ động của các em; Tăng cường tổ chức các buổi
ngoại khóa Tiếng Anh cho các em trải nghiệm; Tăng cường đánh giá thường
xuyên và coi trọng sự tiến bộ của học sinh về kĩ năng nói tiếng Anh. Việc áp
dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh
lớp 4 bước đầu đã làm cho chất lượng môn Tiếng Anh của nhà trường ngày càng
được nâng lên và duy trì vững chắc, khả năng nói Tiếng Anh của học sinh được
tốt hơn. Các em có phản xạ nhanh khi nghe và nói; phát âm các từ, cụm từ và
câu chuẩn hơn và hay hơn khi có kết hợp ngữ điệu trong câu. Học sinh có cơ hội
luyện tập và sử dụng Tiếng Anh một cách sáng tạo trong những tình huống gần
với đời sống thật của học sinh; duy trì được sự tập trung chú ý của học sinh. Đặc
biệt, học sinh tự tin, mạnh dạn hơn khi giao tiếp bằng Tiếng Anh. Những học
sinh chậm tiến cũng có cơ hội được luyện tập, cũng bị cuốn hút theo không khí
học tập chung của lớp, vượt qua nhược điểm về tính cách của bản thân để mạnh
dạn hơn, để học tốt hơn. Qua đó làm cho giờ học Tiếng Anh trở nên vui vẻ, sôi
nổi và đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, để rèn luyện kỹ năng nói Tiếng Anh có hiệu quả, đòi hỏi

người giáo viên cần phải có phương pháp sư phạm tốt, năng động, thiết kế được
các hoạt động học của học sinh nhằm phát huy tối đa khả năng vốn có của các
em, giúp học sinh chủ động, tích cực và sáng tạo trong các hoạt động nhằm
chiếm lĩnh tri thức một cách tích cực.
Những kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên
cứu đưa ra những biện pháp có tính khả thi cao hơn, phù hợp hơn nhằm góp
19


phần duy trì và nâng cao chất lượng kĩ năng nói tiếng Anh của học sinh nói riêng
và chất lượng bộ môn tiếng Anh nói chung ở trường tiểu học.
3.2. Những kiến nghị đề xuất
3.2.1. Đối với chuyên môn, tổ chuyên môn
Tăng cường tổ chức các chuyên đề sinh hoạt chuyên môn cấp tổ, cấp
trường về kĩ năng nói tiếng Anh cho học sinh
3.2.2. Đối với nhà trường
Lãnh chỉ đạo sâu sát, kịp thời đối với bộ môn tiếng Anh, tạo điều kiện về
cơ sở vật chất nhằm phục vụ cho việc dạy học tiếng Anh được tốt hơn
3.2.3. Đối với Phòng GD&ĐT Lệ Thủy
Nên chăng cần tăng cường tổ chức các mô hình chuyên đề sinh hoạt
chuyên môn liên trường về kĩ năng nói tiếng Anh cho học sinh, rút kinh nghiệm
và triển khai nhân rộng mô hình trong các trường tiểu học.
Trên đây là một số biện pháp của tôi đã vận dụng nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả của việc luyện tập kĩ năng nói Tiếng Anh trên lớp, là nền tảng cho việc
đưa các mẫu câu được học trên lớp ra tình huống thực tế. Trong thời gian có hạn
và sự hạn chế của cá nhân, nội dung trình bày trên không tránh khỏi thiếu sót.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và các cấp lãnh đạo
để bản thân tôi được học hỏi thêm, góp phần hoàn thiện sáng kiến và nâng cao
chất lượng dạy và học Tiếng Anh hiện nay.
Tôi xin chân thành cám ơn!


20



×