Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

5 Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 22 trang )

Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: VỢ NHẶT - KIM LÂN
5 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VỢ NHẶT CỦA NHÀ VĂN
KIM LÂN”
BÀI MẪU SỐ 1:
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình
ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình
cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt
tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc
của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật
đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói
năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như
nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống
nhân dân thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những
điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm
nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật
ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó,
người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng
tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không
còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh
chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng
vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của
hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân


nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc
đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải
lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người
trong xã hội bấy giờ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “
thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Thị có vẻ rón rén,e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi
cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm
của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp,
tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói
dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ
gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi
xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm.
Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng
cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi
bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng,
“nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà
trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.

Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con
người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông
và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến
giữa sân bà sững lại vì thaayscos một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà
cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão
hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa
cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt
động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình
ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám”
trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói
nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay
đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi
hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt
của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 2


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu
thương bà có thể mang lại cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người
đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã
mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn
lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương
giữa người với người luôn bất diệt.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân
Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết
bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một
số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt
văn hóa truyền thống ở thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện thực mà
ông hiểu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất,
với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm chính:
Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt
là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám
1945 bùng nổ nhưng đến sau hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con
chó xấu xí.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian xảy ra

nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính sách cai trị dã
man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của
phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan
thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man
của thực dân Pháp, phát xít Nhật ; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
và niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau : Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa và mấy
bát bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng
giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo,
điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm
cưới chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu
bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của
Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo không,
chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh ngộ, số phận của nhân
vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận
tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm
1945.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo:
Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát

bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng ! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt
này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn
bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng
còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm
chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết nên
người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín
đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy
mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của
dân nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến
diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm
1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên
bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm đằng
trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm ngụ cư tồi
tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi ấy
không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những
xó đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong
bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh
tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày
đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy cảnh : Những gia
đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh
xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không
buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng
bao phủ bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu

quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi nhục trăm bề.
Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng
mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì
cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 5


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

bạnh ra… bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ
tợn… cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên
anh đã đứng tuổi mà vẫn không sao lấy được vợ.
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ
nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng không nhận ra vì
chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời
ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý : Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh
đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng
động lòng thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong
thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy.
Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói của
anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường,
khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa không ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái

thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc
lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công ăn việc làm,
nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ
người đàn bà kia chết đói cho đành?!
Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà còn may mắn tự
nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ
tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà.
Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức.
Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút
ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó
biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi : Trong một lúc,
Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê
gớm đang đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một
cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là
niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia
không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

không đòi hỏi một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi
khác. Từ nay, anh không còn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm chợ…
xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới

những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng
ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết…
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp,
tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã
đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác
chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn
này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng
về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình,
sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng
kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm
tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn
bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan,
mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh Tràng đi
trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu hơi cúi xuống,
cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra
xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng đã thắng cái đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn
có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh Tràng ơi ! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật
cười chửi yêu: Bố ranh! mà trong bụng thì khoái lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai
cũng thấy lạ. Họ bàn tán… Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Từ
trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui.
Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ cư đang
hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này còn rước cái
của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ? Ấy là họ lo cho cái
sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn ?! Sự sống được
tiếp nối như thế nào?


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 7


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát, xống áo… bừa
bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh. Tràng chợt có cảm giác sờ
sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng ma… Có cái gì đó kì dị như
trong truyện ma quỷ thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc. Hai vợ
chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì yên và vui vào bóng tối. Nhưng bóng tối cũng
không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ tê… vẳng ra từ những nhà có
người chết đói.
Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây, chút hạnh
phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và cái chết. Buổi chiều
là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm là tiếng hờ khóc người chết…
Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng
cực thành dữ dội. Có cái gì đó giống như một cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong
tiểu thuyết Đô-xtôi-ép-xki: dữ dội, kinh khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao..Sự sống cứ tồn
tại, bất chấp cái chết. Rõ ràng, ý chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng
nào!
Sau một đêm, Tràng thấy mình hoàn toàn đổi khác: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con
sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra.
Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải… Mình đã có vợ thật
rồi sao ? Ai vậy ? Cưới bao giờ nhỉ ? Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật
một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Chuyện xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin,
nhưng cái cảm giác êm ái lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ

ràng trước mắt, người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.
Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt hình thức)
giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng. Cái bên ngoài
không đẹp ấy lại chứa đựng một nội đung thật đẹp, thật cảm động.
Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng
của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, không khí gia đình anh trở nên
khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm.
Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với
nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái
ở đấy. Cái nhà như cái tổ ẩm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm động.
Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu ; nhưng với Tràng thì đó là cả một
ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 8


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người
này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và
niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người đàn bà
ấy không có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm nhận dạng công
không nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu? Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào?
Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc

để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có việc gì thuê mướn thì làm.
Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa… trên
cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là một trong hàng triệu
con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết
gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.
Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có
hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới xin tử tế.
Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm cơm trình tổ tiên, ông
bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.
Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại quý hóa như cô tiểu thư con quan trong Lí ngựa ô, đem
lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công sức, tiền của mới cưới
được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo không, chẳng cưới hỏi gì).
Xã hội, gia đình không chấp nhận những cuộc hôn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà
trong truyện lại là vợ nhặt – Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi
trên đường.
Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của
bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt, cười tít. Chuyện
đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này không để lại dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì
thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị ta bởi: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi…
gầy sọp hẳn đi…
Chị ta đói. Đói lắm ! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời ăn và ăn
liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trò gì mải mê như chưa từng
được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy
lùi nhân cách.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy khiến Tràng
động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên
xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.
Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm gì. Nghĩ
cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng", chị ta chả biết nói gì và tỏ ra ngượng ngùng
khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tò mò.
Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi nương tựa
cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng vừa tủi phận. Lúc
gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hòi thế nào cho phải.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngoài ra không
biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật hay giả), vậy
mà đi theo một cách dễ dàng, không đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc
kệ ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã, vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính
trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới
biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần
thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà ? Sao chị không dám ngồi cho ngay ngắn, đàng hoàng
? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ ? Hóa ra cái dáng ngồi rụt rè, chông chênh ấy kì thực
cũng là cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị không? Mái
nhà này có phải là nơi để chị dung thân không? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa
xảy ra không phải là thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc
lớn nhất của đời con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu ? Buồn lắm! Tủi lắm ! Trăm
mối ngổn ngang. Chị không nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau không
trào ra theo nước mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.
Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn : Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chạo chát như mấy

lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng
tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy. Nếu hôm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt
đẹp ở chị thì hôm nay, chị bắt đầu có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân
nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối
của mẹ con Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với
cảnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc
đơn sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách của
người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc. Tấm lòng
nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái xa lạ ngồi ở giường
con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà càng chẳng hiểu gì và cố nhìn cho
kĩ mà vẫn không nhận ra chị ta là ai. Bà phân vân, đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa
nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp
con mình… Ra thế ! Thằng con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…
Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà không làm tròn bổn phận đối với con cái. Trăm sự cũng
tại cái nghèo mà ra : Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Bà lọ lắng thực sự : Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó
của hai mẹ con, bà lại tự an ủi : Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới

lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận nàng
dâu mới. Bà cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn
bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…
Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên ông bà,
sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất
biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu. Bà chỉ biết nói với các con
những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi…
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.
Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa…
Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy
lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo loãng
với muối hột nhưng bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này :
– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem…
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của dân tộc.
Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm niềm tin, niềm vui
sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý
chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi
ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:


Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì.
Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy…
Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà khen ngon
đáo để và so sánh : Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có cám mà ăn như thế
này là còn may lắm!) Chao ôi là khổ ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cám thấy ngon?
Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó
không dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn
thành vui. Bà cố tươi cười, đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, còn tác giả và chúng ta
thì khóc. Khóc vì thương, vì quý tấm chân tình của bà.
Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia đình, vậy
mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống, vào tương lai : Ai
giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì miếng cơm manh áo, họ buộc
phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà sống.
Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai đoạn ngặt nghèo
trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba người một tương lai tốt
đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngoài đình
bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài
bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám
mây đen…
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến tận nơi sâu
thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.
Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít Nhật và
bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày trên từng trang viết
và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già : Trống thúc thuế đấy. Đằng thì
nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu
các con ạ… Người con dâu nhắc chuyện trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng

không đóng thuế, lại còn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy
gợi cho Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đô Sộp. Đằng
trước có lá cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ hiểu ra,
anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng cần phải làm như thế vì
không có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đoàn người phá kho thóc của Nhật, thế nào
cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi
vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt truyện
đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản với nhau. Bản
chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngoài, sự sống tương phản với cái
chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện. Tác giả không miêu tả kĩ
hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong
cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ
thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ông khẳng định sự đói khát, không tiêu diệt được bản tính tốt
đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong
hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một
tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả,
bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm trong
truyện đáng quý biết chừng nào!


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn
hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần
hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ
cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và
cuối cùng, truyện ngắn \"Vợ Nhặt\" ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm
sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống
của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên
truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân
đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về
sự khốn cùng và bi thảm.Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con
người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương
lại. Họ vẫn muốn sống, "sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về
cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân
tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn
ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt
chúng ta một không gian đói thật thảm hải ,thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng

khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống
đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi
cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được
thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối
thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu
Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình.
Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người
chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người
dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau
khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu
Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 14


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám
như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác
người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật
không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của
Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như
Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và
xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi
anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ

Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và
xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm
sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao
ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của
Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy khong hề
mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những
người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng”
như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu
thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường
như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn,
Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình.
Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có
một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.Tình yêu , hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường
như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và
Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy
không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng
không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người
chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn
đã bừng bừng thèm múôn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của
hắn đến lạ lùng”, “hắn thấymình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm
xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình
thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy
đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn
nghĩ đến đám người đsoi và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn
và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 15


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người . Đêm tố ấy rồi sẽ qua đi để
đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của thời đại. Một lần nữa,
Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ
nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nèn, tăm tối ấy, đã làm cho những
khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn
đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?
Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát
bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào cảu Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị.
Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kếin đã bóp nghẹt quyền sống
của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách
bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm ahị nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho
Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem
đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một
niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị,
Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi
sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con
người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh
phúc , vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại
khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng : tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập
trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Baf cụ Tứ đến giữa câu
chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu

nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta tấhy rõ hơn
ánh sáng cảu tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn múôn nhân vật nổi bật
cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự
đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính
nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức ngươờ mẹ nghèo vốn thương
con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiệ cua rmột người đàn bà trong nhà mình
mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu
nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi
tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lâẫ vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi
thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót
thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình,
mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói , chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 16


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

có ý nghĩa vô cùng “Thôi , chúng máy đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng
lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé
trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải
là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương
chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ
những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình
người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng

vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của
tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói
nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc
sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà
lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm ahị. Bà đã đón nhận hạnh phúc
của các con để tự sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi
chè cám nghẹn * cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu
thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”.
Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không
khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng
dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề
tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân
vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào
cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật
:Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những
điếm áng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề
tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được
đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ
sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn
mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói
chung, về đề tài nạn đsoi nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc
xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng
tuyệt vời nhất.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 17



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 4:
“Vợ nhặt” là tác phẩm ưu tú của nhà văn Kim Lân, viết về cuộc sống nghèo đói, khổ cực và
khát vọng về hạnh phúc tương lai tươi sáng của người nông dân Việt Nam trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Qua đây tác giả cũng bày tỏ sự cảm thông với những số phận bất
hạnh của những con người đói khổ trong thời chiến và yêu thương, quý trọng đối với những
ao ước giản dị của họ, từ đó tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.
Ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”, tác phẩm đã gợi lên sự tò mò và từ đó dẫn dắt người đọc khám
phá về cuộc sống của những con người đói khổ, bần hàn nhất. Chuyện dựng vợ gả chồng
vốn là một chuyện hệ trọng của cả một đời người, chính vì thế việc này cần được xem xét kĩ
lưỡng vậy mà ở đây lại là “vợ nhặt”. Cưới vợ mà lại gọi là nhặt vợ được sao? Một con
người được “nhặt” về rồi trở thành vợ gợi cho người ta liên tưởng đến việc nhặt một món
đồ, như thể một thứ gì đó được lượm lặt một cách vô tình và ngẫu nhiên từ ngoài đường.
Chỉ riêng nhan đề tác phẩm mà tác giả cũng đã để lại sự ám ảnh đối với người đọc. Điều gì
đã khiến cho con người ta trở nên rẻ rúm như vậy? Kim Lân chính là đã mượn chuyện nhặt
vợ để nói lên một vấn đề khác. Đó chính là cái đói, cái nghèo của người nông dân trước
Cách mạng. Khi đó, chính cái đói nghèo đã khiến cho con người lâm vào tình cảnh đáng
thương đến như vậy.
Nhan đề cũng đã một phần hé lộ tình huống truyện độc đáo. “Vợ nhặt” chứ không phải cưới
xin đình đám gì. Hẳn là một con người mà chẳng khác nào một món đồ vứt chỏng chơ ngoài
đường và vô tình có người “nhặt” về. Mà đúng thế thật. Anh cu Tràng chỉ với vài câu “tầm
phơ tầm phào” mà có người phụ nũ theo về làm vợ. Khốn nỗi anh ta có bảnh bao, hấp dẫn
gì: vừa xấu trai, vừa dở hơi, lại vừa là dân ngụ cư nghèo kiết xơ kiết xác. Vậy mà Tràng lại
có vợ. Tràng cưới vợ, đúng hơn là nhặt được vợ giữa cái cảnh đói khát khốn cùng này. Tình
huống truyện thật đầy bất ngờ mà cười ra nước mắt. Qua tình huống này, các nhân vật đều
bộc lộ những tâm trạng, tính cách nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật, về hoàn

cảnh cũng như số phận của con người.
Nhà văn Kim Lân đã thật tài tình khi đi sâu phân tích tâm lý đan xen, phức tạp của từng
nhân vật trước tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Người trong xóm “xì xào bàn tán”, người
thì “cười lên rung rúc”, người lại lo giùm cho anh ta: “Ôi chao! Giời đất này còn lôi cái của
nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?”.
Mẹ Tràng, bà cụ Tứ, là người hiểu rõ tình cảnh của nhà mình, con mình nhất cho nên càng
khó tin Tràng có vợ. Thấy người đàn bà lạ đứng ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác
tự hỏi: “Quái sao có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế
nhỉ?” Cái ngạc nhiên, nghi vấn của bà cụ cũng dễ hiểu bởi lẽ, nghèo như con trai bà thì ai
thèm lấy. Vả lại trong cơn đói khát thế này, nuôi thân còn chả nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 18


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Khi đã hiểu đã ra vấn đề thì “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai dòng nước
mắt”. Trong lòng người mẹ nghèo hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Bà mừng vì con trai bà dù
sao cũng đã có vợ, nhưng buồn tủi vì “người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng mới có vợ được..”.
Đối với Tràng, bản thân anh cũng rất lấy làm lạ. Nhìn vợ ngồi ngay giữa nhà, anh “vẫn còn
ngờ ngợ như không phải thế”. Lòng người mẹ lo nghĩ bao nhiêu thì anh cu Tràng lại vô tư
bấy nhiêu. Mới đầu cũng “chợn” nghĩ nhưng rồi anh chặc lưỡi “mặc kệ”. Trên đường đưa
vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “hắn lại lầy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự
đắc với mình’. Việc có vợ đối với Tràng đột ngột và hạnh phúc tới mức đến sáng hôm sau
anh vẫn còn thấy “trong người êm ái lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra”.
Trái ngược với tâm trạng hân hoan của Tràng, lo lắng của bà mẹ thì có lẽ người phụ nữ làm

vợ Tràng lại cảm thấy buồn tủi nhất. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng, là trao gửi cả cuộc
đời của mình cho một người đàn ông mà mình tin tưởng. Vậy mà ở đây thị nào có biết
Tràng tốt xấu ra sao. Chỉ một câu hò bâng quơ và bốn bát bánh đúc là “đủ tin tưởng” để
theo về nhà người ta. Cái đói đã đẩy con người ta đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất
hết ý thức tự trọng, nhận ra mình không hơn gì rơm rác cọng cỏ mà người ta có thể lượm
nhặt vu vơ nơi đầu đường xó chợ. Thế nhưng buổi sáng hôm sau, khi Tràng nhìn thấy thì chị
ta đã trở thành một người vợ hiền, một cô dâu thảo, khác hẳn với cái vẻ chao chát hôm đầu
tiên Tràng gặp.
Đi sâu vào tâm lý của từng nhân vật, Kim Lân đã cho người đọc thấy một bức tranh hiện
thực sống động trong nạn đói 1945. Ở đó, con người ta chỉ toàn là nghèo khổ, tối tăm nhưng
lại ngời sáng lên phẩm chất tốt đẹp. Hành động cưu mang người phụ nữ nghèo đói hơn mình
đã cho thấy Tràng là một người hào phóng và nhân hậu. Mẹ Tràng cũng vừa mừng vừa tủi
chấp nhận nàng dâu mới, không những thế bà còn góp thêm câu chuyện bằng những niềm
hy vọng về tương lai tươi sáng để xua đi nỗi tăm tối của đói nghèo đang vây bủa.
“Vợ nhặt” đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng về mái ấm
gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên
niềm hy vọng của họ về một tương lai tốt đẹp hơn.
Tràng đã nhận thấy mình gắn bó với căn nhà, thấy mình “có bổn phận phải lo cho vợ con
sau này” và nghĩ đến một tương lai “cùng vợ sinh con đẻ cái” rồi ăn nên làm ra. Bà cụ Tứ
cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn
lên”. Bà còn tính “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. […] ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà
có ngay đàn gà cho xem”. Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành
hành, giữa nồi cháo cám đắng chát nhưng nó vẫn làm cho thị cảm thấy vui vẻ và hiền dịu
hơn. Từ đây, thị sẽ cùng chồng chăm lo, vun vén cho gia đình những mong một ngày số
phận sẽ mỉm cười rộng lượng hơn.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 19



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Viết về nạn đói năm 1945, khắc họa thực tế cảnh người chết đói như ngả rạ, thế nhưng Kim
Lân không đi vào những cảnh thương tâm như thế mà qua sự việc anh cu Tràng nhặt được
vợ để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả. Vượt lên trên tất cả những lo lắng,
tủi hờn là niềm hạnh phúc và tình yêu thương của con người bừng sáng. Với truyện ngắn
này, Kim Lân đã bày tỏ sự yêu quý sâu sắc đối với những người nghèo khổ nhưng giàu lòng
nhân ái. Tác phẩm đã khẳng định rằng: cái đói khát, chết chóc không thể giết chết được
niềm tin vào cuộc sống. Ở nơi tối tăm nhất, nghèo đói nhất thì con người ta vẫn biết cách
nương tựa vào nhau mà vượt qua để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 20


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
Một trong những ông hoàng của truyện ngắn đề tài nông thôn Việt Nam là nhà văn Kim
Lân. Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm xuất sắc của ông thời kì hòa
bình lập lại là "Vợ nhặt".
"Vợ nhặt" được viết năm 1955, được in trong tập "Con chó xấu xí"(1962). Truyện có tiền
thân từ tiểu thuyết "xóm ngụ cư"- viết sau cách mạng thánh tám còn dang dở. Tuy nhiên đã
bị mất bản thảo nên hòa bình lập lại, Kim Lân đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn
này.
Kim Lân đã rất thành công trong việc xây dựng tình huống truyện. Nhà văn đã sáng tạo ra

một tình huống độc nhất vô nhị: anh cu Tràng nhặt được vợ giữa những ngày tối sầm vì đói
khát. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu tầm phơ tầm phào. Truyện ngắn được lấy bối
cảnh của nạn đói năm 1945. Từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
Do phát xít Nhật bắt nhân dân ta thu thóc nhổ lúa chồng đay. Thực dân Pháp vơ vét tài
nguyên tăng thuế. Một bối cảnh tang thương đầy bi kịch:
"Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đống thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi".
Ấn tươngh với người đọc đầu tiên là nhan đề tác phẩm. Có thể nói nhan đề đã thâu tóm
được giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm: "Vợ nhặt". Ai cũng biết "vợ" là một trí quan
trọng trong gia đình, " vợ là bạn, là mẹ các con ta". Muốn lấy vợ phải tìm hiểu, phải hỏi
cưới. Lấy vợ là việc hệ trọng trong cuộc đời. Nhưng vợ lại đi kèm với "nhặt". Nếu nói theo
ngôn ngữ của Kim Lân, "nhặt" nghĩa là nhặt nhạnh vu vơ. Hai từ này kết hợp với nhau tạo
thành nhan đề của tác phẩm đã thể hiện thân phận dẻ dúng của con người. Nhan đề này đã
thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 qua đó tố cáo tội ác của bọn phát xít
Nhật và thực dân Pháp. Không chỉ thế nó còn thể hiện sự đùm bọc yêu thương, khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, đồng thời cũng hé lộ tình
huống truyện độc đáo của tác phẩm.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 21


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Truyện kể về nhân vật Tràng nghèo, xấu trai, nhặt được vợ trên thảm cảnh của cái đói, bên
bờ vực cái chết. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam
Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma,
và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong
làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Trong cái hoàn cảnh tăm tối
ấy, việc Tràng có vợ không biết nên vui hay nên buồn. Ai nấy đều ngạc nhiên. Bọn trẻ con
trong xóm trêu chọc, "cong cổ gào lên lần nữa – chông vợ hài". "Người trong xóm lạ lắm.
Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng
dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy
của họ". Nhưng ngay sau đó họ lại lo cho anh với tiếng thở dài ngao ngán: "ôi chao! Giời
đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không?".
Người dân trong xóm là vậy, còn bà cụ Tứ – mẹ Tràng thì ngạc nhiên sững sờ, buồn vui lẫn
lộn. Lòng người mẹ nghèo khổ đã hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự. Bà vui mừng vì con trai
mình đã có vợ. Bà buồn tủi vì con mình có vợ giữa buổi nghèo nàn đói khát. "Chao ôi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con
đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì….". Rồi bà lại lo lắng thở dài… Tất cả diễn biến tâm
trạng của bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả hết sức sâu sắc. Bà cụ Tứ là tiêu biểu cho
những bà mẹ nghèo Việt Nam thời kỳ lúc bấy giờ. Các tuyến nhân vật trong tác phẩm còn
có Thị. Thị là vợ anh cu Tràng. Thị không có tên, xuất hiện trong tác phẩm không quá khứ
hiện tại và tương lai. Nhưng vai trò của Thị là rất lớn. Vừa là nhân vật tố cáo thẳng thắn tối
ác của bọn phát xít, thực dân vừa làm tăng thêm tư tưởng tác phẩm. Chính nhân vật Thị là
người đưa tư tưởng cách mạng vào tác phẩm.
Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm này chính là khả năng xây dựng tình huống truyện độc đáo
hấp dẫn, tài năng miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế tự nhiên; cách kể chuyện lôi cuốn hấp dẫn
cùng với ngôn ngữ nông thôn mộc mạc, giản dị. Với đặc sắc nghệ thuật này, truyện ngắn
"Vợ nhặt" đã trở thành ngọn lửa tình người thắp giữa đêm đen giá lạnh của cuộc sống, là lời
khích lệ động viên con người hướng tới tương lai.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!


Trang | 22



×