Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

7 bài văn mẫu phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyến Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.63 KB, 21 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
7 BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ
QUA BÀI TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN
TUÂN
BÀI MẪU SỐ 1:
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm
gắn bó với đất nước q hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách
nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đị Sơng Đà, đó là một bài tùy bút,
cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được nhưng nét tiêu biểu về phong cách đó.
Người lái đị sơng Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sơng.
Nhưng dưới ngịi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở
thành những cơng trình mĩ thuật, con ngưõri đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của
mình.
Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu
có, chuẩn xác Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình
tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đị trên sơng Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già 70 tuổi đã giành
một phần lớn đời mình cho nghề lái đị dọc trên sơng Đà. Đó là một người lái đị lão luyện:
“Trên dịng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu
chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt
đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào
lịng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân
tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đị ấy,
như một trường thiên anh hùng ca mà ơng đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu
và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và
cũng “rất là Nguyền Tn”.
Hình tượng người lái đị với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to
gọn quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng
trai”, “trẻ tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước


những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy


đầy kinh hồng: khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây
từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất
hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là
một số hịn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hị la vang dậy quanh
mình, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối
bụng và hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm
thắt lưng ơng đị địi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc
tưởng như ơng lái đị bị nhấn chìm dưới dịng sơng... Các miêu tả chân thực và táo bạo này
cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ
tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ cùa người cầm
lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đị sơng Đà
với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe cịn có phanh
chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái
phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền
quay ngang mà ụp, chứ khơng có lùi gì cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với
những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một
cái bẫy nguy hiểm riêng, địi hỏi người lái đị phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì
nước sơng “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải
đóng vào một cái nắp ấm nước đang sơi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết
ngay”. Lại có những “hút nước" xốy sâu như lịng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dịng sơng Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ơng
lái đị cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch
đi” vì những địn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn

gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sơng, Nguyễn Tn nhắm
đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ
đại của ơng lái đị, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đị về đến bến bình n,
khơng phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.
Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác.
Dịng sơng vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sơng nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”


Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho
đoạn văn một sức lơi cuốn khơng thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người
lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đị, cả sau khi đã thơi nghề vài chục năm, trên ngực người
lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý
giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một cơng trình nghệ thuật
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc sống, về
văn hóa và lịch sử địa lí, về ngơn ngữ... tác phẩm đích thực ấy cịn là một khối kiến trúc
thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của thiên
nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động: Người lái
đị sơng Đà.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.


BÀI MẪU SỐ 2:

Nguyễn Tuân là một người tài hoa, và đa tài. Những tác phẩm của ông đều mang
những đặc điểm rất độc đáo khơng ai có thể học theo. Và như một điều rất tự nhiên những

lời lẽ trong văn ông rất nghệ thuật chứa đựng những kiến thức hiểu biết sâu rộng. Những
nhân vật trong các tác phẩm của ông nghiễm nhiên là một nghệ sĩ, và cịn là những nghệ sĩ
tài hoa. Nhân vật ơng lái đị trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tuân là một
nhân vật như thế.
Nguyễn Tuân đã khoác một chiếc áo mới vào văn chương của nền văn học Việt Nam,
với những câu chuyện cũ nhưng cách khai thác mới đã khiến độc giả đón nhận. Và trong tác
phẩm “Người lái đị sơng đà” dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên
sông Đà hiện lên vơ cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng. Điều này góp phần làm nên
một tấm phơng rất phù hợp để hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên
với hai phẩm chất, anh hùng và nghệ sĩ. Và tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần
hai mươi năm chiến đấu với thác đá sóng nước sơng Đà để tồn tại.
Có thể thấy ơng là người có“tay lái ra hoa”. Qua những trang văn, hình ảnh ơng lái đị
hiện lên đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước:
gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe và được miêu tả với “thân hình gọn qnh như chất
sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái
đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”…chỉ với
những nét vẽ mộc mạc mang tính gợi vậy mà hình tượng ông lái đò như là một anh hùng
trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời
gắn với nghề lái đị và ơng giống như một nghệ sĩ thực thụ.


Bao nhiêu đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tn được gửi gắm vào nhân vật
ơng lái đị, chính vì thế nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sơng Đà đến mức máu
thịt, ơng lái đị có thể hiểu và u dịng sơng đến mức thuộc lịng từng tên thác tên ghềnh
hơn một nghìn tên. Trong cách miêu tả của Nguyễn Tn, Ơng lái đị thuộc dịng sơng như
thuộc một “bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn
xuống dịng”. “Ơng lái đị đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ơng lái đị đã khuất phục, chế ngự
được sự hung bạo của dịng sơng Đà.
Người lái đị là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí

dũng song tồn nên ơng vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã
Mảng thứ hai mà Nguyễn Tuân muốn khắc họa đó chính là tính cách của ơng lái đị.
Nó cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đã qua ba thạch trận.
Những trận chiến của người với thiên nhiên được miêu tả một cách tỉ mỉ chi tiết.Trước hết
là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được
nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm
cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng
điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy
theo sở thích”. “ăn chết”, ‘cánh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những
tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi
bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế khơng cân sức
với ơng lái đị chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp
phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho


đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra
các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…
Với sự hiểu biết rộng lớn của mình. Nguyễn Tuân đã mở mang tầm kiến thức của
người đọc. Tác giả sử dụng kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của
sự sống, cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc
để cực tả đá nước sông Đà. Và đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng gián tiếp ca ngợi
chí dũng của ơng lái đị. Nhà văn ca ngợi ơng lái đị có sức chịu đựng phi thường.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động
từ mạnh vẫn tiếp tục được sử dụng trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh
nhân hóa rất độc đáo. Những phép nghệ thuật này giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm
thiêng, sơng nước tăng thêm sức mạnh để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ơng lái đị.
Khi miêu tả ơng lái đị. Ơng lái đị “khơng chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá ln vịng vây
thứ hai và đổi ln chiến thuật”, “ơng đị nắm chắc binh pháp của thần sơng, thần đá, ơng đã
thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế

“cưỡi lên thác sơng Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt
đôi thác để mở đường tiến. Lại với những động từ mạnh liên tiếp lại khiến người đọc đi vào
cuộc chiến của sóng nước để từ đó tơn vinh lên những nét đẹp của ơng lái đị đó là mưu trí,
dũng cảm, kiên cường. Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến
ơng lái đị phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt
nước như nghệ sĩ lái mơ tơ bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động
từ mạnh “vút” hay “xuyên” cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm
nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi
luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Cách ơng lái đị chế ngự những trận đồ và nghệ thuật
lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn tồn tâm phục, khẩu phục. Ơng đã đạt đến mức
nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Qua “ Người lái đị sông Đà” chúng ta càng phải khẳng định Nguyễn Tuân đích thực là
một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao
nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ơng lái đị. Người dân lao động
hiện lên với vẻ tài hoa và như một nghệ sĩ thực thụ với nghề của mình.


BÀI MẪU SỐ 3:

Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. "Người lái
đị Sơng Đà" trích trong "Tùy bút Sơng Đà" (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế đến
với Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm "chất vàng" của thiên nhiên và chất vàng mười trong
tâm hồn con người. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Sơng Đà với hai nét tính cách hung
bạo và trữ tình. Và nổi bật bên hình tượng ấy là người lái đị dũng cảm tài hoa trên sông
nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là khơng có tên gọi cụ thể mà tên của
ông gắn liền với nghề nghiệp, địa danh: "ơng lái đị Lai Châu". Điều này thể hiện, ông là đại
diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sơng nước, cần mẫn. Người lái đị là một ơng lão 70 tuổi.
Ông đã dành một phần lớn cuộc đời của mình để lái đị dọc trên Sơng Đà. Bây giờ ông đã
thôi nghề khoảng mười năm." Trên sông ông xi ơng ngược trên 100 lần, giữ tau lái chính

khoảng 60 lần". Chỉ bằng vài câu ngắn gọn giới thiệu về người lái đị, độc giả phần nào đã
hình dung ra ngoại hình và tố chất của ơng. Đọc tiếp tác phẩm, ta có thể thấy được điều đó.
Ơng lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên
bởi nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. "Tay ông lêu nghêu như cái sào,
chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ơng ào ào,
nhỡn giới cao vịi vọi". Nguyễn Tn gọi con người này là "thứ vàng mười" bởi ông đã
đứng trước thử thách và chiến thắng Sông Đà. Trước hết ở ơng lái đị Lai Châu là người tài
hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ. Ơng tài trí, từng trải, lão luyện
trong nghề, đạt đến trình độ "lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng tất cả những
luồng nước của những con thác hiểm trở". Nguyễn Tuân đã bày tỏ lòng khâm phục của
mình đối với người lái đị bằng cách so sánh, liên tưởng độc đáo "sông Đà đối với ông lái đò
như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than và cả đoạn xuống
dịng". Ơng thuộc rõ quy luật phục kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Lòng dũng cảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên
như một kẻ thù nham hiểm xải quyệt, khơng chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác nước
mà cịn bầy binh bố trận "bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá". Đá mai phục ngàn năm
bày binh bố trận những binh pháp tơn tử. Ở vịng này gồm năm cửa trận, bốn cửa tử, một
cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Phối hợp với đá và thác nước hò la
vang dậy làm thanh điệp cho đá. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức cịn sóng nước
như qn liều mạng. Nhưng ơng lái đị vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra trận địa
sóng. Ơng cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ chiến. Đến


vịng hai, sơng Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử hơn, chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn. Dịng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy qn cửa ải xơ ra níu thuyền vào
cửa tử. Ơng lái đị cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sơng như cưỡi trên lưng hổ. Ơng nắm
chắc bờm sóng, ghì cương lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy qn cứ ào nước xơ ra
níu thuyền vào cửa tử. Dịng sơng như con thú hoang lồng lên địi ăn chết con thuyền.
Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông thần đá không hề nao
núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng Sơng Đà. Bị thua ơng lái đị ở hai

vòng trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng dữ dội hơn. Ít cửa ra vào,
bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh voi đá vọng về xong ông lái đị
vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút vút qua cánh cổng đá để rồi chiến
thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm tài ba, người lái đị yển sơng còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau
cuộc vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến "sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ". Họ lại
đốt lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì xảy ra".
Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ đẹp của một
tâm hồn nghệ sĩ.
Trong xây dựng nhân vật ơng lái đị, Nguyễn Tn chú ý khắc họa nét tài hoa của nghệ
sĩ "nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp". Nhà văn chú ý tạo tình huống thử
thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sơng Đà càng hung bạo bao nhiêu, người lái đò
càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự, thể
thao kết hợp với nghệ thuật miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ phong phú để
làm nổi bật sơng Đà và người lái đị Sơng Đà. Tóm lại, thành cơng trong xây dựng nhân vật
ơng lái đị Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm trong nền văn học nước nhà.


BÀI MẪU SỐ 4:

I. MỞ BÀI
Có 2 cách viết mở bài:
Giới thiệu tác giả tác phẩm
Giới thiệu về người lái đị Sơng Đà
Tuỳ bút "Người lái đị sơng Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người
đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang
sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây
dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy
chính là người lái đị sơng Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là

người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
II. THÂN BÀI
1. Lai lịch và ngoại hình người lái đị sơng Đà
Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền
và đã nghỉ làm nghề đơi chục năm. Nhưng mười năm người lái đị đã in dấu ấn khá đậm ở
ngoại hình ơng lão : Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh,
gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh sơng, nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong
sương mù.Những dịng này được nhà văn viết ra khơng chỉ để giới thiệu ngoại hình một con
người mà cịn để ca ngợi sự gắn bó, u q nghề ở chính người đó. Nguyễn Tn là nhà
văn ln nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thơng tin” ở đó khơng bao
giờ chỉ ở một tầng hiển ngơn
2. Tính cách người lái đị sơng Đà
>>> Sự từng trải:
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải,
thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết : người lái đị cịn là một linh hồn
mn thuở của sơng nước này; ơng làm nghề đị đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi,
ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ơng giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của
người lái đị cịn thể hiện, dịng sơng Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà
nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lịng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở.
Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc


lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dịng. Khơng phải bỗng
dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời
gian ơng lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của
với nghề đến độ kỳ lạ ở ơng lão lái đị. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của
chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở
sơng Đà
"Sơng Đà đối với ơng lái đị ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu

chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng".
>>> Lòng dũng cảm :
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sơng Đà, ai chế ngự được nó địi hỏi phải có
lịng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa
nhân vật của mình vào ngay hồn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được
bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc
chiến đấu gian lao của người lái đị trên chiến trường sơng Đà, trên một qng thuỷ chiến ở
mặt trận sơng Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi,
nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số
một :
… Ngoặt khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn
năm vẫn mai phục hết trong dịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở
quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhơ vào đường ngoặt sơng là một số
hịn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hịn đat nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào
cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi
hịn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sơng. Đám tảng hịn chia làm ba hàng chặn
ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc khơng cịn biết lùi đi đâu để
tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Khi sơng Đà tung ra miếng địn hiểm độc nhất là nước bám lấy
thuyền như đơ vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
bạt, ông lão vẫn khơng hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con
thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò
“phá ln vịng vây thứ hai”. Ơng lái đị đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá. Đến
vịng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động
“tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh
mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.



Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tn có nghĩa rộng, khơng cứ là
những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ
thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.
Trong người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ
mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất
yếu của sơng Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình
tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những
khúc sơng khơng có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân
khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão
lái đị vừa thuộc dịng sơng, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc
binh pháp của thần sơng thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ơng thật khơn khéo, bình tĩnh như vị
chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp
nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác:
Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sơng nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái
hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng
chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân
tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác
phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một
lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào
cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng khơng có gì là hồi hộp, đáng
nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng
nhìn người lái đị tài hoa, người lái đị chỉ có Nguyễn Tn. Và, lời ghi chú của nhà văn thật
đáng để suy ngẫm !
III. KẾT BÀI
Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn là nhân vật chính diện ln

được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng
Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong q khứ thì nay, trong
Người lái đị sơng Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở
ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước. Cuộc
đời của người lái đị vơ danh, khơng tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo
kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà
trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên
nhiên, qua ngịi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.


BÀI MẪU SỐ 5:

Mở bài:
Nguyễn Tuân không chỉ say sưa với vẻ đẹp “trữ tình thơ mộng và rất gợi cảm” của
con sơng Đà, mà ơng cịn hết lời ca ngợi nhân vật người lái đị. Bằng ngơn ngữ giàu có, tinh
tế như khắc, như chạm, với lối cảm nghĩ độc đáo, thích nhìn sự vật và con người trên quan
điểm thẩm mĩ, văn hoá, với sự lịch lãm, vốn hiểu biết uyên bác về nhiều lĩnh vực khoa học.,
Nguyễn Tn qua tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà” (In trong tập “Sơng Đà”- 1960), đã xây
dựng được một hình tượng rất hấp dẫn mang đậm phong cách Nguyễn Tuân. Đó là một
người lái đị khơng chỉ trí dũng tuyệt vời mà còn là một người nghệ sĩ rất mực tài hoa trong
công việc lao động sông nước, trong nghệ thuật leo thác vượt ghềnh của mình.
Thân bài
Ý1: Lai lịch và chân dung ngoại hình
Bằng hệ thống ngơn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc
đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh một
ơng lái đị có ngoại hình đặc biệt ấn tượng “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc
nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như
tiếng nước trước mặt ghềnh sông. Nhãn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng mong một cái
bến xa nào đó trong mù”. Người ta nói rằng làm cái nghề lái đị trên sơng hiểm ác lắm thác
nhiều ghềnh này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đị của Nguyễn Tn đã cải chính một cách

hùng hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc nhưng
còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng, chất
mun”, “ơng giơ đơi tay cịn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm tưởng là “mình đang
đứng trước một chàng trai”…
Đặc điểm ngoại hình đặc sắc ấy tự nó đã nói lên một cách đầy đủ với độc giả: con
người này như được sinh ra từ sóng, thác hung dữ của sơng Đà và là “một linh hồn muôn
thuở của sông nước này”… “ông làm nghề chèo đị đã mười lăm năm liền, trên dịng sơng
Đà, ông xuôi ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông đã giữ lái độ sáu chục lần…”.
Cảnh sông nước lên thác xuống ghềnh nhiều hiểm nguy đã tôi luyện cho ơng lái đị nhiều
giác quan và phẩm chất đặc biệt. Ông đã trở thành một con người lão luyện, lắm từng trải,
hiểu biết thành thạo cái nghề sông nước độc đáo của mình: “Trí nhớ ơng được rèn luyện cao
độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào luồng tất cả những luồng nước của
tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân đã dành cho ơng lái đị những câu văn, hình
ảnh đầy thán phục “sơng Đà, đối với ơng lái đị ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà
ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Thật là


một cách so sánh giàu tính chất nghệ thuật rất mới lạ hấp dẫn mà cũng rất Nguyễn Tuân.
Con người được Nguyễn Tuân giới thiệu như là một người được mọc lên từ “con sông Đà
hung dữ độc ác khét tiếng với bảy mươi hai con thác hiểm nghèo” ấy đã có một khả năng kì
diệu là chế ngự con sông hung dữ thành một môi trường sống thân thuộc, êm dịu của mình.
Ơng lái đị tâm sự “Chạy thuyền trên khúc sơng khơng có thác nó dễ dại tay, dại chân và
buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo”.
Ý2: Ông lái đị rất mực tài trí, dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy hiểm
nguy.
Nhân vật người lái đò với những đặc điểm ngoại hình và lai lịch có một không hai ấy,
nếu xuất hiện trên khung cảnh sông nước êm đềm, phẳng lặng trong cuộc mưu sinh, thì hẳn
là khơng thể gây được một ấn tượng gì sâu sắc cho người đọc. Ở đây, Nguyễn Tuân đã có
dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách
khốc liệt nhằm làm bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật. Nguyễn Tuân khẳng

định: “Ông muốn ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đị trên
chiến trường sơng Đà, trên một qng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà”. Nguyễn Tuân đã mô
tả một cách chân thật, sinh động, vừa trân trọng, vừa u thương, vừa cảm phục nhân vật
ơng lái đị rất hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy
hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân diễn ra như một trận đánh
dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dịng sơng
bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Lúc này, sông Đà reo lên như đun sôi 100º,
muốn hắt tung đi cái thuyền đóng vai một nắp ấm khổng lồ… Đá ở đây từ ngàn năm vẫn
mai phục trong lịng sơng để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sơng với những
bom ke chìm và pháo đài nổi. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá…
phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng, thuỷ thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn
kiến thức văn hố khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, vũ thuật, thể dục,
thể thao, điện ảnh… của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thuỷ chiến ác liệt
giữa người lái đị và sóng, thác sơng Đà. “Sóng nước thúc gối vào bụng và hơng thuyền. Có
lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ơng lái đị địi
lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la, não bạt. Sóng nước đã đánh đến món
địn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ơng lái đị sẽ bị con thuỷ qi sông Đà vô cùng hung
bạo nuốt chửng. Nhưng ông lái đị vẫn khơng hề nao núng, trái lại, vẫn bình tĩnh chủ động
chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển
con thuyền lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “phá cái trận đồ bát qi của dịng sơng
hung bạo”; “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sơng Đà. Nhưng người lái đị
vẫn cưỡi lên thác đến cùng như cưỡi hổ”. Cả những lúc bị thương “mặt méo lệch đi”, mặc
cho luồng sóng “đánh địn âm, địn tỉa vào chỗ hiểm”,ơng lái đị hai chân “vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái”.


Ý3: Người lái đị tài hoa tuyệt vời
Ơng lái đị cịn là người tài hoa có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng thác
sơng Đà rất khắc nghiệt. Chỉ cần người lái đị một chút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu
bình tĩnh, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả sinh mệnh của mình. Nhưng sóng,

thác sơng Đà dù có hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò thời nay. Bởi
người lái đị là một nghệ sĩ có nghệ thuật chở đị rất kì diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ
nhất ở khả năng nắm chắc tất cả các quy luật tất yếu của dịng sơng Đà và nhờ thế mà người
lái đò trở thành người tự do, người chiến thắng. Người lái đò đã nắm chắc được binh pháp
của thần sơng, thần đá, thuộc lịng các luồng sinh, luồng tử mà chủ động trong mọi tình
huống. “Ơng đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi của ải nước hiểm trở này”. Lúc thì
“Ơng cưỡi lên con thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử”; lúc lại “ghì cương
đè sấn lên mà chặt đơi con thác”; “xuống thác, người lái đị sơng Đà linh hoạt và luôn luôn
cơ động mà phối hợp đôi mắt, đôi tay, đôi chân” lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên
qua hơi nước” xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dịng sơng hung bạo này.
Nguyễn Tn gọi người lái đị của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy.
- Thật đẹp biết bao hình ảnh người lái đò sau những phút giây chiến đấu sống cịn với
thác nước sơng Đà đầy hung ác lại ung dung “Đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam
và toàn bàn về cá dầm xanh, anh vũ…chẳng ai bàn tán thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Ý4: Đánh giá về bút pháp của Nguyễn Tuân
Trước kia, Nguyễn Tuân bị xem là nhà văn có quan điểm duy mỹ. Ngày nay, ơng đã
hướng ngịi bút của mình đến những con người lao động bình thường. Ơng phát hiện ra nét
tài hoa nghệ sĩ của con người lao động không chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ
thuật mà còn cả trong những hoạt động khác. Nếu như cơng việc của họ đạt tới trình độ điêu
luyện; ví như người lái đị cũng đã trở thành người nghệ sĩ tài hoa trong công việc lao động
đầy hiểm nguy nhưng cũng vơ cùng cao cả của mình. Nguyễn Tuân gọi đó là “Cái thứ vàng
mười mang sẵn trong tâm trí con người Tây Bắc”. Cũng qua hình tượng này, Nguyễn Tuân
muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng khơng phải chỉ có trong chiến đấu mà cịn
xuất hiện trong cả cuộc sống lao động bình thường. “Trên bả vai người lái đò bầm lên một
khoanh củ nâu. Cái đồng tiền tụ máu ấy là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương
lao động siêu hạng tặng cho người lái đị sơng Đà”. Chỉ một vết nghề nghiệp của đầu con
sào gửi lại đời đời cho người lái đò mà Nguyễn Tuân đã nâng lên tầm vóc anh hùng ca. Thật
là một ý nghĩ độc đáo rất thú vị mà cũng rất sâu sắc.
Kết luận:

Qua tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà”, độc giả chúng ta không chỉ thưởng thức một
khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hung bạo, dữ dằn nhưng trữ tình thơ mộng, mà còn được


chiêm ngưỡng một hình tượng người lái đị có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ song
lại rất mực mưu trí dũng cảm trong cuộc vượt thác đầy hiểm nguy. Qua đó, chúng ta cịn
được thưởng thức một kho từ vựng mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình, cùng lối ví von so sánh
mới lạ, tài hoa, bất ngờ, độc đáo của một ông vua tuỳ bút- Nguyễn Tuân./


BÀI MẪU SỐ 6:
Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước 1945
ơng nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau năm 1945
ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, tùy
bút Sông Đà… Người lái đị Sơng Đà là tác phẩm trích trong tùy bút Sông Đà được viết
nhân chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958. Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lịng người
đọc khơng chỉ là hình tượng con Sơng Đà “hung bạo, trữ tình” mà cịn là bởi hình tượng
người lái đị hiên ngang trên thác dữ – một tay lái ra hoa.
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép,
lơng mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế
chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy
lúc mờ sáng, mang phong thái “một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian”. Trong ấm trà
pha ngon, cụ đã “nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí” (Chén trà sương). Một Huấn
Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như
rồng bay phượng múa, thể hiện “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”
(Chữ người tử tù)… Và hình ảnh ơng lái đị người Thái (Tây Bắc) có “tay lái ra hoa”. Đó là
những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ. Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân
tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xơ đá, đá xơ gió”
bỗng hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như chạm. Bước vào cái
tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ơng lái đị vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm

thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu
như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng
tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ơng nổi lên một số “củ
nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là “thứ
Hn chương lao động siêu hạng”. Ơng lái đị sơng Đà này có “tay lái ra hoa” đã từng vượt
qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”.
Sau hơn mười năm chèo đị và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi
sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng
con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá.
Khơng chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sơng nước, ở ơng cịn in đậm vẻ đẹp
tâm hồn tính cách:
Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng
lạch trên sơng Đà. Ơng lái đị thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông
được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở . Sơng Đà, đối với ơng lái đị ấy, như một


trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những
đọan xuống dịng ”.” Chính vì vậy “ơng lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sơng, thần
đá. Ơng đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một con người gắn
bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. Cuộc sống của người lái đị sơng Đà là một
cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày nào cũng phải giành những cái sống từ tay nhưng con
thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút NT thể hiện qua hình ảnh ơng lái đị vượt thác: Vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ của ơng lái đị là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh
nghiệm thủy chiến. Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần
dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ở
trùng vây thứ nhất, ơng lái đị xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận
dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ

vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào
mà “đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hơng thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên”.
Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đị vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy qi này đánh miếng địn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ”
đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “ hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch vì
đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ơng vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy
hiểm.
Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao !
Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dịng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sơng đá”. Ơng lái đị bắt đầu cuộc tấn cơng bằng cách “nắm chặt
được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ơng cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh mà lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ơng tránh mà rảo bơi chèo
lên”, đứa thì bị “ơng đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ơng thắng cịn
bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, cịn bố trí “bọn đá hậu
vệ” canh cửa hịng “bắt chết” cái thuyền. Ơng lái đị mưu trí “phóng thẳng con thuyền”,
“chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc thuyền như một
mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ơng lái đị oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song tồn,
quyết đốn và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ơng lái đị được Nguyễn Tn
khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên
cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn
Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục
những phép tu từ vơ cùng sinh động : so sánh ngầm , nhân hóa , cường điệu … Câu chữ


tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh hòanh tráng . Nhà văn đã dụng
tâm diễn tả cuộc chiến giữa ơng lái đị với dịng sơng theo hướng thọat đầu tưởng như
khơng cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và
dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ơng lái đị thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa.

Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ.
Đối với người lái đị, hiểm nguy trên dịng sơng cũng chính là một phần trong cuộc sống của
ơng . Khi vượt qua gian nguy , sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sơng nước lại thanh
bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , và tòan bàn tán về cá
anh vũ , cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa
qua ” . Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh
tài trí với thiên nhiên hung dữ . Song qua giọng văn nhẹ nhàng , ta lại thấm thía thêm một vẻ
đẹp của người lái đị . Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng
giành lấy cái sống từ tay những cái thác , nên nó cũng khơng có gì là hồi hộp đáng nhớ … ”.
Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái
tài tử, nghệ sĩ .
Có thể nói Người lái đị sơng Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một
người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình tượng người lái đị
thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng
Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để
miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành khoa học khác
nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh…
Qua hình tượng người lái đị, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước
những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhàvăn gọi là “chất
vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ
nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo
của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu
cho nghệ thuật


BÀI MẪU SỐ 7:
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lịn người đọc thì tác phẩm đó
phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hồn cảnh điển hình hội tụ đầy đủ tài
năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đị trong tùy bút “Người lái đị sơng
Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.

Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tn, bức tranh thiên nhiên sơng Đà hiện lên vơ
cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phơng rất phù hợp để hình
tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh
hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm
chiến đấu với thác đá song nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là “tay lái
ra hoa”. Ơng lái đị hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với
những nét về ngoại hình đúng là một con người của sơng nước: Ơng gần bảy mươi tuổi
nhưng rất chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như
sơng nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang
kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”…Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như
chạm khắc hình tượng ơng lái đị như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại
vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay
nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.

Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào
nhân vật ơng lái đị, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sơng Đà đến mức máu
thịt, hiểu và u dịng sơng đến mức thuộc lịng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn tên
dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dịng chảy trong trái tim của ơng lái đị hay


chính là trái tim của Nguyễn Tn. Ơng thuộc dịng sông như thuộc một “bản trường ca,
thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dịng”. “Ơng lái đị
đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá, ơng đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi
ải nước”. Chính vì thế mà ơng lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của dịng
sơng Đà. Ơng khơng phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương
bằng thịt nhưng với chí dũng song tồn nên ơng vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để
tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của ơng lái
đị được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch
trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu
văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch

trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt
động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng
ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất hàm’…Cộng hưởng với những
động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…
Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế
khơng cân sức với ơng lái đị chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người
đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm
thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm khơng khí chiến đấu ác liệt. Sóng
nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khp quật vơ hồi, đá
trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho
ngơn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không
ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc
để cực tả đá nước sơng Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi
chí dũng song tồn của ơng lái đị. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ơng lái đị có sức chịu
đựng phi thường “ơng đị cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy
ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dịng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân khơng ngớt khiêu khích”…Những động
từ mạnh vẫn tiếp tục tn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ
so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sơng nước
tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông
lái đị.
Ơng lái đị “khơng chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá ln vịng vây thứ hai và đổi ln chiến
thuật”, “ơng đị nắm chắc binh pháp của thần sơng, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục
kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sơng Đà
như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đơi thác để mở đường
tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước


tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tơn vinh lên những nét đẹp của ơng lái đị đó là

mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực
tả vẻ đẹp trí dũng song tồn và phẩm chất anh hùng của ơng lái đị thì ở chặng thứ ba này
Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ơng lái đị. Nguyễn Tn miêu tả
“bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đị phải vận dụng tài năng nghề nghiệp
của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung
để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn
mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc
vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cam nhận được độ khéo léo của con thuyền trong
hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người
đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình.
Nguyễn Tn đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng
ơng lái đị trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong
nghề.



×