Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN suy nghĩ về vấn đề dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.9 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Phạm vi nghiờn cứu
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Về phớa học sinh.
2. Về phớa giỏo viờn.
II. THỰC TRẠNG ĐẶT RA:
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Đối với giáo viên.
2. Cỏc giải phỏp cụ thể.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Những kết quả đạt được.
2. Bài học kinh nghiệm.
KẾT LUẬN

----------  ----------

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong suốt thời gian dạy lớp 3, một vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em
học sinh thường rất ngán học môn Tập Làm Văn. Tại sao vậy?
Để làm được một bài tập làm Văn học sinh phải huy động vốn kiến thức từ
nhiều mặt như: các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xó hội.
Học sinh lại cũn phải biết kết hợp hài hũa nhiều kĩ năng như: dùng từ đặt câu, dựng


đoạn, tạo văn bản, kĩ năng phân tích đề, tớm ý, lập dàn ý. Do đó Tập Làm Văn mang
tính tích cực thành toàn diện, tổng hợp. Ngoài ra Tập Làm Văn mang cũn đũi hỏi

2


mang tớnh sỏng tạo của Học sinh. Nhiều em khụng biết bắt đầu từ đâu, phải nói và
viết những gỡ, viết như thế nào! Chính vỡ vậy mà trong các tiết học phân môn này
các em thường rất lúng túng có thỡ em viết lan man khụng đúng trọng tâm đề yêu
cầu, em thỡ ý nghốo nàn bài viết chỉ mang tớnh liệt kờ khụ khan khụng biết liờn kết
cõu và lồng cảm xỳc của người viết vào...và khi nhận được bài trả thỡ với những con
số khụ khan 3,4...điểm chẳng nói lên được điều gỡ, cú chăng chỉ là một vài câu nhận
xét quá cụt ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, khụng biết liờn hết cõu, bài viết lan man...từ
phớa giỏo viờn mà thụi. Điều đó đó làm cho cỏc em ngày càng chỏn nản, lo sợ, mất
tự tin, ngại núi và cuối cựng là học yếu mụn này.
Thế thỡ nguyờn nhõn do đâu? Làm thế nào để khắc phục tỡnh trạng này, giỳp
cỏc em lấy lại tự tin học tốt mụn Tập Làm Văn? Đấy chính là lí do khiến tôi trăn trở.
Chương trỡnh Tập làm văn lớp Ba đúng vai trũ quan trọng đối với các em.
Người giáo viên trong quá trỡnh dạy học cần phải cú sự tỡm tũi sỏng tạo và tớch
cực tỡm ra những biện phỏp thớch hợp giỳp học sinh rốn viết văn một cách có ý
thức, tự chủ và năng động góp phần học tốt những môn học khỏc.
Xuất phát từ những lí do trên, từ những kinh nghiện được rút ra trong quá
trỡnh dạy học ở Trường TH số 2 An Thủy, ở phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm
này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số suy nghĩ dạy tập làm văn cho học sinh
3


lớp 3. Từ đó giúp học sinh hỡnh thành và phỏt triển tốt cỏc kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động, đặc biệt là
môi trường học tập; góp phần nâng cao chất lượng phong trào "Vở sạch - chữ

đẹp" trong nhà trường và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho cỏc em.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tỡm ra cỏc giải phỏp nhằm nõng cao chất lượng bộ môn tập làm văn lớp 3, góp
phần làm tốt phong trào Vở sạch – chữ đẹp cho học sinh Trường tiểu học số 2 An
Thủy.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Điều tra khảo sỏt thực tế nhằm tỡm hiểu thực trạng học sinh học tập làm văn lớp 3.
- Phân tích, tổng hợp và nghiên cứu lí luận để tỡm hiểu cơ sở khoa học của đề
tài.
- Tổng kết kinh nghiệm dạy phân môn tập làm văn .
4. PHẠM VI NGHIấN CỨU
- Thời gian: Bắt đầu từ năm học 2010-2011
- Đề tài đề cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng môn tập làm văn lớp 3.

4


PHẦN NỘI DUNG
I. CỞ SỞ Lí LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Về phớa học sinh:
 Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tỡm tũi sưu tầm những tài liệu phục
vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến tỡnh trạng nghốo vốn từ, nghốo
vốn sống để có thể đưa bài văn vào viết.
 Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
 Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như :
đọc sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với
lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế.
2.Về phớa giỏo viờn:
 Giỏo viờn cũn lỳng tỳng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn:
Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của HS giống nhau về ý tưởng, nội dung.

5


 Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra
ý hay; bờn cạnh đó một số giáo viên cũn cho học sinh học thuộc những bài văn mẫu
điều đó đó làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tương phong phú của học sinh.
 GV chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hỡnh như tổ
chức dạy học đơn điệu: GV hỏi – HS trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham
gia trả lời cũn những học sinh trung bỡnh hoặc yếu thỡ cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến
tên! Từ đó làm cho HS cảm thấy nhàm chán, mất hứng thu học tập.
 Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tỡnh trạng giỏo viờn
đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh.
 Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day Tập
Làm Văn. Thế thỡ làm thế nào để lhắc phục hiện trạng trên. Cá nhân tôi sau nhiều
lần thí nghiệm tại lớp mỡnh và nhõn rộng một số lớp khỏc đó thấy rất khả thi.
II. THỰC TRẠNG ĐẶT RA:
Nhiều em trong lớp không biết viết, tư duy bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những
gỡ, viết như thế nào! Chính vỡ vậy mà trong cỏc tiết học phõn mụn này cỏc em
thường rất lúng túng có thỡ em viết lan man khụng đúng trọng tâm đề yêu cầu, em
thỡ ý nghốo nàn bài viết chỉ mang tớnh liệt kờ khụ khan khụng biết liờn kết cõu và

6


lồng cảm xỳc của người viết vào...Kết quả môn tập làm văn không cao theo yêu cầu
đặt ra của nhà trường và không tạo được điều kiện tốt nhất để các em lên lớp 4, lớp 5
và đặc biệt lên THCS.
Mặt khác trong lúc các phương tiện nghe nhỡn phỏt triển, văn hóa đọc sách
của các em hiện nay bị hạn chế nên ảnh hưởng ít nhiều đến phân môn tập làm văn.
Điều đó đó làm cho cỏc em ngày càng chỏn nản, lo sợ, mất tự tin, ngại núi và cuối

cựng là học yếu mụn này.
* Sau đây là một số biện pháp giải quyết.
III.BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Đối với Giáo viên:
* Người Giáo viên có vai trũ rất quan trọngvà ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với
HS vỡ họ là những người chủ đạo tổ chức việc học của HS, chính vỡ thế bản thõn
người Giáo viên cần phải:



Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cỏo trỡnh độ bản thân và nâng

cao tay nghề.



Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp.

7




Phải hết sức nhạy bộn và ứng xử kịp thời cỏc tỡnh huống phỏt sinh khi

giảng dạy bằng cỏch chỳ ý lắng nghe ý kiến của HS khi biểu đề tim ra ưu khuyết
điểm chính của học sinh để nhận xét tổ chức sửa chữa , góp ý đánh giá.




GV cũng cần rến cho HS kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận biết được

những chỗ hay hoặc chưa hay khi làm bài của mỡnh. Vớ dụ chỉ cần rừ bài ban hay là
vỡ ban biết dựng từ ngữ liờn kết cõu, ban biết sử dụng cỏc hỡnh ảnh so sỏnh, nhõn
húa..., bạn biết lồng cảm xỳc của mỡnh vào bài viết và điều quan trọng là GV cần
phải giúp HS chỉ rừ ra những từ ngữ, cõu hay cho lớp tham khảo. Điều này vừa động
viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy chop HS những ý tưởng, sáng tạo
mới, HS cảm thấy có thêm nguồn động lựcđể thi đua học tập, để bài của mỡnh được
cô và các bạn đọc trước lớp như vậy. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài của HS,
GV cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại; ý nghéo
nàn quá, bài đủ ý, bài yếu hoặc em khụng cú chuẩn bị bài sao...Điều đó sẽ làm cho
các em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người GV cần thận trọng, trước tiên cần
tỡm cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là nhỏ nhoi để
tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn,
hoàn chỉnh hơn.

8




Người GV cần thay đổi nhiều hỡnh thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều HS

cùng được tham gia trỡnh bày ý kiến của mỡnh.
VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mỡnh
( vỡ cú những em rất ngại núi trước lớp và ngại nói cho GV nghe, trái lại khi cùng
tham gia vói các bạn mỡnh thỡ cỏc em rất tớch cực ). Trong lỳc này GV cần đến tận
nơi, từng bàn để lắng nghe và gợi ý, định hướng cho các em xây dựng bài...Được
tham gia phát biểu, dần dần những em nhút nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn
khi đứng nói trước lớp. Bên cạnh đó phương tiện trực quan, các hỡnh thức tổ chức

trũ chơi, thi đua... cũng không kém phần lôi cuốn HS học tập tích cực hơn.
 Khi chấm bài GV cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để
định hướng cho HS khắc phục trong lần sau.
 Nờn tập cho cỏc em cú thúi quenhọc tập cỏc ý hay trong bài văn mẫu, đoạn
hay, bài làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại
trong sổ tay văn học của mỡnh.
2. Cỏc giải phỏp cụ thể:
a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu.
- Cỏc em ớt tham gia phỏt biểu trong giờ học TLV là do khụng biết thể hiện ý
tưởng của mỡnh bằng những cõu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em quỏ ớt.

9


- Phạm vi vốn từ cần cung cấp cho học sinh ở tiểu học chủ yếu xoay quanh
các chủ đề về thế giớ xung quanh công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tỡnh
cảm gia đỡnh và vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người...chúng ta cần làm giàu
nhận thức, mở rông tầm mắt cho HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất
nước, con người, dạy các em biết yêu quí và trân trọng tỡnh cảm đó.
- Ở chương trỡnh SGK mới này khụng cung cấp sẵn vốn từ mới cho cỏc em
mà thụng qua hệ thống bài tập học sinh phải cựng suy luận và cựng nhau tỡm tũi, bổ
sung và làm giàu vống từ cho mỡnh. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho
HS ( tư liệu cung cấp cần thực tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ).
Sau đó GV cũng cần giúp các em HS làm rừ một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ sống
cũn trong sự phỏt triển ngụn ngữ của trẻ. Việc dạy nghĩa từ được tiến hành trên tất cả
các giờ học, bất cứ ở đâu cũng cung cấp từ ngữ thỡ ở đó có dạy nghĩa của từ đũi hỏi
GV phải nắm rừ nghĩa của từ và giải thớch cho phự hợp với ngữ cảnh, với nội dung
bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng học sinh. Tuy nhiên việc giải nghĩa hết
tất cả các từ là không thể và không cần thiết, GV phải có sự chọn lọc từ để giải
nghĩa. Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có vai trũ quan trọng

trong hoạt động nói của HS trên một đề tài đó xỏc định, phải để cho các em giải
nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ – Tạo

10


hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu ý rằng: từ nào GV nắm rừ nghĩa thỡ
hóy giải thớch cũn nếu từ nào chưa rừ nghĩa thỡ khụng nờn giải thớch vỡ giải thớch
qua loa, sơ sài sẽ làm cho HS chán nản vỡ khụng đáp ứng nhu cầu tũ mũ của trẻ
thậm chớ làm cho trẻ hiểu sai lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của
mỡnh sẽ khụng hiệu quả, làm sai lệch ý muốn diễn đạt.
* GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây:
-

Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hỡnh ảnh, sơ
đồ...

-

Giải nghĩa thụng qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào
câu hoàn chỉnh để làm rừ nghĩa từ đó.

-

Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần
được làm rừ nghĩa với từ khỏc.
VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với từ “hồ” -> ao nhỏ hơn hồ.

-


Giải nghĩa từ bằng cỏch tỡm từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhỏc”
Trái nghĩa với thông minh là “đần độn”

-

Giải nghĩa từ bằng cỏch phõn tớch từ thành cỏc từ tố ( tiếng )

11


VD : giải nghĩa từ “tõm sự” – (tõm:lũng ; sự:nỗi ) -> tõm sự:nỗi lũng của một
người.
-

Giải nghĩa bằng định nghĩa: là biện phỏp giải nghĩa bằng
cách nêu nội dung nghĩa, bằng một định nghĩa:
VD : Quê hương là nơi sinh mỡnh ra và lớn lờn.

b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc:
Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong
bài. Hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ
có ích cho HS khi vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích
hợp.
VD : chọn từ “nỏo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp:
Chúng em..................chào đón ngày khai trường.
Trong phần tỡm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khớch HS trả lời cõu hỏi theo ý
mỡnh, hạn chế dần cỏch trả lời rập khuụn cõu văn trong SGK. Nhất là đối với những
bài học dóng thơ, nên cho HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề không
yêu cầu tỡm cõu thơ ). Điều này tạo điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có

của mỡnh, đồng thời giúp GV lắm được lượng từ có được ở mỗi HS để từ đó có biện
pháp thích hợp cung cấp từ mới cho các em.

12


c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính Tả
Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ.
Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn”
- Lượn : bay lượn, lượn lờ.....
- Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng.....
Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở rọng vốn từ cho HS. Ví dụ bài
tập ghép từ.
VD : Tỡm từ ghộp với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến...
Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp thêm
nguồn từ mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rừ nghĩa của từ
để phân biệt các từ phát âm sai của địa phương so với chuẩn.
VD : Người Hà Nội phát âm thiếu chính xác các cặp từ có âm đầu là l/n ;
ch/tr; d/gi/r...
d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện:
Khi nghe chuyện HS phải hiểu truyện, muốn thế trước hết HS phải hiểu từ.
Chỉ cố diễn đạt câu truyện qua giọng nói, điệu bộ khụng thỡ chưa đủ mà GV cần cho
HS nêu ra những từ ngữcác em chưa hiểu và hóy để các em đi tỡm cõu giải đáp cho

13


chính mỡnh, tất nhiờn phải cú sự gợi ý của GV. Nếu là những từ cú nghĩa khụng rừ
ràng GV cú thể đưa vào ngữ cảnh để từ đó HS có thể nắm được nghĩa của từ đó.
VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần

hiểu nghĩa của các từ : sõu rúm, kộn, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của từ
“ sửng sốt” bằng cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”.
- Tụi vụ cựng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy.
Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên,
lấy làm lạ...
e. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn:
- Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tỡm ý dưới dạng sơ
đồ hỡnh trũn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những
từ ngữ học sinh tỡm được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm
cho việc phát triển ý từ thành đoạn văn hoàn chỉnh.
Vớ dụ:
Cao lớn

Lỏ rập rỡnh lay động
Cõy
phượn
g

Từng cỏnh

Thõn sần sựi bạc

hoa rực lửa

phếch theo tháng năm

14


- Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả

cây cối (tả bộphận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giỳp cho học
sinh dễ nhận ra cấu trỳc của mỗi kiểu bài.
- Dựng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh
lựa chọn những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát.
- Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vỡ trả lời đơn thuần các câu hỏi:
+ Tỡm cỏc phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy núi điều gỡ?
+ Phần thõn bài tả cỏi cối theo trỡnh tự nào?
 Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm
của từng phần trước khi nêu ý nghĩa của cỏc phần đó.
- Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật.
- Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vỡ sao lại cú những bài văn giống nhau?”ở
đây chúng ta không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân
tích theo hai sơ đồ dưới đây :
+ GV nờu từ  Gợi ý đặt câu mẫu  Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ giống
nhau.
+ Học sinh tỡm từ  Đặt nhiều câu khác nhau  Sẽ có nhiều đoạn văn khác
nhau.

15


- So sỏnh hai cỏch làm trờn, chỳng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của
giáo viên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhầm đó là mẫu hay nhất. Tuy nhiên, không
vỡ thế mà giỏo viờn khụng làm mẫu, do đó phải yêu cầu và nhắc nhở học sinh khi tả
chọn mẫu câu, đề tài khác giáo viên.
- Giỏo viờn cần tập cho học sinh thớ quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần
phải viết nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hoàn chỉnh. Trên thực tế, vỡ
sợ thiếu giờ nờn chớnh giỏo viờn khụng yờu cầu học sinh làm nhỏp. Điều này dễ
làm mất khả năng tư duy và khả năng nhớ của trẻ. Trong quá trỡnh làm bài nhỏp,
giỏo viờn cần luụn nhắc học sinh chỳ trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập

trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở giai đoạn này.
- Quỏ trỡnh chỉnh sửa nờn tạo điều kiện cho học sinh làm theo nhóm đôi
(hoặc có thể làm theo trỡnh độ của học sinh ...) để các em phát huy hết khả năng
nhận xét, cũng như có điều kiện để giúp đỡ và học tập lẫn nhau. Học sinh được đọc
nhiều đoạn văn khác, điều này cũng sẽ làm nảy sinh ý tưởng mới cho các em khi
được lắng nghe và đọc bài của bạn. Giai đoạn này cần được trau dồi về ngữ phỏp và
trỡnh bày bài viết để học sinh có thể lưu trữ sản phẩm của mỡnh.

16


- Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học
tập để các em có thể trưng bày những sản phẩm của mỡnh (những bài văn hay) để cả
lớp cùng tham khảo.
- Rèn cho học sinh kỹ năng nó trong Tập Làm Văn rất quan trọng. Giáo viên
cần khuyến khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gỡ thoải mỏi diễn đạt ra điều ấy,
điều này giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mỡnh. Thường thỡ cỏc em
mang nặng tâm lý đứng lên lỡ nói sai sẽ bị cô mắng hoặc các bạn chê cười. Để giải
tỏa gánh nặng tâm lý này, tụi thường để các em tự do đưa ra ý kiến của mỡnh dự
cho ý kiến đó chưa sát với yêu cầu của câu hỏi đặt ra. Đừng bao giờ phủ nhận sạch
trơn những suy nghĩ của các em mà nên động viên để các em tự tin hơn khi phát
biểu.
Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần
và thiết thực. Nú cũn giỳp cỏc em hạn chế việc mắc lỗi chớnh tả khi làm bài. Cú
nhiều giỏo viờn đặt ra câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả không hề mắc
lỗi nào nhưng khi viết bài văn lại sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do
khi viết bài văn các em không được nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết
chính tả mà bản thân các em phải vận dụng tư duy để diễn đạt lại thành ý (Đối với
lứa tuổi của các em, nhất là HS lớp 2, 3 cùng một lúc các em khó có thể tập trung


17


làm tốt được nhiều việc), do đó, đa số các em thường viết theo những ngôn ngữ phát
âm giao tiếp hằng ngày, hoặc cũng có khi do viết vội, viết cõu dài gặp những từ khú
thỡ lười đánh vần từ đó viết sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở nhà (các em
có thời gian kiểm tra chính tả, không bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự tin
hơn và đỡ sai chính tả hơn khi làm bài.
* Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ
(theo dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo.
VD1: Đối với dạng văn tả người
- Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu …
- Tả khuụn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rỏm nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác,
đần độn, ủ rủ, cau có …
- Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc
thếch, da bánh mật…
- Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu…
VD2: Đối với dạng tả cây
- Thõn cõy: sần sựi, ram ráp, trơn lùi. Đầy gai …
- Lá cây: xanh thẳm, xanh mượt, xanh uá …

18


* Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững phải
luyện cho các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc xác
định và phải vận dụng thường xuyờn trong cuộc sống.
3. Đối với học sinh:
- Hết sức chỳ ý nghe giảng, cú sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Cụ thể hoỏ những ý nghĩ chung của bạn thành ý riờng của mỡnh bằng cỏch

tự lập một hệ thống dàn bài riờng của mỡnh phự hợp với yờu cầu của đề.
- Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mỡnh.
- Tập cho mỡnh cú thúi quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ
sung cho bài làm của mỡnh thờm sõu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn
theo bài mẫu.

IV. KẾTQỦA ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Kết quả đạt được:
Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy
cho HS, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của
các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn.
Bảng thống kê dưới đây đó chứng minh được điều đó:

19


Điểm
Tổng
Thời

số HS

Giỏi (9 – 10)

Khỏ (7 –
8)

TB (5 – 6)

Dưới TB (14)


gian
Đầu năm

27

5

11

7

4

Giữa HKI

27

6

12

8

3

Cuối HKI

27


8

12

6

1

Như vậy, cho đến thời điểm này các em đó biết cỏch trỡnh bày bài văn hợp lí
về bố cục, diễn đạt ý trọn vẹn, câu văn giàu hỡnh ảnh. Một số cỏc em yếu cũng đó
diễn đạt khá tốt ý của mỡnh. Tuy cũn một số bài viết cũn mang tớnh liệt kờ nhưng
bước đầu các em đó biết vận dụng các biện pháp tu từ đó được học để vận dụng vào
bài viết của mỡnh làm cho cõu văn trở nên sinh động hơn.
Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng
nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy của mỡnh (nhất là với phõn mụn Tập Làm
Văn).
2.Bài học kinh nghiệm:
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của BGH trường tiểu học số 2 An Thủy, sự tham gia
hoạt động tích cực của giáo viên, học sinh và phụ huynh, qua một thời gian kiên trỡ
thực hiện những biện phỏp, giải phỏp để duy trỡ và nõng cao hiệu quả của việc dạy
môn tập làm văn tôi rút ra các bài học kinh nghiệm sau:
20


2.1.Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong đội ngũ
giáo viên, phụ huynh, học sinh để nâng cao nhận thức về yêu cầu, tầm quan
trọng của việc học phân môn tập làm văn trong tỡnh hỡnh giỏo dục hiện nay.
2.2. Xõy dựng kế hoạch thực hiện cụ thể, phự hợp với tỡnh hỡnh thực tiễn theo
từng giai đoạn, học kỡ và năm học. Kịp thời động viên những học sinh chăm ngoan
học phân môn này.

2.3. Thường xuyên tự bồi dưỡng và nâng cao trỡnh độ hiểu biết của mỡnh
qua cỏc kờnh thụng tin hoặc cỏc chương trỡnh tự học trờn internet.
2.4. Rèn luyện kỹ năng viết văn cho các em ở mọi nơi mọi lúc, tập cho các
em một thói quen tốt “ ăn nên đọi, nói nên lời”.
2.5. Khuyến khớch cỏc em mua thờm nhiều tài liệu, nhiều sách tham khảo
hay đang có trên thị trường, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.6. Đánh giá chính xác, khen chê kịp thời là động lực vô cùng quan trọng học
sinh phát huy tốt ưu điểm, khắc phục nhược điểm; góp phần khích lệ việc phát triển
môn tập làm văn ở học sinh.

KẾT LUẬN
Chúng ta có thể dạy tốt – học tốt môn Tập Làm Văn khi có sự phối hợp đồng
bộ giữa thầy và trũ với những yờu cầu cần đạt đó nờu trờn.

21


Cũng cần lưu ý rằng, dạy các em viết văn không có nghĩa là dạy cỏc em trở
thành nhà văn mà là dạy sao để các em có thể viết được những điều mỡnh nghĩ đến
và những điều mỡnh muốn núi một cỏch mạch lạc, góy gọn, hay núi cỏch khỏc là
rốn cho HS kỹ năng xâu kết những ý nghĩ thành một đoạn văn chặt chẽ thể hiện rừ ý
mỡnh muốn diễn đạt, đây là một công việc khá khó khăn, tuy nhiên Bác Hồ đó từng
núi:
“Khụng cú việc gỡ khú
Chỉ sợ lũng khụng bền …”
Sau cùng, tôi xin kết thúc bằng một câu nói của giáo sư Roach Van Allen để
thay cho lời kết : “Em có thể viết được những gỡ em nghĩ .Em có viết được
những gỡ em núi. Em có thể đọc được những gỡ em viết và em cú đọc được
những gỡ người khác viết cho em”. Đó chính là dạy cho học sinh cách làm Tập
Làm Văn .

Bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh có chữ viết đúng viết hay và không nhàm
chán với tập làm văn là một trong các hoạt động góp phần giáo dục toàn diện cho
người học sinh trong sự nghiệp đổi mới, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường, cho
ngành góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai
đoạn hiện nay!

An Thủy, 3/ 2019
Người viết
22


Hoàng Thị Huyờn

23



×