Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.75 KB, 40 trang )

Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Mục lục
Mục lục........................................................................................................................................................1
Lời mở đầu..................................................................................................................................................2
Phần I: Lý luận chung về phân tích hoạt động kinh tế...............................................................................4
Chương 1: Mục đích, ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế............................................................4

2.Phân tích....................................................................................................................14
Phần III: Kết luận và kiến nghị..................................................................................................................34
Chương I: Kết luận................................................................................................................................34
Chương II: Kiến nghị.............................................................................................................................35

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 1


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Lời mở đầu
Việt Nam ta vốn xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, có trình độ sản
xuất công nghiệp thấp, so với các nước khác trên thế giới thì nước ta có nền kinh tế
khá thụt hậu so với mặt bằng chung. Tuy nhiên trong những năm qua cùng với sự nỗ
lực và cố gắng của nhiều doanh nghiệp, cùng với những cải cách kinh tế đã tạo cơ sở
và tiền đề giúp nước ta có những bước phát triển nhanh, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
ngoạn mục, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước ta. Đặc biệt, nước ta
đã hội nhập kinh tế thế giới với việc tham gia vào tổ chức thương mại lớn nhất WTO,
điều đó vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước. Các
doanh nghiệp vừa có thể mở rộng thị trường đồng thời cũng được đối xử công bằng
trên các “sân chơi” quốc tế. Nhưng bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với


với hàng loạt các vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế này, mà có lẽ gay
gắt nhất chính là sự cạnh tranh của nhiều công ty, doanh nghiệp trên cùng một lĩnh
vực. Vì vậy, để đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp cần phải xác định chính
xác cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp, hiệu quả với cả tình hình của bản
thân cũng như nhu cầu của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường này, các doanh nghiệp phải thực sự hiểu rõ bản
chất của nó cũng như nắm rõ bản chất của mình, chỉ có như thế chúng ta mới có thể
duy trì hoạt động, tạo ra lợi nhuận, cũng như không sợ bị đào thải khỏi một “sân chơi”
mang tầm vóc quốc tế.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc đánh giá bản thân doanh nghiệp trong sự phát
triển của toàn nền kinh tế, Việt Nam ta cũng học tập, nghiên cứu và đưa môn phân tích
hoạt động kinh tế vào việc đánh giá kết quả kinh doanh của các doanh nghiêp, coi đây
là một công tác bắt buộc trong việc các doanh ngiệp tự đánh giá cũng như là tài liệu cụ
thể chi tiết để các cơ quan Nhà nước quản lý, tính toán, nhìn nhận tình hình phát triển
của doanh nghiệp, từ đó có cái nhìn vĩ mô cho toàn nền kinht tế. Dựa vào đây, doanh
nghiệp cũng như Nhà nước sẽ tìm ra được các nguyên nhân đồng thời đưa ra hướng
giải quyết tối ưu nhất cho sự phát triển của bản thân doanh ngiệp cũng như vì sự phát
triển của cả nền kinh tế.
Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 2


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 3



Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Phần I: Lý luận chung về phân tích hoạt động
kinh tế
Chương 1: Mục đích, ý nghĩa của phân tích hoạt động
kinh tế
I.

Mục đích của phân tích hoạt động kinh tế
Mục đích của phân tích hoạt động kinh tế nói riêng hay mục đích của các hoạt

động khác của con người nói chung luôn có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó vừa làm
kim chỉ nam giúp định hướng hoạt động vừa là thước đo đánh giá kết quả hoạt động.
Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của phân tích như là đối tượng, chỉ tiêu, nguồn lực
mà xác định mục đích phân tích cho phù hợp. Mục đích chung thường gặp ở tất cả các
trường hợp phân tích bao gồm:
+ Đánh giá chung tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua
việc đánh giá tình hình thực hiên các chỉ tiêu kinh tế.
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tich và tính toán mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố.
+ Xác định các nguyên nhân gây biến động các nhân tố, nghiên cứu phân tích
tính chất của nguyên nhân qua đó để nhận thức về năng lực và tiềm năng của doanh
nghiệp.
+ Đề xuất các biện pháp và phương hướng nhằm khai thac triệt để các khả năng
tiềm tàng trong nội bộ doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Làm cơ sở cho việc xây dựng những kế hoạch sản xuất, xây dựng những
chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Tóm lại có thể phát biểu ngắn gọn mục đích của phân tích hoạt động kinh tế
làm nhằm xác định tiềm năng doanh nghiệp và đề xuất các biện pháp nhằm nâng khai
thác triệt để và hiệu quả các tiềm năng ấy trong thời gian tới.


Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 4


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
II.

Ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế
Với tư cách là một nhà quản lý bao giờ bạn cũng muốn doanh nghiệp của mình

hoạt động một cách liên tục, nhịp nhàng, hiệu quả và không ngừng phát triển. Muốn
vậy, bạn phải thường xuyên và kịp thời đưa ra được những quyết định để tổ chức,
quản lý, điều hành các hoạt động của doanh nghiệp có tính khoa học, phù hợp, khả thi
để có thể đưa ra những quyết định có chất lượng cao ấy bạn cần phải có nhận thức
đúng đắn, khoa học, toàn diện và sâu sắc về doanh nghiệp và về các điệu kiện, các yếu
tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp là công cụ cơ bản để người quản lý
nhận thức về doanh nghiệp, nhận thức về những vấn đề liên quan đến doanh nghiệp
mà ta biết rằng bộ ba biện chứng là nhận thức- quyết định- hành động thì nhận thức
đóng vai trò quan trọng nhất.
Từ tất cả các vấn đề trên ta thấy phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp có ý
nghĩa rất quan trọng và hết sức cần thiết cả trong lý luận lẫn thực tiễn. Nó quan trọng
và cần thiết đối với sự tồn tại, phát triển hiệu quả của doanh nghiệp nói chung đối với
năng lực uy tín của lãnh đạo nói riêng.
Từ những điều trên thì việc phân tích hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp
trong thực tế được diễn ra một cách thường xuyên ở nhiều khâu, nhiều bộ phận và ở
phạm vi toàn doanh nghiệp. Nếu việc phân tích đạt yêu cầu sẽ giúp những người quản
lý doanh nghiệp nhận thức đúng đắn về thực trạng doanh nghiệp về môi trường kinh

doanh, xác định được những mặt mạnh, lợi thế cũng như những yếu kém tụt hậu,
những tiềm năng khác của doanh nghiệp. Qua đó đưa ra được những quyết định phù
hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển hiệu quả của doanh nghiệp trong thời gian tới.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 5


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Chương 2: Các phương pháp phân tích sử dụng trong bài
I.

Phương pháp đánh giá kết quả sử dụng máy móc thiết bị
của doanh nghiệp
1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân
tích nhằm xác định vị trí, xu hướng biến động, đánh giá kết quả của hiện
tượng kinh tế.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong các trường hợp sau:
- So sánh giữa trị số chỉ tiêu ở thực tế với trị số chỉ tiêu theo kế hoạch
-

để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
So sánh trị số chỉ tiêu ở kỳ này với trị số chỉ tiêu đó ở kỳ trước để

-

xác định nhịp độ, tốc độ phát triển của hiện tượng.

So sánh giữa các đơn vị với nhau, giữu các đơn vị thành phần để xác

-

định mức độ tiên tiến hay lạc hậu giữa các đơn vị.
So sánh giữa các đơn vị nghiên cứu với ngành hoặc nền kinh tế quốc

dân.
- So sánh giữa thực tế với định mức, nhu cầu với khả năng.
Để tiến hành so sánh cần phải thực hiện những vấn đề cơ bản sau đây:
a. Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh
Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu được lựa chọn để làm căn cứ so sánh,

-

được gọi là kỳ gốc so sánh.
Các gốc so sánh có thể là:
Tài liệu của năm trước (kỳ trước hay kế hoạch)
Các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự đoán, định mức)
Các chỉ tiêu trung bình của ngành, của khu vực kinh doanh; nhu cầu

hoặc đơn đặt hàng của khách hàng…
b. Điều kiện so sánh
Chúng ta cần quan tâm cả về thời gian và không gian của các chỉ tiêu

-

và điều kiện có thể so sánh được giữa các chỉ tiêu kinh tế.
Điều kiện của chỉ tiêu so sánh về mặt thời gian:
Phản ánh cùng nội dung kinh tế

Các chỉ tiêu phải cùng sử dụng một phương pháp tính
Phải cùng một đơn vị đo lường
Khi so sánh về mặt không gian: yêu cầu các chỉ tiêu đưa ra phân tích
cần phải được quy đổi về cùng quy mô và điều kiện kinh doanh

tương tự nhau.
c. Kỹ thuật so sánh
 So sánh bằng số tuyệt đối

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 6


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Phán ánh quy mô, khối lượng của hiện tượng nghiên cứugiữa hai
kỳ, kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
Được xác định bằng công thức:
Mức chênh lệch tuyệt đối:
Trong đó:
là mức độ chỉ tiêu kỳ nghiên cứu
là mức độ chỉ tiêu kỳ gốc
 So sánh bằng số tương đối
Cho ta thấy xu hướng biến động , tốc độ phát triển, kết cấu của tổng
thể v.v…
Trong phân tích sử dụng số tương đối sau:
- Số tương đối động thái: Phản ánh xu hướng biến động , tốc độ phát
triển của hiện tượng qua thời gian, được tính bằng cách so sánh chỉ
tiêu kỳ nghiên cứu với chỉ tiêu kỳ gốc, chỉ tiêu kỳ gốc có thể cố định
hoặc liên hoàn, tùy thuộc theo mục đích phân tích.

Công thức xác định:
Trong đó:
t là số tương đối động thái
là mức độ kỳ nghiên cứu
là mức độ kỳ gốc
Ví dụ: Có tài liệu về doanh thu tại một doanh nghiệp như sau:

Năm

2010 2011 2012 2013

2014

Chỉ tiêu

Doanh thu

1000 1200 1380 1518 1593,9

)

Chênh lệch tuyệt đối (kỳ gốc cố định) (

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

)

-

200


380

518

593,9

Page 7


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

-

200

180

Số tương đối động thái (kỳ gốc cố định) (%)

-

120

138

Số tương đối động thái (kỳ gốc liên hoàn) (%)

-


120

115

Chênh lệch tuyệt đối (kỳ gốc liên hoàn) (

)

38

75,9

151,8 159,39

110

105

Như vậy, doanh thu qua các năm đều tăng so với năm 2010, điều này cho thấy
quy mô của doanh nghiệp có mở rộng, tuy nhiên tốc độ phát triển của doanh
nghiệp lại có xu hướng chậm dần qua các năm.

II.

Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân
tố đến chỉ tiêu phân tích trong bài
1. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch là trường hợp đặc biệt của phương
pháp thay thế liên hoàn. Vì vậy điều kiện để áp dụng phương pháp này
là các nhân tố có mối quan hệ tích, thương số, kết hợp cả tích số và

thương số, tổng các tích số, hoặc kết hợp tổng hiệu tích thương với chỉ
tiêu kinh tế.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 8


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Tuy nhiên, giữa phương pháp số chênh lệch và phương pháp
thay thế liên hoàn cũng có sự khác biệt. Đó là ở chỗ để xác định mức độ
ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch giữa giá trị
kỳ nghiên cứu và kỳ gốc của nhân tố đó.
Khái quát nội dung của phương pháp:
Chỉ tiêu tổng thể: y
Các nhân tố ảnh hưởng: a, b, c
- Phương trình kinh tế:
Giá trị chỉ tiêu kỳ gốc:
Giá trị chỉ tiêu kỳ nghiên cứu:
-

Xác định đối tượng phân tích:

-

Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích:
 Ảnh hưởng của nhân tố thứ nhất (a) đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:

 Ảnh hưởng của nhân tố thứ hai (b) đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:
 Ảnh hưởng của nhân tố thứ ba (c) đến y:
Ảnh hưởng tuyệt đối:
Ảnh hưởng tương đối:

Tổng ảnh hưởng của các nhân tố:




Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 9


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
-

Stt

Lập bảng phân tích

Chỉ tiêu



Đơn


Kỳ

hiệu

vị

gốc

1

Nhân tố thứ 1

A

x

2

Nhân tố thứ 2

B

x

3

Nhân tố thứ 3

C


x

Chỉ tiêu phân tích

Y

x

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Kỳ
nghiên
cứu

MĐAH đến y
So

Chênh

sánh %

lệch

Tuyệt

Tương

đối

đối %


-

-

Page 10


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Phần II: Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu
giá trị sản xuất theo các chỉ tiêu sử dụng máy
móc thiết bị
Chương 1: Mục đích, ý nghĩa
I.

Mục đích
-

Đánh giá tính hợp lý của cơ cấu máy móc thiết bị
Đánh giá tình hình quản lý sử dụng máy móc thiết bị và

ảnh hưởng của nó đến sản xuất của doanh nghiệp
- Đề xuất các biện pháp nhằm sử dụng máy móc thiết bị có
hiệu quả

II.

Ý nghĩa
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là cơ sở vật chất phản ánh năng

lực hiện có cũng như trình độ, tiến bộ kỹ thuật đã đạt được. Và trong tài sản
cố định thì máy móc thiết bị chính là một bộ phận vô cùng quan trọng, đặc
biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất tạo sản phẩm. Vì vậy, hiện trạng máy
móc thiết bị có tại doanh nghiệp cũng phản ánh năng lực hiện có cũng như
trình độ và tiến bộ kỹ thuật của bản thân doanh nghiệp đó.
Năng lực sản xuất này thường xuyên có sự thay đổi nếu chỉ có tăn g
cường về mặt số lượng máy móc thiết bị mà không biết quản lý sử dụng tốt
những máy móc thiết bị đó thì kết quả là một sự lãng phí. Để có hiệu quả
cao, máy móc thiết bị phải được sử dụng triệt để về mặt công suất, thời
gian, muốn biết việc sử dụng máy móc thiết bị có hợp lý hay không và đạt
tới mức độ nào thì ta phải tiến hành phân tích tình hình sử dụng máy móc
thiết bị.
Qua việc phân tích, nó đã giúp cho người quản lý thấy rõ những lãng
phí về máy móc thiết bị, những tiềm năng chưa khai thác hết để có biện
pháp khắc phục, khai thác tốt hơn các máy móc thiết bị hiện có tại doanh
nghiệp.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 11


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Chương 2: Phân tích
I.

Quy trình phân tích
1. Xây dựng công thức phản ánh tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh và xây dựng các bảng biểu phân tích

a. Lập phương trình kinh tế
b. Xác định đối tượng phân tích
c. Xác định mức độ ảnh hưởng và lập bảng phân tích

2. Phân tích
a. Đánh giá chung
b. Phân tích chi tiết các nhân tố ảnh hưởng
c. Kết luận, kiến nghị (phần này sẽ làm chi tiết ở phần III)

II.

Phân tích
1. Xây dựng công thức
a. Phương trình kinh tế
Trong đó:
là giá trị sản xuất (

)

là số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ (chiếc)
là số ngày làm việc bình quân của 1 máy móc trong năm (ngày /
chiếc)
là số giờ làm việc bình quân của 1 máy móc trong ngày (giờ / ngày)
là năng suất giờ bình quân của 1 máy móc thiết bị (

/ giờ)

Ta có:

 Giá trị sản xuất kỳ gốc: (đơn vị:


)

 Giá trị sản xuất kỳ nghiên cứu : (đơn vị:
b. Xác định đối tượng phân tích: (đơn vị:

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

)
)

Page 12


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
c. Lập bảng phân tích
Bảng phân tích tình thực hiện chỉ tiêu giá trị sản xuất theo các
chỉ tiêu sử dụng máy móc thiết bị

Stt

Chỉ



tiêu

hiệ

Đơn vị


Kỳ gốc

Kỳ nghiên

So

Chênh

cứu

sánh

lệch

u

MĐAH đến

%
Tuyệt đối
(

1

Số máy

)

Tương

đối %

chiếc

25

26

104

1

242.904

4

ngày/chiếc

240

243

101,25

3

78.943,8

1,3


giờ/ngày

6,98

7,2

103,15

0,22

201.544,2

3,32

145

148

102,07

3

136.468,8

2,25

móc có
bình
quân
trong

kỳ

2

Số
ngày
làm
việc
bình
quân

3

Số giờ
làm
việc
bình
quân

4

Năng

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 13


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế


suất giờ
bình
quân

Giá trị sản

6.072.600

6.732.460,8

110,87

659.860,8

-

xuất

2. Phân tích
a. Đánh giá chung
Nhìn vào bảng phân tích, ta có thể dễ dàng nhận thấy chỉ tiêu
giá trị sản xuất của doanh nghiệp ở kỳ nghiên cứu đã tăng
659.860.800 đồng tương đương tăng 10,87% so với kỳ gốc.
Sự tăng lên này là do tất cả các chỉ tiêu sử dụng máy móc
thiết bị ảnh hưởng đến giá trị sản xuất đều tăng. Trong đó, tăng nhiều
nhất là chỉ tiêu số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ, với mức
tăng là 1 chiếc tương đương tăng 4% so với kỳ gốc. Bên cạnh đó thì
chỉ tiêu tăng ít nhất là số giờ làm việc bình quân của một máy móc
thiết bị trong năm, cụ thể là tăng thêm 3 ngày/chiếc tương đương chỉ
tăng hơn 1% ( 1,25%) so với kỳ gốc.

b. Phân tích chi tiết các nhân tố ảnh hưởng

Số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ
Số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ tăng 1 chiếc
tương đương tăng 4% so với kỳ gốc làm tăng 242.904.000 đồng
tương đương tăng 4% giá trị sản xuất.
Có rất nhiều nguyên nhân giúp cho số máy móc thiết bị có
bình quân trong kỳ tăng lên, đồng thời làm tăng giá trị sản xuất
của doanh nghiệp. Trong đó, ta có thể thấy bốn nguyên nhân đáng
được lưu ý đến nhất là:

Chuyển đổi sản xuất

Mở rộng quy mô sản xuất

Chính sách của Nhà nước

Mua mới

Nguyên nhân thứ nhất: Chuyển đổi sản xuất

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 14

-


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Cuối kỳ trước, doanh nghiệp được mời tham gia đấu giá

một đơn đặt hàng có giá trị lớn, mà nếu có được nó thì doanh
nghiệp sẽ có lợi nhuận rất lớn, nhưng do yêu cầu kỹ thuật của lô
hàng này rất cao và với năng lực, trình độ cùng công nghệ máy
móc của doanh nghiệp vào thời điểm này thì không thể nào đáp
ứng được những yêu cầu kỹ thuật mà bên đặt hàng đưa ra, vì vậy,
doanh nghiệp đành bỏ lỡ cơ hội này. Từ đó, từ mong muốn sản
xuất được các lô hàng có yêu cầu kỹ thuật cao, lợi nhuận lớn luôn
nung nấu trong tâm trí của chủ doanh nghiệp, đã hình thành nên ý
định chuyển đổi sản xuất của doanh nghiệp, có nghĩa là chuyển
đổi dần việc sản xuất các sản phẩm truyền thống (đang chiếm tỷ
trọng lớn, có chất lượng tầm trung) sang chú trọng sản xuất các
sản phẩm có chất lượng cao hơn ( trọng chất lượng, giá trị chứ
chưa yêu cầu phải nhiều).
Nhận thấy, quá trình chuyển đổi sản xuất cần khá nhiều
thời gian, nên doanh nghiệp đã bắt tay ngay vào việc chuyển đổi
tại đầu kỳ này, mà bước đầu tiên sau khi chuẩn bị đủ vốn chính là
cải tiến công nghệ, kỹ thuật.
Doanh nghiệp đã tiến hành bước này bằng cách mua mới
hoàn toàn máy móc thiết bị chuyên phục vụ sản xuất các lô hàng
có yêu cầu kỹ thuật cao. Doanh nghiệp bước đầu nhận được đơn
đặt hàng với hàng hóa cao cấp hơn, máy móc thiết bị mua về
cũng được sử dụng vào sản xuất, mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
Việc chuyển đổi này, bước đầu đã làm tăng tổng số máy
móc thiết bị của toàn doanh nghiệp, từ đó làm tăng số máy móc
thiết bị có bình quân trong kỳ lên, tuy không nhiều, những đây
cũng là tín hiệu tích cực, đáng mừng cho doanh nghiệp, góp phần
làm tăng giá trị sản xuất của toàn doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt công tác chuyển đổi này, doanh nghiệp
phải chú trọng hơn nữa đến việc nắm bắt và cải tiến kỹ thuật.


Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 15


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Song song với đó, là tích cực tìm kiếm nguồn vốn để có thể sẵn
sàng cho quá trình chuyển đổi sản xuất lâu dài này.

Nguyên nhân thứ hai: Mở rộng quy mô sản xuất
Kỳ trước, doanh nghiệp nhận được vốn góp liên doanh
liên kết bằng tiền gửi ngân hàng. Với số vốn trước đó, doanh
nghiệp muốn mở rộng qyu mô sản xuất, và đang trong giai đoạn
chuẩn bị.
Đầu kỳ này, doanh nghiệp tiến hành mở rộng quy mô sản
xuất. trong quy trình để tiến hành mở rộng quy mô thì việc thuê
thêm nhân công cùng tăng số lượng máy móc thiết bị là vô cùng
cần thiết. Chính vì vậy, doanh nghiệp đã thực hiện việc mua thêm
máy móc thiết bị sản xuất có công suất cao hơn số máy móc thiết
bị hiện có tại doanh nghiệp. Nhờ sự chuẩn bị kỹ cho việc mở
rộng quy mô sản xuất, mà cụ thể bước đầu thực hiện ở kỳ này là
mua thêm máy móc thiết bị (doanh nghiệp đã tìm hiểu kỹ lưỡng
cũng như có sự so sánh giữa các máy móc thiết bị cùng công
năng để lựa chọ một nhà cung cấp uy tín), trước mắt là đã làm
tăng tổng số máy móc thiết bị trong doanh nghiệp, tiếp đó, nó đã
làm tăng được số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ , đồng
thời làm tăng giá trị sản xuất của toàn doanh nghiệp. Nguyên
nhân chủ quan này đã tác động theo góc độ tích cực nhất đối với
giá trị sản xuất của doanh nghiệp.

Trong những kỳ tiếp theo, doanh nghiệp cứ tiếp tục công
tác này, đồng thời cũng nên tìm ra hướng đi mới cho những sản
phẩm mới, để có thể tiến tới đa dạng hình thức sản phẩm, mà
không phải chỉ là mở rông quy mô sản xuất một vài mặt hàng
truyền thống như hiện tại.

Nguyên nhân thứ ba: Chính sách của Nhà nước
Hai năm trước, Nhà nước tiến hành điều chỉnh các loại
thuế, đặc biệt các loại thuế liên quan đến hàng xuất nhập khẩu để
các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cậc gần hơn với các đổi
thay về khoa học công nghệ trên thế giới.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 16


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Đến đầu kỳ nghiên cứu, các quyết định trên chính thức có
hiệu lực. Trong đó, thuế nhập khẩu máy móc thiết bị được điều
chỉnh giảm so với kỳ trước.
Doanh nghiệp nhận thấy đây là cơ hội dể mua thêm máy
móc thiết bị công nghệ mới từ nước ngoài. Nhìn ra được mặt lơi
khi đầu tư mua máy móc thiết bị công nghệ mới tại thời điểm,
doanh nghiệp đã quyết định mua thêm máy móc thiết bị dùng cho
sản xuất.
Chính sách thuế của Nhà nước “mền” hơn đốivới hàng
nhập khẩu kỳ nghiên cứu này đã gián tiếp làm số máy móc thiết
bị có bình quân trong kỳ tăng lên thông qua việc khuyến khích
mua máy móc thiết bị tại các doanh nghiệp. Việc làm này của

Nhà nước đã khách quan tác động tích cực đến việc làm tăng giá
trị sản xuất của toàn doanh nghiệp. Từ đó, có thể góp phần làm
cho nền kinh tế trong nước phát triển hơn, đây chính là mục đích
cuối cùng cho việc điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu giảm đi của
Nhà nước.
Nhìn vào tình hình chung, mức thuế suất hàng xuất nhập
khẩu này sẽ còn ổn định trong suốt kỳ nghiên cứu này. Vì vậy,
doanh nghiệp chỉ có thể nắm bắt cơ hội này để có được số máy
móc thiết bị mong muốn với giá thấp hơn, giảm đi chi phí sản
xuất, góp phần làm tăng lợi nhuận. Đồng thời, doanh nghiệp cũng
phải có những quan tâm nhất định đối với pháp luật, để kịp thời
đưa ra những quyết định đầu tư phù hợp với năng lực tài chính
của bản thân doanh nghiệp.

Nguyên nhân cuối cùng: Mua mới
Ở kỳ nghiên cứu, doanh nghiệp đã thực hiện ký kết một
hợp đồng sản xuất có giá trị lớn, mà nếu hoàn thành hợp đồng
này doanh nghiệp sẽ có được số lợi nhuận mang tính tích cực.
Nhưng có một yêu cầu khắt khe từ phía đối tác, đó chính là để
hợp đông này có hiệu lực thì doanh nghiệp phải đồng ý khi sản
xuất lô hàng này phải sử dụng máy móc thiết bị có công nghệ

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 17


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
mới hiện nay. Do đối tác mong muốn sai sót kỹ thuật của lô hàng
là nhỏ nhất thế nên đã đưa ra yêu cầu như trên.

Doanh nghiệp nhìn thấy việc đầu tư cho hợp đồng này sẽ
mang lại lợi ích thiết thực cho toàn doanh nghiệp, nên doanh
nghiệp quyết định đồng ý với điều kiện trên, là sẽ mua máy móc
thiết bị công nhệ mới này, nhưng do vốn hiện tại của doanh
nghiệp không đủ để đầu tư nên đã yêu cầu bên đối tác ứng trước
một phần giá trị hợp đồng để mua máy móc thiết bị. Bên đối tác
đồng ý và hai bên đi đến hoàn thành hợp đồng.
Cầm hợp đồng trong tay và phần tiền ứng trước, doanh
nghiệp đã tiến hành mua loại máy móc thiết bị theo yêu cầu của
bên đặt hàng. Doanh nghiệp đã hoàn thành hợp đồng và kiếm
được lợi nhuận khá tốt. Hơn thế nữa qua hợp đồng này, doanh
nghiệp còn có số máy móc thiết bị công nghệ mới này, doanh
nghiệp có thể tự tin tìm thêm các đơn hàng chất lượng cao, giá trị
lớn. Việc đầu tư này là vô cùng đúng đắn.
Hợp đồng sản xuất này là yếu tố khách quan tác động đến
quyết định mua sắm thêm máy móc thiết bị của doanh nghiệp,
làm tăng tổng số máy móc thiết bị lên hơn so với kỳ gốc, qua đó,
làm tăng số máy móc thiết bị có bình quân trong kỳ nghiên cứu,
và kết quả cuối cùng là làm tăng giá trị sản xuất, mang lại lợi
nhuận tốt hơn cho doanh nghiệp.
Tuy việc ký kết hợp đồng này chỉ là bước đệm cho quyết
định đầu tư của doanh nghiệp nhưng nó lại tạo ra một động lực
tiến tới sản xuất có chất lượng cao hơn cho doanh nghiệp. Có thể
nói, sự xuất hiện của bản hợp đồng này là vô cùng đúng lúc, khi
doanh nghiệp vẫn đang lưỡng lự nên hay không nên chuyển đổi
cơ cấu sản phẩm (từ sản phẩm tầm trung sang sản phẩm chất
lượng cao hơn). Việc mua mới máy móc thiết bị cho hợp đồng
này là bước tiến đầu tiên trên con đường đổi mới của doanh
nghiệp. Nắm bắt hợp đồng này cũng như các hợp đồng tương tự
sau này sẽ mang lại nhưng lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Vì


Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 18


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
vậy doanh nghiệp cần quyết đoán hơn trong việc đầu tư hay
không đầu tư thêm máy móc thiết bị, để doanh nghiệp có “vốn”
trong việc giành các đơn đặt hàng lớn về cho bản thân doanh
nghiệp mình.

Số ngày làm việc bình quân của một máy móc
thiết bị trong năm
Trong kỳ nghiên cứu số ngày làm việc bình quân của một
máy móc thiết bị trong năm đã tăng 3 ngày/chiếc tương đương
tăng 1,25% so với kỳ gốc làm tăng 78.943.800 đồng tương đương
tăng 1,3% giá trị sản xuất.
Có thể kể đến bốn nguyên nhân cho việc tăng lên này, đó
là:
Tình trạng cấp phát điện
Sửa chữa lớn máy móc thiết bị
Đơn đặt hàng
Chế độ đãi ngộ

Nguyên nhân thứ nhất: Tình trạng cấp phát điện
Ở kỳ gốc, doanh nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp
trên toàn miền Bắc nói chung đã phải trải qua một mùa hè khắc
nghiệt. Nắng nóng kéo dài, mưa khan hiếm, làm cho các nhà máy
thủy điện thiếu trầm trọng nguồn nước để thực hiện việc sản xuất

điện, dẫn đến việc cung không đủ cầu, các tỉnh miền Bắc lâm vào
tình trạng cắt điện luân phiên và doanh nghiệp cũng rơi vào tình
trạng tương tự. Mặc dù đã dự trù trước thiết bị cấp phát điện khác
nhưng không thể đủ để duy trì sản xuất theo tiến độ dự tính.
Doanh nghiệp phải thực hiện giãn cách, giảm ca của công nhân,
cho công nhân làm việc luân phiên, kèm theo đó chính là giảm số
máy móc thiết bị được sử dụng, vì vậy, số ngày làm việc bình
quân của một máy móc thiết bị trong năm cứ thế mà giảm xuống.
Đến kỳ này, do thời tiết ủng hộ, mưa thuận gió hòa, các
nhà máy thủy điện có đủ nguồn nước để sản xuất điện, việc cung
cấp điện vô cùng ổn định, điều nầy đã giúp cho doanh nghiệp sản
xuất ổn định, số ngày làm việc bình quân của một máy móc thiết
bị trong năm tăng lên kéo theo giá trị sản xuất cũng tăng lên.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 19


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Nguyên nhân khách quan này đã tác động tích cực đến
việc giảm ngày ngừng việc của máy móc thiết bị, tăng ngày làm
việc của máy móc thiết bị đó, góp phần làm tăng số ngày làm
việc bình quân của một máy móc thiết bị trong năm và cuối cùng
là làm tăng giá trị sản xuất cho doanh nghiệp.
Nhìn vào nguyên nhân này, ta thấy yếu tố thời tiết là sự tác
động trực tiếp đến tình trạng cung cấp điện để dùy trì sản xuất ổn
định. Tuy ta không thể làm thay đổi thời tiết nhưng ta có thể tăng
cường biện pháp phòng tránh. Cụ thể, doanh nghiệp có thể tăng
thêm thiết bị cấp phát điện dự phòng, bên cạnh đó là thay đổi

chiến lược sản xuất theo thời gian, có nghĩa là nên tập trung sản
xuất vào những tháng đầu năm hoặc cuối năm, giảm nhận đơn đặt
hàng vào những tháng nắng nóng thường xuyên diễn ra. Áp dụng
những biện phát này có lẽ sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được
những ngày ngừng việc không đáng có của máy móc thiết bị,
nâng cao được giá trị sản xuất của toàn doanh nghiệp.

Nguyên nhân thứ hai: Sửa chữa lớn máy móc thiết
bị
Kỳ trước, mưa bão thường xuyên xảy ra, tuy đã có công
tác chuẩn bị, phòng tránh trước bão nhưng doanh nghiệp vẫn
không tránh khỏi những thiệt hại không mong muốn.
Một phân xưởng sản xuất bị hỏng nóc nhà do cây lớn, bị
gió bão quật ngã, đổ vào. Nóc phân xưởng hỏng làm cho một bộ
phận máy móc thiết bị bên trong không có gì che chắn, khiến
chúng bị ngấm nước mưa. May mắn, trước khi bão đến, doanh
nghiệp đã thực hiện tốt công tác chuẩn bị ứng phó với tình huống
xấu nhất nên khi sự việc xảy ra, doanh nghiệp có thể nhanh
chóng xử lý, giúp cho thiệt hại giảm xuống mức thấp nhất có thể.
Bộ phận máy móc thiết bị bị ngấm nước mưa đó đã được xử lý
hết nước mưa, không bị hỏng hoàn toàn và vẫn có thể xử dụng tốt
sau khi mang đi sửa chữa lớn. Đánh giá hiện thực được, mất,
doanh nghiệp quyết định mang máy móc thiết bị đi sửa chữa lớn.

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 20


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế

Đến kỳ nghiên cứu này, số máy móc thiết bị mang đi sửa
chữa lớn đã về và lại tiếp tục tham gia vào sản xuất với số ngày
làm việc như trước sửa chữa lớn. Vì vậy mà số ngày làm việc
bình quân của một máy móc thiết bị trong năm cung theo đó mà
tăng lên, dẫn đến giá trị sản xuất toàn doanh nghiệp tăng lên.
Nguyên nhân này đã tác động tích cực đến việc nâng cao ngày
làm việc của máy móc thiết bị, theo sau đó chính là sự tăng
trưởng về giá trị sản xuất của doanh nghiệp.
Việc sửa chữa lớn này diễn ra do chính bản thân doanh
nghiệp, thiên tai nhưng cũng là nhân họa, dù rằng đã chuẩn bị tốt
công tác phòng tránh nhưng công tác này vẫn có thể được thực
hiện tốt hơn, ví dụ như trước cơn bão, doanh nghiệp gia cố lại các
nhà xưởng thì đã không có tình trạng trên xảy ra. Do đó, công tác
chuẩn bị ứng phó thiên tai của doanh nghiệp cần được lưu tâm ở
nhiều mặt hơn. Đồng thời tăng cường công tác ứng phó tại chỗ
khi có tình huống ngoài ý muốn diễn ra. Doanh nghiệp sẽ giảm
được thiệt hại xuống mức thấp nhất khi có thiên tai xảy ra, và sẽ
tránh được việc mang máy móc thiết bị đi sửa chữa lớn, làm ngày
làm việc của máy móc giảm đi.

Nguyên nhân thứ ba: Đơn đặt hàng
Kỳ trước, giá xăng dầu tăng cao, kéo theo hàng loạt các
mặt hàng tăng lên, trong đó có cả các nguyên vật liệu dùng cho
sản xuất của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm bị đội lên cao do
chi phí sản xuất tăng. Các bạn hàng thường xuyên cũng dè chừng
trong việc đặt hàng, đơn đặt hàng của doanh nghiệp cũng vì thế
mà giảm xuống. Kéo theo đó là số ngày nghỉ việc tăng lên, dẫn
đến giá trị sản xuất không được như dự tính.
Đến kỳ này, giá xăng dầu đã giảm, cùng với đó là sự điều
chỉnh của Nhà nước qua sử dụng quỹ bình ổn giá, doanh nghiệp

đã nhận được nhiều đơn đặt hàng hơn, và sản xuất mạnh mẽ hơn
kỳ trước. Nhờ vào việc có nhiều đơn đặt hàng, doanh nghiệp
không có ngày nghỉ việc ngoài quy định, làm cho số ngày làm

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 21


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
việc bình quân của một máy móc thiết bị trong năm tăng lên, dẫn
đến giá trị sản xuất của doanh nghiệp cũng tăng theo.
Nhìn vào nguyên nhân trên, có thể thấy nguyên nhân
khách quan này đã góp phần làm tăng hơn nữa giá trị sản xuất
của doanh nghiệp thông qua làm tăng số ngày làm việc bình quân
của một máy móc thiết bị trong năm.
Ta có thể thấy, trong việc giải quyết nguyên nhân trên tại
kỳ này, doanh nghiệp mới chỉ thụ động chờ đợi đơn đặt hàng đến
do sự giảm giá của xăng dầu mà không có hành động trực tiếp là
tự đi tìm kiếm đơn đặt hàng mới. Vì vậy, ngoài việc thụ động chờ
đợi sự thay đổi của thị trường thì doanh nghiệp cũng có thể tự
tranh thủ hơn nữa dùng năng lực sản xuất của bản thân làm cơ sở
để tìm kiếm các đơn đặt hàng mới bên cạnh những đơn đặt hàng
truyền thống.

Nguyên nhân cuối cùng: Chế độ đãi ngộ
Là một doanh nghiệp sản xuất lâu năm, nên doanh nghiệp
nhận biết rõ tầm quan trọng của việc sử dụng hiệu quả lao động,
tài sản cố định và nguyên vật liệu trong việc nâng cao giá trị sản
xuất. Trong đó việc đảm bảo sức khỏe cho công , nhân viên là

việc làm hàng đầu của doanh nghiệp.
Vì vậy, trong đãi ngộ của doanh nghiệp có quy định rõ
ràng só ngày nghỉ tối đa cho phép của một công, nhân viên., theo
đó, công, nhân viên sẽ được nghỉ tất cả các ngày chủ nhật trong
năm công lịch, không lương (chưa tính những ngày nghỉ theo quy
định của Nhà nước, vẫn có lương). Ngoài ra còn có các trợ cấp,
phụ cấp khác cho công, nhân viên nhằm tạo cho họ sự hài long
khi làm việc ở đây.
Tuy nhiên, những kỳ gần đây, doanh nghiệp lại thường
xuyên diễn tình trạng công nhân nghỉ việc, đặc biệt là công nhân
có kỹ năng vận hành máy móc thiết bị sản xuất, mà đỉnh điểm là
ở kỳ trước. Điều này đã khiến cho doanh nghiệp phải dừng hoạt
động một số máy móc thiết bị trong khi chờ đợi doanh nghiệp tìm
kiếm công nhân thay thế.
Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 22


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
Nhìn thấy sự sụt giảm về giá trị sản xuất trong kỳ trước so
với các kỳ trước đó, doanh nghiệp đã tiến hành phân tích, tìm ra
nguyên nhân và đưa ra biện pháp giải quyết tình trạng trên để
tránh sự việc lại tiếp diễn trong kỳ nghiên cứu này.
Theo đó, doanh nghiệp đã điều chỉnh lại chế độ đãi ngộ,
tăng ngày nghỉ lên thêm 2 ngày thứ bảy/tháng, đồng thời tăng trợ
cấp, phụ cấp để công nhân viên có động lực gắn bó với doanh
nghiệp lâu dài. Bên cạnh đó là quản lý chặt chẽ đối với những
trường hợp xin nghỉ việc, tăng điều kiện để việc nghỉ việc không
dễ thực hiện.

Thực hiện theo các biện pháp trên, số trường hợp nghỉ việc
đã giảm xuống, trong đó, việc công nhân vận hành máy móc xin
nghỉ cũng giảm so với kỳ trước, nhưng giảm không nhiều, tuy
nhiên, nó cũng góp phần giúp cho doanh nghiệp giảm thời gian
tìm kiếm thêm công, nhân viên, đồng thời làm giảm thời gian
nghỉ làm của số máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp so
với kỳ trước.
Việc điều chỉnh này của doanh nghiệp đã giúp tăng giá trị
sản xuất tại kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc. Nguyên nhân này tưởng
chừng như không ảnh hưởng đến số ngày làm việc bình quân của
một máy móc thiết bị trong năm nhưng nó thực ra nó đang ảnh
hưởng gián tiếp đến chỉ tiêu thông qua sự ảnh hưởng trực tiếp
đến số công nhân có trong kỳ, đặc biệt là số công nhân vận hành
máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Nhìn vào tình trạng hiện tại của doanh nghiệp ở kỳ nghiên
cứu này, ta có thể thấy, các biện pháp mà doanh nghiệp đề ra ở
cuối kỳ trước đã được thực hiện khá hiệu quả. Thế nhưng tại sao
công nhân trực tiếp vận hành máy móc thiết bị vẫn tiếp tục nghỉ
việc (tuy có giảm nhưng giảm không nhiều) khiến cho tình trạng
máy móc thiết bị phải nghỉ việc vẫn diễn ra? Nhận ra vấn đề này,
doanh nghiệp đã tiến hành nhìn lại để tìm ra nguyên nhân thực
sự, và doanh nghiệp nhận ra chế độ đãi ngộ của nhân viên trực

Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 23


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
tiếp vận hành máy móc thiết bị không thể giống như các công

nhân khác vì họ phải làm việc với yêu cầu cao hơn. Dựa vào đó,
doanh nghiệp đã dành riêng chế độ đãi ngộ cho công nhân vận
hành máy móc thiết bị. Đây có thể coi là một ưu đãi đặc biệt của
doanh nghiệp nhằm giữ chân các công nhân này.

Số giờ làm việc bình quân của một máy móc
thiết bị trong ngày
Kỳ nghiên cứu, doanh nghiệp có số giờ làm việc bình quân
của một máy móc thiết bị trong ngày tăng 0,22 giờ/ngày (hay
tăng 13,2 phút/ngày) tương đương tăng 3,15% so với kỳ gốc làm
tăng 201.552.200 đồng tương đương tăng 3,34% giá trị sản xuất
so với kỳ gốc.
Bốn nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng lên này là:
Thiếu nguyên vật liệu
Thời tiết
Tổ chức sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết
bị tại chỗ
Trao đổi ngang giá

Nguyên nhân thứ nhất: Thiếu nguyên vật liệu
Kỳ trước, doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng số lượng lớn và
cần một khối lượng lớn nguyên vật liệu để sản xuất. Nhưng
nguyên vật liệu trong kho đã không đủ dùng để sản xuất, mà nhà
cung cấp nguyên vật liệu truyền thống của doanh nghiệp lại vừa
giao một lượng lớn nguyên vật liệu cho doanh nghiệp khác nên
hiện tại không còn đủ nguyên vật liệu dự trữ để cung cấp cho
doanh nghiệp và chỉ cung cấp thêm một phần nguyên vật liệu
thiếu mà doanh nghiệp đang cần.
Không còn cách nào khác, doanh nghiệp đã lựa chọn nhập
thêm nguyên vật liệu từ một nhà cung cấp khác, được biết thông

qua đối tác của mình vì do tin tưởng vào thông tin mà đối tác
cung cấp nên doanh nghiệp không tìm hiểu thêm.
Thế nhưng, trong khi sản xuất bằng lô nguyên vật liệu từ
nhà cung cấp mới, doanh nghiệp phát hiện ra sai sót về phẩm chất
của nguyên vật liệu. Tuy rằng đã phát hiện ra sai sót sớm nhưng
doanh nghiệp vẫn bị thiệt hại kể cả khi đã đòi được bồi thường từ
Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 24


Bài tập lớn môn Phân tích hoạt động kinh tế
nhà cung cấp kia, đồng thời doanh nghiệp vẫn phải hoàn thành
đơn đặt hàng nhưng nguyên vật liệu đã không đủ để tiếp tục sản
xuất.
Để giải quyết tình hình trên, doanh nghiệp đã cố gắng gom
nguyên vật liệu đúng phẩm chất trên thị trường. Doanh nghiệp
đang sản xuất trong tình trạng cầm chừng, số máy móc thiết bị bị
ngừng việc đang tăng lên. May mắn, khách hàng đã chấp nhận
cho doanh nghiệp giao trước phần hàng đã hoàn thành khi đến
hạn giao hàng và lùi thời hạn giao phần hàng còn lại, đồng thời
doanh nghiệp cũng đã gom dử số nguyên vật liệu còn thiếu để
tiếp tục sản xuất. Vì vậy, cuối cùng doanh nghiệp cũng đã giao đủ
số hàng cho khách, tuy nhiên lợi ích chỉ dừng lại ở mức hòa vốn.
Kỳ này, để tránh tình trạng nguyên vật liệu bị lỗi dẫn đến
thiếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, doanh nghiệp đã thực
hiện lựa chọn kỹ lưỡng trước các nhà cung cấp bên cạnh nhà
cung cấp truyền thống , do đó khi có đơn đặt hàng lớn cũng
không lúng túng và dẫn đến sai sót như kỳ gốc. Đồng thời, kiểm
tra chặt chẽ phẩm chất, quy cách nguyên vật liệu trước khi tiến

hành sản xuất. Nhờ làm tốt các công tác trên nên tình trạng thiếu
nguyên vật liệu ở kỳ này đã không diễn ra, thời gian ngừng việc
của máy móc thiết bị giảm xuống, làm cho số giờ làm việc bình
quân của một máy móc thiết bị trong ngày cũng vì thế mà tăng
lên. Nguyên nhân chủ quân này đã tác động tích cực đến giá trị
sản xuất của doanh nghiệp, giúp cho giá trị sản xuất vì vậy mà
tăng lên.
Nhìn chung, để tăng số giờ làm việc bình quân của một
máy móc thiết bị trong ngày , doanh nghiệp phải chú trọng đến
công tác lựa chọn sử dụng nguyên vật liệu, tránh tình trạng thiếu
nguyên vật liệu để thời gian ngừng việc của máy móc thiết bị
tăng lên.

Nguyên nhân thứ hai: Thời tiết
Tại kỳ gốc, thời tiết oi bức nắng nóng kéo dài, khiến cho
máy móc thiết bị làm việc trong xưởng dễ bị nóng, công nhân
Nguyễn Thị Hậu MSV:58507

Page 25


×