Tải bản đầy đủ (.pptx) (35 trang)

Đặc trưng Thi pháp Thơ Đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.32 KB, 35 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM
Đề tài:

Đặc trưng
Thi pháp Thơ Đường


Những người thực hiện:
1. Đặng Thu Hòa
2. Trần Thu Hà
3. Nguyễn Ngọc Ánh
4. Trịnh Thị Thúy Hiền
5. Ngô Thị Mỹ Hảo
6. Trần Thị Thu Trang


Các nội dung:
I. Đặt vấn đề
II. Tìm hiểu vấn đề
1. Thi pháp thơ là gì?
2. Thi pháp thơ Đường
2.1. Nội dung
2.2. Khuynh hướng
2.3. Hình thức
2.3.1. Luật
2.3.2. Niêm
2.3.3. Vần
2.3.4. Bố cục
2.4. Một số dạng thơ
III. Kết luận



I.Đặt vấn đề:
- Ðường

Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi
nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà
chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã
thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép
chung cho làng thơ.
- Nước Việt Nam chúng ta có thơ từ nghìn xưa. Và thể thơ
thông dụng nhất lá thể Lục Bát và Thể Vè 3, 4 và 5 chữ giản dị
và tự do. Mãi đến đời nhà Trần (1225-1400), Hàn Thuyên mới
dùng thể Ðường luật để làm thơ Nôm. Thi nhân đương thời
nhiệt liệt hưởng ứng và từ đời Trần, sang đời Lê đến đời
Nguyễn, thể Ðường luật được thịnh hành trong làng thơ Quốc
âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong trường khoa cử.
Thơ quốc âm, cũng như trong làng thơ chữ Hán và trong
trường khoa cử. Thơ quốc âm làm theo thể Ðường luật, cổ
nhân gọi là thơ Hàn Luật .


 
II.TÌM HIỂU VẤN ĐỀ:

1.Thi pháp thơ là gì?

Thuật ngữ "Thi pháp" hiện có hai nghĩa. Hiểu theo nghĩa
rộng, đó là những đặc điểm về nội dung, nghệ thuật, cách lựa
chọn đề tài, cách biểu hiện chủ đề , tư tưởng, phương pháp,
phong cách nghệ thuật v.v... của một tác phẩm văn học hoặc

của một tác giả; từ đó, thấy rõ sự khác biệt giữa tác phẩm
này hoặc tác giả này với tác phẩm kia hoặc tác giả kia.
Ví dụ ta nói: thi pháp bài thơ Tây tiến của Quang Dũng,
thi pháp Truyện Kiều, thi pháp Thơ Tố Hữu, thi pháp nhà
văn Nam Cao v.v... Nghĩa thứ hai mà ta hiểu, đó là nghĩa
hẹp, tức là Luật làm thơ, là phương pháp, cách thức... hay
còn gọi là kĩ thuật làm thơ. Ví dụ: đặc điểm và cách làm thơ
lục bát, thơ Đường luật, thơ tự do v.v...


Theo GS.TS. Trần Đình Sử (GV Khoa Ngữ văn,
Đại học Sư phạm Hà Nội):
« Nếu hiểu thi pháp là học vấn về ngôn từ văn
chương, thể thức, biện pháp tổ chức thể loại tác
phẩm thì thi pháp đã tồn tại ở Việt Nam từ trong
những sáng tác đầu tiên của dân gian và văn học
viết bằng chữ Hán, rồi được phản ánh vào các bộ
tuyển thơ văn, bắt đầu từ Việt âm thi tập của Phan
Phu Tiên thế kỉ XV. Đó là một truyền thống thi
pháp quy phạm, bất biến và quy phạm hoá.»
Như vậy, có thể xem thi pháp thơ chính là biểu
hiện của nội dung và nghệ thuật được tác giả sử
dụng trong tác phẩm của mình.


2.Thi pháp Thơ Đường
2.1.Nội dung:
2.1.1.Không gian hình tượng trong thơ Đường
- Không gian trong thơ Đường là loại không gian hình
tượng vì khi miêu tả về nó các tác giả luôn luôn tìm cách đồng

nhất các sự kiện, biến cái hữu hạn thành cái vô hạn.
«Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai»
<Đăng Cao – Đỗ Phủ>
Đỗ Phủ đã biến cái hưũ hạn thành cái vô hạn bằng cách nhìn
chúng trong một không gian ba chiều. Tất cả tạo nên vũ trụ
mênh mông. Trong không gian ba chiều ấy, rừng cây và dòng
sông hòa vào trời cao làm thành vũ trụ mênh mông, choáng
ngợp.


2.1.2. Phương thức chiếm lĩnh không gian của các
nhà thơ Đường
Thường hướng đến việc chiếm lĩnh không gian
theo bề cao chứ không phải theo bề rộng. Bề cao mang
đến sự cảm nhận về chiều sâu, thăm thẳm và đầy bí ẩn,
không phải nghe là biết, nhìn là hiểu.
Cho thấy đặc trưng của thơ Đường: bình dị mà sâu
sắc, đơn giản ngắn gọn mà trầm lắng sâu xa.


«Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.»
<Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu>

Thôi Hiệu không đứng từ xa để nhìn và làm thơ về lầu Hoàng Hạc,
không miêu tả để làm nổi bật nó với những gì xung quanh, mà đứng
ngay trên lầu để miêu tả mọi thứ xung quanh, qua đó lầu Hoàng Hạc
hiện lên một cách gián tiếp.Giữa hai phương thức để miêu tả, một nhìn
lên để trông thấy,một nhìn xuống để tầm nhìn mở rộng hơn.Thôi Hiệu
đã chọn cách thứ hai để miêu tả lầu Hoàng Hạc.Điều đó chứng tỏ thói
quen chiếm lĩnh không gian theo chiều cao trong thơ Đường.Phương
thức chiếm lĩnh ấy phổ biến trong phong cách chung của thơ Đường


2.1.3. Thơ Đường có sức khái
quát cao, hàm ý súc tích:
Thơ Đường mang “ý tại ngôn ngoại”. Một
bài thơ chỉ vẻn vẹn có 28 chữ hoặc 56 chữ
nhưng đã nói được rất nhiều điều: vừa có tình
cảm của nhà thơ, vừa là sự suy ngẫm về cuộc
đời, là tiếng nói tố cáo xã hội,cũng có thể là
bức tranh tuyệt vời theo bút pháp: Thi trung
hữu họa


«Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyện há Dương Châu
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu»
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng )


Bài thơ là bức tranh thiên nhiên phóng khoáng cao rộng,
hơn thế là bức tranh sơn thủy thật tuyệt vời.Lý Bạch tả cảnh
nơi đưa tiễn bạn, nhưng cảnh ấy lại thấm đẫm nỗi buồn đau.
Cái tài của Lí Bạch không chỉ dừng lại ở việc tả cảnh ngụ tình.
Cảnh trong thơ Lí Bạch vẫn đẹp, vẫn tươi vui nhưng vẫn nói
lên được cái buồn,thêm nữa lại được phát huy trong bút pháp
thi trung hữu họa, chỉ vài nét đơn sơ mà vẽ được tình cảnh
thần diệu vừa hài hòa, vừa sinh động.


2.1.4. Thiên nhiên tràn ngập trong thơ
Đường là một thứ thiên nhiên khái quát:
- Thiên nhiên tràn ngập trong thơ Đường bởi các thi
nhân có khuynh hướng dùng cảnh ngụ tình.
- Nhưng nhìn ở một góc độ khác, thiên nhiên trong thơ
Đường lại là một thiên nhiên khái quát. Trong thơ Đường thiên
nhiên ngập tràn và hầu như tuân theo một quy luật bất thành
văn: đi từ cái rộng lớn đến cái nhỏ. Khi thiên nhiên xuất hiện
trong tác phẩm thì nó phải được hiểu là trời cao, bao la vô tận,
mây trắng bay gợi khoảng không vô tận.
Cảnh trong thơ bao giờ cũng hiện ra dưới mắt người đọc
thật hùng vĩ mênh mông và khoáng đạt. Cảnh bao giờ cũng có
tầm cao để thấy con người nhỏ bé. Thiên nhiên luôn mang một
bề rộng đến bao la vô tận để con người cảm thấy mình cô độc,
lẻ loi vô cùng giữa cuộc đời này.


2.2: Khuynh hướng:
- Có 4 giai đoạn: Sơ Đường (khoảng 618 - 713), Thịnh
Đường (khoảng 713 - 766), Trung Đường (khoảng 766 835), Vãn Đường (khoảng 835 - 907). Thời Sơ Đường, các

nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" Dương Quýnh, Lư Chiếu
Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột đã đổi được phần nào
phong khí uỷ mị của thơ các triều đại trước (Lục triều).
- Tới Trần Tử Ngang thì mới có phong trào đổi mới thi
ca theo tinh thần phong nhã của "Kinh thi" và "phong cốt
Hán Nguỵ", chủ trương làm thơ phải có "kí thác", nghĩa là
nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình
trước hiện thực đời sống, bỏ hẳn thơ sắc tình đời Lục triều,
và thơ ca công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ
đầu đời Đường.


- Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang  làm thơ "kí thác" đều
theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện
thực xã hội. Ba đại biểu lớn là Lý Bạch (Li Bai), Đỗ Phủ
(Du Fu) và Bạch Cư Dị (Bai Juyi). Màu sắc phong cách
của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, người theo đạo
Nho, người theo đạo Phật hoặc theo Lão Trang.
- Có loại thơ "biên tái" [Cao Thích (Gao Shi), Sầm Tham
(Cen Can)], thơ "điền viên" [Vương Duy (Wang Wei),
Mạnh Hạo Nhiên (Meng Haoran)], thơ "tân nhạc phủ"
(Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn), thơ "chính nhạc phủ" đời
Vãn Đường [Bì Nhật Hưu (Pi Rixiu), Đỗ Tuấn Hạc (Du
Xunhe)], theo khuynh hướng hiện thực của Đỗ Phủ và
Bạch Cư Dị. Các nhà thơ sáng tác theo 3 thể chính: thơ
luật (x. Thơ luật Đường), thơ cổ phong (x. Cổ phong) và
nhạc phủ (x. Nhạc phủ).


2.3. Hình thức, nghệ thuật:

2.3.1: Luật
*Đối âm:
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc,
và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây
dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay
không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là
bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc
thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và
chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải
khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng
thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một
câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi
"thất luật".


Ví dụ:
#Luật vần bằng:
«Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
B T
B B
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
T B
T B
Có phải duyên nhau thì thắm lại
T B
T
T
Đừng xanh như lá, bạc như vôi»
B T BB

Mời trầu (Hồ Xuân Hương)


#Luật vần trắc:
Nhớ bạn phương trời - Trần Tế Xương

«Ta nhớ người xa cách núi sông 
T B T B
Người xa, xa lắm, nhớ ta không? 
B T
B B
Sao đương vui vẻ ra buồn bã! 
B T B T
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng! 
T B
T B
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng 
T B T T
Khi riêng riêng cả đến tình chung 
B
T
B B
Tương tư lọ phải là trai gái
B T B T
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng»
T B T B


*Đối ý:


Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý
nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu
5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự
tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy)
nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách
dùng các từ ngữ. Đối chữ; danh từ đối danh từ,
động từ đối động từ. Đối cảnh; trên đối dưới, cảnh
động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường mà
các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không
đối nhau thì bị gọi "thất đối".


Ví dụ:
«Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà»
"Lom khom" >< "lác đác"
(hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa
phải đối hoàn chỉnh),
- "dưới núi" >< "bên sông" (vị trí địa hình)
- từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên
"lác đác" chỉ số lượng của câu dưới
Hai vế tiếp:
"tiều vài chú" >< "chợ mấy nhà" (đối lập về số
lượng và tĩnh/động)
Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh.


2.3.2: Niêm
Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì
được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng,

ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ
niêm với nhau khi nàochữ thứ nhì của hai câu cùng theo
một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra
bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo
nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm
thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất
ngôn bát cú) như sau:
- câu 1 niêm với câu 8
- câu 2 niêm với câu 3
- câu 4 niêm với câu 5
- câu 6 niêm với câu 7


Chẳng hạn với luật vần bằng:

- B - T - B B
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
- B - T - B T
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận

Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!
<Thương vợ - Trần Tế Xương>

Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú


Thất niêm:
Trong một bài thơ, nếu cả câu thơ đặt sai
luật, như đáng lẽ bắt đầu bằn bằng, bằng mà đặt
lại làm trắc, trắc hoặc ngược lại làm cho các
câu thơ không niêm với nhau thì gọi là thất
niêm (mất sự kết dính). 
 
- Trong thơ Đường luật Việt Nam trung đại
có khá nhiều bài thơ thất niêm, trong đó nổi
tiếng hơn cả là Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du
(Hán) và Đèo Ba Dội – Hồ Xuân Hương
(Nôm).


Chẳng hạn xét 1 ví dụ nhỏ về thất niêm trong bài thơ Đèo
Ba Dội của Hồ Xuân Hương:
 
Một đèo, một đèo, lại một đèo, 
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. 
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, 

Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, 
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo. 
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng... 
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo. 
 
Bài thơ thất niêm ở chữ thứ hai của dòng 1: đèo, đáng lẽ nó
phải mang thanh trắc để tương xưng với gối (chữ 2 câu 8), nó
thất niêm vì nữ sĩ đã tránh từ tục mà nói chệch đi, vì vậy, từ bị
biến thanh, bị làm cho chệch đi, để người đọc nhận thấy mà
chuyển đổi, đưa nó về nguyên dạng!


2.3.3: Vần
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần
giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài
thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và
8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ
Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống
nhau về vần thì được gọi "thất vận".
Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính",
những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết
thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của 
Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây
là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau



2.3.4: Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo
truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc
Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên
gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý
để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý
đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực.
"Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là
câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp".
Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian,
không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự
vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về
sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài
theo hướng mở rộng và nâng cao


×