Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Luận văn sư phạm Nghệ thuật xây dựng bi kịch trong một số vở kịch tiêu biểu của Uyliam Sêchxpia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.37 KB, 48 trang )

Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Phần mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập
thể sáng tạo nhằm biểu hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người,
biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại (Từ điển thuật ngữ văn
học). Tác phẩm văn học đích thực ở bất cứ thời điểm nào cũng là di sản văn hóa của
nhân loại, của thời đại và của dân tộc. Vì vậy, đối với những người học tập và làm công
tác nghiên cứu văn học, việc tìm tòi, khám phá những giá trị văn học của nhân loại
không chỉ dừng ở việc tiếp thu nền văn học trong nước mà cần hướng tới tiếp thu những
tinh hoa văn học thế giới nhất là những tinh hoa chói loà của nền văn học Phương Tây.
Không biết đến cái chết, không biết đến sự lãng quên, không sợ bị lu mờ trong
không gian và thời gian, đó là hiện tượng Sêcxpia cây đại thụ của nền văn học Phục
Hưng. Đã từ lâu, dường như con người ông, sự nghiệp sáng tác của ông có một mãnh
lực cuốn hút người đời đến kỳ lạ, làm say mê bao tâm hồn độc giả. Sêcxpia (1564 1616) là một trong những nhà văn hoá vĩ đại nhất của nhân loại. Ông không chỉ là vĩ
nhân của thời đại Phục Hưng Anh mà còn là niềm kiêu hãnh ngàn đời của toàn thế giới.
Ông được người đời đánh giá như một ngôi sao rực rỡ chiếu sáng trên văn đàn
[21.196].
Ngày nay, nhân loại đã có không biết bao nhiêu lời, biết bao nhiêu giấy mực,
biết bao nhiêu sự so sánh dành cho ông sự tôn kính và ngưỡng mộ để khẳng định tài
năng bất diệt của ông. Ben Giônxơn một nhà văn đương thời, bạn lứa sau của Sêcxpia
đã phải thay đổi thái độ, cách nhìn đối với Sêcxpia và đưa ra những nhận định rằng
Sêcxpia là linh hồn của thời đại và cho rằng Sêcxpia không chỉ thuộc về thời đại
của mình mà thuộc về tất cả mọi thời đại. Ông còn viết: Anh sẽ sống khi sách anh
còn sống và khi chúng tôi còn đủ trí thông minh để đọc sách và ca ngợi anh (Nguyễn
Đức Nam Sêcxpia và chúng ta Tạp chí Văn học số 8/1995).


1


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Thi hào Gớt khi bàn về kịch của Sêcxpia đã không kìm nén nổi sự xúc động đến
bàng hoàng, ngây ngất: Tôi không nhớ có quyển sách nào, có biến cố nào trong đời
sống của tôi mà lại gây cho tôi một ấn tượng mãnh liệt như những vở kịch của
Sêcxpia Khi đọc nó, người ta sợ hãi, thấy trước mắt ta là quyển sách của vận mệnh
con người và người ta còn nghe cơn lốc của cuộc sống đang lật mạnh các trang
(Nguyễn Đức Nam, Lương Duy Trung Shakespeare và chúng ta NXB Văn hoá,
Hà Nội 1976).
G.Biêlinxki đã từng nhận xét về tính chân thực, sinh động trong những tác phẩm
của Sêcxpia: có được cái năng khiếu sáng tạo ở bậc cao nhất và được phú bẩm một trí
tuệ bao trùm cả thế giới, ông đồng thời có được cái phẩm chất khách quan của một
thiên tài, cái phẩm chất này khiến ông trước hết là một nhà soạn kịch và thể hiện ra
trong cái khả năng thấu hiểu các đối tượng đúng như chúng tồn tại, không phụ thuộc
vào cá nhân mình, tự chuyển mình vào trong các đối tượng và sống đời sống của
chúng [15.75]. Những lời ca ngợi ấy là viết về kịch của Sêcxpia nói chung nhưng cũng
chính là viết về bi kịch của ông.
Người cùng thời với ông ca ngợi ông là nhà thơ có giọng lưỡi ngọt ngào; nhà
viết kịch tài ba và nhà hài kịch bậc thầy khó sánh. Ngoài thơ ra, Sêcxpia còn sáng tác
khoảng 37 vở kịch trong đó có 12 vở, còn bi kịch chiếm một số lượng lớn trong sáng
tác của ông.
Trong W.Shakespeare tuyển tập tác phẩm các dịch giả biên soạn đã công
nhận: Với Sêcxpia sân khấu thời kỳ Phục Hưng đã đi vào lịch sử sân khấu thế giới như
một thế kỷ hoàng kim. Hay nói một cách khác, Uyliam Sêcxpia đã làm cho sân khấu
Anh thế kỷ XVI đạt tới thời kỳ cực thịnh mà sau này không bao giờ nó có thể vươn tới

được nữa. Hơn nữa là con đẻ của một dân tộc dân tộc Anh, là sản phẩm của một
thời đại thời đại Phục Hưng, bằng sáng tác của mình, Sêcxpia đã vượt ra khỏi biên
giới của đất nước mình và đi đến với toàn thể nhân loại, vượt qua các thời đại và đi
thẳng đến ngày nay mà hình ảnh vẫn tươi mới rực rỡ [17.5].
Điều này chứng tỏ tài năng kiệt xuất của Sêcxpia trên kịch trường thế giới. Như
Gơ-rin một nhà soạn kịch chuyên nghiệp cùng thời với Sêcxpia đã gọi ông là người
vung ngọn giáo làm náo động kịch trường [15.68]. Nhưng từ trước đến nay, nhiều nhà
nghiên cứu cũng như phần lớn độc giả thường quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu mảng hài
kịch của Sêcxpia bởi những hài kịch đó đã mang đến cho nước Anh vui vẻ một thời

2


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

với những nụ cười sảng khoái nhiều cung bậc. Hoặc có chăng khi nghiên cứu mảng bi
kịch của ông, các nhà nghiên cứu thường tìm hiểu trên những vấn đề chung khái quát
mà chưa đi sâu vào từng vở bi kịch với những giá trị nghệ thuật, cụ thể là nghệ thuật
xây dựng bi kịch. Gia tài nghệ thuật của Sêcxpia rõ ràng tồn tại ở rất nhiều vở bi kịch
xuất sắc. Nó chứng tỏ rằng, ngay giữa lúc đang muốn công chúng vui cười thoả thích
ông vẫn cảm nhận được mối nguy cơ đe doạ con người, mưu toan bóp nghẹt tiếng cười
của con người, gây nên bao cảnh tang tóc đau thương khiến cả nước mắt và cả máu phải
đổ ra không ít.
Do vậy, chúng tôi chọn nghệ thuật xây dựng bi kịch của Sêcxpia làm đối tượng
nghiên cứu với mục đích để hiểu ông hoàn chỉnh trên cả hai phương diện bi kịch lẫn hài
kịch và nhằm khoả lấp những chỗ trống lâu nay còn tồn tại của độc giả khi nghiên cứu
khai thác thiên tài của Sêcxpia. Qua đó chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn, bản chất hơn
về chủ nghĩa nhân văn trong sáng tác của Sêcxpia.

Hơn nữa, Sêcxpia còn là một tác giả có mặt trong chương trình Phổ thông trung
học. Bên cạnh việc trích học một vài đoạn trong vở hài kịch thì tôi nhận thấy bi kịch
chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Chương trình THPT không phân ban (lớp 10) có
chọn trích đoạn trong vở bi kịch Rômêo và Juliét - đoạn trích hồi II, cảnh 2 mang
tên Thề hẹn. Vở bi kịch Hăm lét, trích đoạn ở hồi III, cảnh 1 mang tên Sống hay
không sống - đó là vấn đề (tên do nhà soạn sách đặt.). Trong chương trình sách giáo
khoa chỉnh lý hợp nhất năm 2000, tác giả và tác phẩm của ông cũng có mặt.
Là sinh viên sư phạm ngành ngữ văn, là giáo viên dạy Ngữ văn tương lai, lựa
chọn đề tài này, người viết không có tham vọng gì nhiều, chỉ hy vọng sẽ tìm ra một con
đuờng bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, tìm hiểu những tấn bi kịch trong hiện
thực xã hội Anh thời Sêcxpia và hiểu sâu sắc hơn về những vở bi kịch của ông. Việc lựa
chọn đề tài này vừa mang tính khoa học, vừa mang tính thời sự gắn liền với thực tế
giảng dạy ở trường phổ thông. Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật xây
dựng bi kịch của Uyliam Sêcxpia, qua một số tác phẩm tiêu biểu, người viết mong
muốn hướng tới những giờ giảng văn học nước ngoài trong nhà trường THPT đạt kết
quả cao.

3


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

II. Lịch sử nghiên cứu
Uyliam Sêcxpia (1564-1616) nhà soạn kịch lỗi lạc. Ông là một trong những
thiên tài vĩ đại góp phần tạo nên thế kỷ hoàng kim chói lọi cho nền văn học Phục Hưng
Anh thế kỷ XVI, là người có công lớn đưa vị thế của văn học Anh sánh ngang với
những đỉnh cao văn học nhân loại.
Văn học Phục Hưng Anh và cùng với nó là nghệ thuật sân khấu phương Tây

trong suốt thế kỷ XVI đã đi qua những bước phát triển to lớn, rực rỡ và đạt đến đỉnh cao
nhất của nó. Đó là kết quả của sự phát triển một cách trọn vẹn nền văn học Trung cổ
với tất cả tính phức tạp trong các yếu tố tinh thần, chính trị và kinh tế của nó. ở nước
Anh, đây là thời kỳ bành trướng của các thế lực và người ta gọi đây là thời kỳ nước
Anh vui vẻ. Tuy nhiên đằng sau nước Anh vui vẻ đó thì nền kịch Anh thời kỳ Phục
Hưng phát triển trong điều kiện của một cuộc đảo lộn xảy ra trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cũng như trong nước khác ở Tây Âu, cơ sở của những hiện tượng mới
trong lĩnh vực văn hoá là sự sụp đổ với những biến động của thời kỳ quá độ từ phong
kiến đi lên chủ nghĩa tư bản. Đó là một xã hội chất chứa những mâu thuẫn gay gắt sẵn
sàng bùng nổ bằng các cuộc chiến tranh. Sêcxpia sống và sáng tác những vở bi kịch
trong bối cảnh xã hội như vậy. Trong những tác phẩm của mình, Sêcxpia đã miêu tả, tái
hiện một cách sâu sắc và đa diện thời đại của ông. Kịch của ông là cái hồi quang nghệ
thuật đầy đủ nhất của đời sống xã hội Phục Hưng. Sêcxpia nhìn thấu vào tận bản chất
của các mối quan hệ xã hội. Với cái nhạy bén của một thiên tài, ông nắm bắt được nhịp
đập của thời đại, nhận biết những cái mà trước đó những người khác không nhìn ra,
phát hiện ra những mâu thuẫn đang hình thành và phát triển trong lòng đời sống xã hội.
Trong hoàn cảnh xây dựng một nền kinh tế và văn hoá mới, Sêcxpia đã gây ra
trong chúng ta một hứng thú kì lạ. Đặc biệt, tính thời sự trong các tác phẩm của ông
theo năm tháng không hề giảm đi mà trái lại ngày càng khẳng định được tính đúng đắn
của nó. Trên thế giới ngày nay đã hình thành một nền Sêcxpia học có truyền thống lâu
đời. Chỉ riêng trong nửa đầu thế kỷ XX, số công trình viết về ông đã nhiều hơn số công
trình của ba thế kỷ trước cộng lại. Có nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng đã viết về Sêcxpia
với một khối lượng lớn hơn rất nhiều lần toàn bộ sáng tác của ông. Chúng ta dịch
Sêcxpia, viết về Sêcxpia, bình phẩm về Sêcxpia, nói chuyện về Sêcxpia và đặc biệt từ
tháng tư năm 1964, chúng ta cùng với toàn thể nhân loại kỷ niệm 400 năm ngày sinh
của ông. Song bằng kinh nghiệm cũng như vốn hiểu biết của bản thân, tôi chỉ xin tiếp

4



Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

cận đề tài từ góc độ nghệ thuật xây dựng bi kịch trong một số vở bi kịch tiêu biểu của
Sêcxpia trên cơ sở xử lý các văn bản bằng tiếng Việt. Qua kết quả điều tra, khảo sát
chúng tôi nhận thấy có những công trình nghiên cứu về Uyliam Sêcxpia như sau:
Mác và Ănghen - những nhà sáng lập ra chủ nghĩa khoa học xã hội đã đánh giá
cao tư tưởng, tài năng nghệ thuật của Sêcxpia trong lịch sử ngành kịch. Trong bức thư
(19-4-1859) góp ý cho Latxan về vở Frazevon Sickingen của ông, Mác đã khuyên
Latxan nên Sêcxpia hoá thay vì Sile hoá [14.367]. Đồng thời Mác khuyên Latxan
và đó cũng là một lời khẳng định, rằng: Anh nên làm theo Sêcxpia nhiều hơn nữa.
Cũng phê phán vở kịch ấy Ănghen viết: Lối thể hiện của các tác giả ngày xưa
bây giờ không đủ nữa và ở đây, theo tôi nghĩ thì có lẽ sẽ không phải là dở nếu anh chú
trọng nhiều hơn nữa vai trò của Sêcxpia trong lịch sử ngành kịch [14.374].
Và ông cũng nhấn mạnh rằng: Theo quan niệm về kịch của tôi, là không thừa
nhận người ta chạy theo lý tưởng mà quên mất thực tế, chạy theo Sile mà quên mất
Sêcxpia [15.376]. Trong thư gửi Mác ( mồng 10 tháng Chạp năm 1837) Ănghen đánh
giá cao Sêcxpia, ông viết: Chỉ một màn thứ nhất của vở Mery Wives cũng thấy có
nhiều sinh động và nhiều thực tế hơn là toàn bộ văn học Đức [14.413]. Mác còn cho
rằng: Các sáng tác của Sêcxpia là một trong những đỉnh cao của nền nghệ thuật thế
giới [15.75].
G.Biêlinxki cũng không giấu nổi cảm xúc thán phục, ca ngợi khi viết những
dòng sau đây: Sêcxpia thần thánh và vĩ đại, Sêcxpia không một ai sánh kịp đã ôm lấy
cả địa ngục trần gian và thiên đường. Như một chúa tể của tự nhiên đã bắt cả cái ác
phải triều cống cho mình và trong cái nhìn đầy cảm hứng ông đã nghe nhịp đập mạnh
của vũ trụ. Mỗi vở kịch của ông là một vũ trụ thu nhỏ [22.293].
Những lời tôn vinh ấy chắc rằng trước khi mất Sêcxpia cũng không thể ngờ tới.
Nhân loại đã tốn nhiều giấy mực ca ngợi không biết tiếc mà vẫn không sao làm nổi bật
sự vĩ đại của ông. Ngành Sêcxpia học ra đời một ngành khoa học chuyên nghiên

cứu về Sêcxpia đã đánh dấu vị trí, vai trò và ảnh hưởng lớn lao của ông đối với toàn thể
nhân loại.
Tìm hiểu những công trình nghiên cứu về Sêcxpia, chúng tôi tổng hợp và trình
bày theo các vấn đề sau:

5


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

1. Quan điểm về cái bi, bi kịch
Cái bi là một phạm trù mỹ học có mặt từ rất sớm trong lịch sử mỹ học tồn tại
bên cạnh cái đẹp, cái hài Ngay từ thời cổ đại Hy Lạp cùng với lịch sử phát triển của
những tư tưởng mỹ học, bản chất của cái bi luôn là đối tượng quan tâm của các triết gia,
của các nhà lý luận, các nhà mỹ học có tên tuổi. Với tác phẩm Nghệ thuật thi ca,
Arixtote được coi là người có công đầu trong việc nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ
thống về bản chất của bi kịch. Ông quan niệm: Bi kịch là sự bắt chước các hành động
nghiêm túc và cao thượng, hành động này có quy mô nhất định. Bi kịch nhằm miêu
tả những người tốt hơn mọi người nên ta vẫn bắt chước những hoạ sĩ vẽ chân dung giỏi.
Tức là khi vẽ, người nào được vẽ họ còn vẽ người đó đẹp hơn thực, Bi kịch làm trong
sạch hoá những cảm xúc tương tự qua các khêu gợi sự xót thương và khủng khiếp
[5.58].
Kế thừa và phát triển những thành tựu trong di sản lý luận mỹ học của quá khứ
đặc biệt là những tư tưởng rất sâu sắc trong quan điểm của Arixtote ông tổ của ngành
lý luận văn học nêu ra: Bi kịch là một thể loại kịch trong đó có sự xung đột giữa xấu và
tốt. Trong đó người tốt có hành động nghiêm túc và cao thượng nhưng lại chịu bất
hạnh thậm chí là cái chết.
Một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam cho rằng: Cái bi tạo ra một

cảm xúc thẩm mỹ phức hợp bao hàm cả nỗi đau xót, niềm hân hoan lẫn nỗi sợ hãi
khủng khiếp. Cái bi thường đi lên với nỗi đau và cái chết song bản thân nỗi đau và cái
chết chưa phải là cái bi. Chúng chỉ trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất
tử về mặt tinh thần của con người [23.37]. Còn về bi kịch, các nhà nghiên cứu cho
rằng Bi kịch một thể của loại hình kịch, thường được coi như là đối lập với hài kịch.
Bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính, mối
xung đột không thể điều hoà được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp
hèndiễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường thoát ra khỏi
nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công
chúng [23.19].
Hêghen là người có công nghiên cứu toàn diện nhất về cái bi và bi kịch. Theo
ông vấn đề trung tâm trong lý luận về cái bi là bản chất là tính cách của nhân vật trung
tâm và xung đột bi kịch mà tính cách phải trải qua. Ông cho rằng: Cái chết trong bi
kịch là sự khẳng định mục đích nguyên tắc của tính cách bi kịch chứ không thể từ bỏ

6


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

nó đối với ông bi kịch hiện đại là sự tiếp tục của kịch cổ đại (Etsilơ và Xôphôklơ) và
phải học tập được một kiểu bi kịch mẫu mực gắn liền với tên tuổi của Sêcxpia. Trong
lời giới thiệu bi kịch cổ điển Pháp, Tôn Gia Ngân cũng nhận định: Nguyên tắc sáng
tác bi kịch của Sêcxpia thường được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá nghệ thuật của
các vở bi kịch cổ điển Pháp [25.134].
Tác giả Đỗ Văn Khang khi nghiên cứu về bi kịch cũng có những kiến giải khá
độc đáo, ông cho rằng trong cuộc sống bi kịch có tác dụng giáo dục con người. Nếu
như trong hài kịch ngoài nhiệm vụ uốn nắn sửa chữa những khuyết tật nhằm tống tiễn

cái xấu xa, tàn bạo và lạc hậu vào quá khứ một cách với nhiệm vụ màu sắc cảm thụ tinh
tế cho con người. Thì bi kịch lại là một loại hình thẩm mĩ nghiêm trang dùng tiếng
khóc để răn đời. Chính vì vậy, bi kịch là một thể loại kịch mang ý nghĩa triết lý sâu xa.
Gulaep trong cuốn Lý luận văn học cho rằng: Bi kịch là một tác phẩm kịch
được xây dựng trên một xung đột thể hiện về mặt thẩm mỹ những mâu thuẫn tồn tại
trong cuộc sống, giữa khát vọng chủ quan của cá nhân con người và khả năng khách
quan không thể thực hiện được của nó. Những xung đột trong bi kịch nảy sinh do
những hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, được kết thúc bằng sự huỷ diệt của con
người. [6.294]. Theo ông, những vở kịch của các nhà viết kịch thời đại mới (Sêcxpia)
xung đột bắt nguồn từ đời sống xã hội, nó mất dần tính chất thần bí.
Những quan niệm trên rất sát với thực tế bi kịch của Sêcxpia giai đoạn từ 1601
1608 Giai đoạn của những bi kịch bất hủ thể hiện trong quan điểm sáng tác của
Sêcxpia.
Trong cuốn Lich sử sân khấu thế giới tập 2 nhà xuất bản Văn hoá Hà Nội
1977, Mô-cun-xki nhận định: Trong các tác phẩm thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của
Sêcxpia là giai đoạn phát triển rực rỡ cao nhất của nghệ thuật hiện thực của nhà viết
kịch vĩ đại. Tất cả ở đây đều được chói rọi bằng ánh sáng mặt trời rực rỡ[15.149]. Có
thể nói, các tác phẩm của giai đoạn này không những phản ánh mâu thuẫn sâu sắc nhất
của toàn bộ đời sống xã hội khi mà chế độ phong kiến đang dần được thay thế bởi chế
độ mới tư sản mà còn đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong tư tưởng của
Sêcxpia. Ông còn viết: Sự vĩ đại của Sêcxpia còn thể hiện ở chỗ trong buổi bình minh
của sự phát triển Tư bản chủ nghĩa ông đã nêu ra trong tác phẩm của mình dưới một
hình thức hiện thực sâu sắc, tính chất vô nhân đạo của những quan hệ mới này đối với
sự phát triển của cá nhân con người.

7


Khoá luận Tốt nghiệp


Đoàn Thị Minh Hiếu

Một đất nước đang được hồi sinh lớn mạnh dưới sự trị vì của nữ hoàng Elizabét
I, loài người đã tự giải phóng ra khỏi xiềng xích của chế độ phong kiến Trung cổ vừa
mới kịp ngẩng đầu lên và đứng dậy trong toàn bộ tầm vóc hùng vĩ của mình thì ngay ở
đấy đã bị đè bẹp và bóp méo bởi cái thế giới vụ lợi, đam mê dục vọng của cá nhân con
người. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu về bi kịch của
Sêcxpia nên người ta gọi bi kịch của ông là Bi kịch của những dục vọng đen tối của
thời đại Phục Hưng [15.183].
2. Các công trình về kịch và bi kịch của Sêcxpia
2.1. Giáo trình
Trong giáo trình: Lịch sử văn học Phương Tây, các tác giả đã đề cập đến
Sêcxpia ở nhiều mặt: cuộc đời, quá trình sáng tác, các thể tài kịch cùng các nội dung, ý
nghĩa của các vở kịch nói chung. ở phần bi kịch, tác giả Lương Duy Trung viết: Tác
phẩm bi kịch của Sêcxpia thật muôn màu, muôn vẻ phong phú đến lạ thường. Chính vì
vậy mà V.Huygô gọi Sêcxpia là Con người đại dương.
Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh: Chủ nghĩa hiện thực của Sêcxpia thể hiện trong
việc xây dựng các nhân vật hết sức sinh động và sắc nét, nhà văn đã cá tính hoá cao độ
nhân vật của mình khiến cho các nhân vật của ông đã là Những con người này chứ
không phải là con người chung chung mờ nhạt nào.
Còn về ngôn ngữ trong kịch của Sêcxpia nói chung, tác giả Lương Duy Trung
viết: Kịch của Sêcxpia là kho ngôn ngữ vô tận. Kho ngôn ngữ đó chứa rất nhiều tục
ngữ, thành ngữ, câu đố, bàI hát dân gianNgôn ngữ trong kịch của Sêcxpia là một
phương tiện hết sức đắc lực làm nổi bật tính cách nhân vật [22.265].
Tuy nhiên, những nhận định trên về nghệ thuật kịch của Sêcxpia mới chỉ dừng
lại ở mức độ khái quát.
Trong Văn học Phương Tây, tác giả Phùng Văn Tửu khi đánh giá cao bi kịch
của Sêcxpia đã viết: Bộ hài kịch của Sêcxpia không nổi tiếng bằng bi kịch của ông
sáng tác sau này. Điều đó chứng tỏ ở thế kỷ XVI ở nước Anh, Sêcxpia là một cây bút
viết bi kịch rất tài ba.

Trong Lịch sử văn học Anh trích yếu, tác giả Nguyễn Thành Thống nghiên
cứu Sêcxpia không chỉ với tư cách một danh nhân văn học mà còn là một danh nhân sân
khấu. Trong công trình này, tác giả đã khảo sát kịch của Sêcxpia theo từng thời kì sáng

8


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

tác, tóm tắt sơ lược các tác phẩm trong đó có các vở bi kịch: Hămlet, Ôtenlô, Mắc
bét
Cuốn Lịch sử sân khấu thế giới tập 2 là một công trình nghiên cứu về
Sêcxpia với tư cách một danh nhân sân khấu. ở phần bi kịch, sáng tác có đề cập đến
tình thế bi kịch, tính cách nhân vật thường gặp trong nhân vật của Sêcxpia. Tuy nhiên
vấn đề chỉ mới đề cập, nghiên cứu dưới góc độ nội dung xã hội học chứ chưa phải là
góc độ thi pháp. Ngoài ra, tác giả còn nhận định sự vĩ đại của Sêcxpia còn thể hiện
trong các tác phẩm bi kịch Trong các vở kịch của mình, Sêcxpia đã chỉ ra một cách
rõ ràng và hết sức thuyết phục rằng những bi kịch đó không phải là do cá nhân con
người mà do hoàn cảnh xã hội mang lại dẫn tới sự nảy nở tính cách nhân vật, điều đó
làm cho con người khác đi.
Tác giả còn đề cập đến ngôn ngữ kịch của Sêcxpia: Ngôn ngữ của Sêcxpia cũng
phong phú như những nhân tố khác trong sáng tác của ông. Chúng ta bắt gặp trong kịch
của Sêcxpia vừa thơ ca cao cả, vừa thứ văn xuôi thô bỉ nhất, vừa những suy luận triết lý
sâu xa, vừa sự sắc sảo ngoài đường phố, vừa những tình cảm sáng chói, vừa lời ăn tiếng
nói lạnh lùng trong công việc [15.84]. Và tác giả đem so sánh ngôn ngữ của Sêcxpia
và ngôn ngữ của các nhà văn cổ điển trong đó có Puskin, ông nhấn mạnh rằng: Trong
Sêcxpia không có sự văn hoa quá khích và nếu như các bi kịch của Sêcxpia cũng nói
năng như những người giữ ngựa thì chúng ta không lấy làm lạ vì chúng ta cảm thấy các

ngài quý tộc cũng phải nói năng bình thường như những người bình thường.
Tuy những vấn đề trên còn sơ lược nhưng chính những nhận định này đã giúp
chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về nghệ thuật bi kịch trong một số vở bi kịch của Sêcxpia.
2.2. Các sách chuyên khảo, từ điển văn học, tạp chí văn học
Hai cuốn sách viết về Sêcxpia, cuốn thứ nhất của Nguyễn Đức Nam và Lương
Duy Trung; cuốn thứ hai của Vũ Đình Phòng đều viết về Sêcxpia dưới dạng một truyện
danh nhân như cuốn phim đặc tả cuộc đời của Sêcxpia từ thuở ấu thơ sống cùng gia
đình đến những ngày lang thang trên đường phố đã có được một vị trí mà mọi người
kính phục một kịch gia xuất sắc của thời đại Phục Hưng. Hai cuốn sách này cung cấp
rất nhiều tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp, những ảnh hưởng của cuộc sống đến sáng tác
của Sêcxpia. Tuy nhiên về nghệ thuật xây dựng bi kịch chưa đề cập được một cách sâu
sắc.

9


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Trong Từ điển văn học, trang 279, 280 mục Shakepeare tác giả Nguyễn
Văn Khoả biên soạn đã đề cập những nét khái quát về thân thế và sự nghiệp của
Sêcxpia, đánh giá cao sự cống hiến của ông với tư cách là một kịch gia lớn nhất của
mọi quốc gia và mọi thế kỉ. Ông khẳng định: Sêcxpia là một cây bút sáng tác kịch có
tài xây dựng được những tác phẩm không những sâu sắc về nội dung mà còn hết sức
sinh động với những tình huống khi căng thẳng khi dồn dập với những nhân vật được cá
thể hoá cao độ. Song nghệ thuật xây dựng bi kịch không được tác giả đề cập đến trong
công trình này.
Giáo sư Đặng Thai Mai trong bài viết: Kỉ niệm 400 năm ngày sinh của
Sêcxpia (Tạp chí văn học 6/1964) khẳng định vai trò , vị trí của Sêcxpia trong mọi

lĩnh vực và ảnh hưởng to lớn của Sêcxpia với nghệ thuật Việt Nam: Sêcxpia không
phải là một nhà văn xa lạ đối với công chúng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám,
giới trí thức, giới văn nghệ Việt Nam vẫn hâm mộ kịch của Sêcxpia qua các bản dịch
tiếng Pháp và nguyên văn bằng tiếng Anh. Dưới chế độ dân chủ cộng hoà ngày nay,
chúng ta dịch những vở kịch lớn của Sêcxpia. Các nhà nghiên cứu kịch nói, các nhà
nghiên cứu văn học Anh, bộ môn Văn học nước ngoài của các trường đại học chúng ta
đã giới thiệu, phân tích kịch Sêcxpia, giảng dạy Sêcxpia. Đông đảo bạn đọc đã đánh giá
cao nghệ thuật cũng như nội dung tư tưởng của kịch Sêcxpia. Giáo sư còn nhấn mạnh
những yêu cầu cần phải tìm hiểu, học tập những kinh nghiệm nghệ thuật của Sêcxpia:
Khi ta nói đến tính vĩnh cửu của một kiệt tác thì đồng thời cũng có nghĩa là ta thừa
nhận tính hiện đại. Dưới con mắt của quần chúng độc giả Việt Nam ngày nay, những
con người đang phấn đấu cho độc lập tự do và hạnh phúc của dân tộc thì nghệ thuật
viết kịch của Sêcxpia có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt phong phú đối với nhà nghiên
cứu văn học, với nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam chúng ta, sáng tác kịch của Sêcxpia
vẫn luôn được xem trọng, như những mẫu mực để học hỏi về mặt nghệ thuật .
Lời giới thiệu của Nhữ Thành trong Tuyển tập kịch Sêcxpia đề cập công phu
đến Sêcxpia trong nhiều lĩnh vực: Quá trình sáng tác, quan điểm của các thể tài kịch:
Kịch lịch sử, hài kịch, bi kịchTuy nhiên ở cấp độ lời giới thiệu, ông chỉ đề cập sơ
lược chứ chưa thực sự chú ý đi sâu vào nghệ thuật xây dựng bi kịch của Sêcxpia.
Bài viết của Lã Nguyên trong Nhân vật của Sêcxpia trong bối cảnh văn hoá
lịch sử nghiên cứu nhân vật Hămlet (trong vở kịch cùng tên) trong bối cảnh văn hoá
Anh thời kỳ Phục Hưng. Tác giả Lã Nguyên cho rằng: Trí tuệ, sự đối lập giữa trí tuệ

10


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu


và sự ngu dốt là những đề tài phổ biến trong văn học và trong triết học thòi Phục
Hưng. Ông còn nhấn mạnh rằng: Chính những điều kiện lịch sử xã hội thời Phục
Hưng đã sinh ra tấn bi kịch Hămlet điều kiện lịch sử cụ thể ấy đã làm nảy sinh mâu
thuẫn trong tư tưởng và hành động của nhân vật. Cuối cùng tác giả khẳng định:
Hămlet chính là tượng đài bi kịch khổ vì trí tuệ [Tạp chí Văn học số 4/1999]. Như
vậy trong bài viết này, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc đi nghiên cứu tìm hiểu một vở bi
kịch tiêu biểu nhất của Sêcxpia. Hơn nữa về nghệ thuật, tác giả mới chỉ nhắc đến một
cách chung chung khái quát về một phương diện của nghệ thuật bi kịch (nghệ thuật xây
dựng nhân vật) mà chưa chú trọng đến nhiều vở kịch khác của Sêcxpia cũng có thể
được coi là mẫu mực.
Tóm lại, nghiên cứu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy: các công trình nghiên
cứu đều chỉ ra được sự đóng góp của Sêcxpia trong lĩnh vực kịch đặc biệt là hài kịch và
bi kịch. Đồng thời khẳng định vị trí của bi kịch trong sự nghiệp sáng tác của ông ở giai
đoạn thứ hai (1601 - 1608). Tuy nhiên các tác giả mới chỉ chú trọng đến nội dung tư
tưởng kịch mà ít đề cập sâu sắc đến nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia.
Vấn đề nghệ thuật xây dựng bi kịch trong các vở bi kịch của Sêcxpia chưa được
nghiên cứu một cách thoả đáng, mới chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát sơ lược chưa thành
hệ thống. Mặc dù vậy, những nhận định trên đây sẽ những định hướng hết sức quý báu
giúp chúng tôi có cái nhìn đúng đắn và tự tin hơn trong việc triển khai đề tài khoá luận
Nghệ thuật xây dựng bi kịch trong một số vở bi kịch tiêu biểu của Sêcxpia.
III. Phạm vi nghiên cứu
Uyliam Sêcxpia là một kịch tác gia lớn có tầm cỡ thế giới. Ông sáng tác cả bi
kịch và hài kịch trong đó bi kịch chiếm một số lượng đáng kể. Song do khuôn khổ hạn
chế của khoá luận nên tôi chỉ đề cập vấn đề ở góc độ nghệ thuật xây dựng bi kịch trong
một số vở bi kịch tiêu biểu của ông. Mà nói tới các cở bi kịch của Sêcxpia thì chúng ta
không thể bỏ qua yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm
đó chính là nghệ thuật xây dựng bi kịch của Sêcxpia. Trong giai đoạn thứ hai giai
đoạn của những bi kịch bất hủ đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong thế
giới quan của Sêcxpia. Qua đó, ta thấy được những đóng góp và tạo riêng của ông. Cụ
thể việc nghiên cứu chủ yếu trên văn bản nghệ thuật của các vở bi kịch sau:

1. Hămlet (1601)

11


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

2. Ôtenlô (1604)
3. Macbet (1605)
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sử dụng một số tác phẩm bi
kịch khác để làm nổi bật và hoàn thiện hơn nghệ thuật xây dựng bi kịch của Sêcxpia.
Tóm lại nghiên cứu Sêcxpia từ góc độ nghệ thuật bi kịch tức là xem xét nhà viết
kịch đã sử dụng nghệ thuật bi kịch như thế nào để tạo ra giá trị thẩm mĩ có ý nghĩa xã
hội gắn liền với Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
1. Phương pháp khảo sát văn bản (các vở kịch của Uyliam Sêcxpia đã
dịch ra tiếng Việt).
2. Phương pháp so sánh.
3. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Các phương pháp trên có khi chúng tôi thực hiện một cách độc lập nhưng cũng
có khi được sử dụng một cách cộng gộp để đạt được hiệu quả tốt hơn trong khoá luận
này.

12



Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Phần nội dung
Chương I:

Cái bi và nghệ thuật bi kịch
I.1. Khái niệm về cái bi
Trong mỗi cá nhân con người đều tồn tại những cung bậc của trạng thái tâm lí
như đồng tình hoặc phản đối, yêu hay ghét, có những khát vọng chính đáng hay không
chính đáng Và chúng ta thấy chính những khát vọng của con người là ranh giới để
xác định nhân cách của họ.
Hơn nữa, con người luôn dựa vào tiêu chuẩn của cái đẹp để đánh giá tất cả
những biểu hiện phức tạp đan chéo nhau trong đời sống hàng ngày. Xã hội càng ngày
càng văn minh song vẫn không thể xoá bỏ hết tình trạnh người bóc lột người, cá lớn
nuốt cá bé rơi vào tình cảnh quần ngư tranh thực. Thậm chí làm cho nhiều người rơi
vào cảnh lầm than, cực khổ.
Từ những vấn đề thực tiễn ấy của cuộc sống, con người phải tìm cách khắc phục
lỗi lầm của mình để vươn tới một xã hội tốt đẹp không có tiếng kêu rên của những kiếp
người bất hạnh bị chà đạp, khổ đau. Như thế bi kịch cũng là một hình thức giáo dục con
người. Bi kịch cho phép con người ta làm thanh sạch tâm hồn; giúp cho chúng ta có
được bài học về lòng cao thượng, về sự can đảm [8.64]. Nếu như trong hài kịch có một
vai trò quan trọng là dùng tiếng cười để uốn nắn cuộc sống, tống tiễn cái cũ và đón
nhận cái mới một cách nhẹ nhàng nhưng sâu sắc; thì trong bi kịch là một loại hình
thẩm mỹ nghiêm trang dùng tiếng khóc để răn đời.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải phân biệt được rằng nếu như cái đẹp có mặt trong
tự nhiên, trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật thì cái bi kịch là một hình tượng
thẩm mĩ đặc biệt không có trong tự nhiên, chỉ tồn tại trong xã hội và trong nghệ thuật.


13


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Bởi vì nó là một tình huống của con người trong cuộc sống xã hội loài người. Mặt khác,
còn phải hiểu được bi kịch ở đây không đơn thuần chỉ là cái chết gắn liền với những tổn
thất nặng nề vì theo các nhà nghiên cứu quan niệm: Bản chất của bi kịch thường gắn
liền với sự mất mát đau thương song không phải sự mất mát đau thương nào cũng là cái
bi.
Như vậy chúng ta thấy rằng bản chất của bi kịch cũng vẫn là sự mất mát đau
thương. Hơn nữa để thấy được vấn đề về bản chất của bi kịch, chúng tôi đã dẫn ra rất
nhiều quan điểm của những nhà tư tưởng lỗi lạc ở phần trên. Tuy nhiên cần phải có một
khái niệm thông thường nhất về cái bi.
Sau đây là một số quan niệm thông dụng để hiểu nhất về bi kịch:
+ Theo Arixtote nhà triết học duy vật, nhà lí luận, nhà mĩ học cổ đại Hy Lạp
quan niệm: Bi kịch là sự mô phỏng một hành động quan trọng và trọn vẹn có quy mô
nhất định, [sự mô phỏng] đó nhờ vào nhôn ngữ - ngôn ngữ này trong mỗi phần có sự
trau chuốt khác nhau; bằng hành động chứ không phải bằng câu chuyện kể, bi kịch, qua
cách, (khêu gợi nên - ND) sự xót thương và sợ hãi, thực hiện sự thanh lọc cảm xúc
tương tự [1.190].
+ I.U.Bôrep khi nghiên cứu về phạm trù mỹ học trong đó có cái bi, ông quan
niệm: Bi kịch là sự tiêu vong cảu một hiện tượng có ý nghĩa tiến bộ về mặt lịch sử,
mang một ý nghĩa xã hội khách quan, hoặc chưa mất hết khả năng nội tại của nó, chưa
phải hoàn toàn đã lỗi thời. Cái bi kịch là cảnh chết hoặc bất hạnh nặng nề của nhân vật
mà những đặc điểm của tính cách và kết quả khách quan của hành động đều mang ý
nghĩa tích cực về mặt chính trị, đạo đức và thẩm mỹ đều mang giá trị nhất định về mặt
lịch sử. Cái bi kịch là một biến cố khêu gợi sự đồng cảm, cảm xúc với cảnh tiêu vong

và có tác dụng thẩm mỹ trong tâm hồn người xem [2.336].
Như vậy khi tìm hiểu về cái bi, các nhà mỹ học trước Mác tuy ở những mức độ
khác nhau nhưng đều chứa đựng những kiến giải độc đáo. Họ đều nhìn thấy cái bi kịch
luôn chứa đựng và thể hiện các mặt đối lập của các hiện tượng xã hội, do đó nó có tính
khách quan. Song mặt chủ quan ở đây là việc tìm hiểu cái bi kịch thể hiện khát vọng
muốn khám phá bản chất của một kiểu quan hệ đặc thù của con người đối với thế giới
một hình thức độc đáo của nhận thức và đánh giá hiện thực.

14


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Kế thừa và phát triển những ý kiến của các nhà mỹ học ở thế hệ trước, các nhà
nghiên cứu mỹ học ở thế hệ sau đã đưa ra những khái niệm khá quát và đầy đủ hơn về
bi kịch:
Trong Từ điển tiếng Việt nhà xuất bản Khoa học xã hội Viện ngôn ngữ
do Hoàng Phê chủ biên quan niệm: Bi kịch: nêu cuộc đấu tranh căng thẳng thường kết
thúc bằng sự hy sinh của nhân vật chính diện [10.75].
Trong Từ điển Văn học nhà xuất bản Khoa học xã hội 1983 Tập 1 của
Nguyễn Đức Nam quan niệm: Bi kịch là một thể loại kịch đối lập với hài kịch, thường
miêu tả những người lương thiện, dũng cảm, anh hùng đấu tranh vì mục đích tốt đẹp,
một lý tưởng cao quý nhưng trong điều kiện khách quan không cho phép thực hiện
khiến họ thất bại. Qua những gian khổ, những hy sinh, phẩm chất cao quý của nhân vật
nổi bật lên, gợi cảm hoặc hấp dẫn người đọc, hoặc người xem trong không khí bi tráng
[Trang 67]. Ông còn quan niệm: nhân vật bi kịch thường thất bại, lý tưởng mà họ đấu
tranh không thực hiện được nhưng tinh thần của họ gợi lên sự kính phục và tin tưởng
trong lòng người xem. Đó là tác dụng giáo dục của bi kịch.

Theo Giáo sư Trần Đình Sử: Bi kịch là một thể của kịch, đối lập với hài kịch.
Nó sử dụng triệt để sức mạnh của kịch nhằm phản ánh cái bi như một trạng thái nhân
thế để mang lại cho nó một ý nghĩa xã hội lớn lao [24.228].
Vậy để hiểu bi kịch một cách sắc nét và toàn diện hơn chúng ta cần đặt nó trong
tương quan với hài kịch để thấy rõ hơn bản chất cốt yếu của nó.
Quan niệm của Arixtote: Hài kịch là sự tái hiện những người xấu nhất tuy nhiên
không có nghĩa là hoàn toàn độc ác, xấu xa mà chỉ có nghĩa là đáng cười, là một cái
xấu, cái đáng cười, đó chỉ là một sự sai lầm và cái xấu nào đó không ngừng gây thống
khổ và sự không nguy hại cho ai cả. Vì vậy để khỏi đi tìm thí dụ ở đâu xa ta xem ngay
cái mặt nạ hài kịch: nó là một cái gì xấu xa, kỳ quái nhưng không thể hiện sự đau khổ
[1.46].
Với Timôfeep thì cho rằng: hài kịch trong nghĩa rộng nó thể hiện những mối
xung đột được đúc kết bằng sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giữa các mặt. Theo nghĩa
hẹp, người ta thường dùng để chỉ các tác phẩm trong đó cuộc đấu tranh kết thúc bằng
sự hoà giải của hai bên đấu tranh với nhau.
Lessing thì cho rằng, hài kịch luyện tập cho chúng ta năng lực nhận ra cái lố
bịch, đáng cười [24.229].

15


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Theo giáo sư Trần Đình Sử thì hài kịch là một thể của kịch, đối lập với bi kịch.
Nếu bi kịch là tiếng khóc đưa tiễn hương hồn người chết đã lên thiên đường, thì hài
kịch là tiếng cười chôn vùi những thây ma còn sống xuống địa ngục [24.229].
Về tính cách ta thấy: trong hài kịch tính cách của nhân vật thường gắn liền với
cái cười mà cái cười là một hình thức chế ngự cái xấu. Dám cười cái xấu là dám tin và

tự khẳng định sự tốt đẹp của mình, không ít ra thì cũng thừa nhận rằng cái xấu là cái
đáng ghét, đáng cười. Vì vậy cái hài rất gần với cái xấu, cái đáng ghét, đáng khinh
Khác với hài kịch, tính cách nhân vật bi kịch không thể yếu đuối cũng như
không thể tiêu cực hay phản động. Sự kháng cự của những tư tưởng đã mất hết tính tiến
bộ, bi kịch lịch sử vứt vào sọt rác không có chất bi mà nó lại chỉ mang tính hài sâu sắc.
Cái bi là sự mất mát nhưng sự mất mát có lý tưởng của cái cao cả, cái đẹp. Bởi vậy cái
bi rất gần gũi với cái cao cả.
Nói tới xung đột trong hài kịch thì xung đột trong bi kịch có những nét khác căn
bản. Nếu xung đột trong hài kịch là xung đột giữa cái đẹp và một bộ phận của cái xấu
nhưng không đành phận xấu, là xung đột tự thân của một bộ phận xấu do nó có tính
luồn lách vào trong cái đẹp, mượn bóng cái đẹp và cái đẹp có nhiệm vụ phát ra luồng
ánh sáng cực mạnh để soi tỏ những cái xấu xa. Khác với xung đột trong hài kịch, xung
đột trong bi kịch là xung đột trực diện giữa cái đẹp với một bộ phận của cái xấu và cái
toàn bộ xấu. Đồng thời là xung đột của cả hai phía đang vận động.
Theo Ănghen: Xung đột bi kịch nằm ở giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và
tình trạng không tài nào thực hiện được điều đó trong thực tiễn [12.378]. Có thể khái
quát rằng, bi kịch phản ánh những mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt thường kết thúc bằng
sự thảm hại hoặc cái chết của nhân vật. Tuy kết thúc bằng sự thảm hại hay cái chết của
nhân vật nhưng nó lại làm nổi bật sự chiến thắng của con người và ước vọng của con
người đời đời bất tử.
Tóm lại, những lý luận trên đây về cái bi xét từ góc độ khái niệm và bản chất của
nó tuy chưa thật đầy đủ song nó có ý nghĩa là tiền đề, là cơ sở để tôi tìm hiểu, nghiên
cứu nghệ thuật xây dựng bi kịch của Sêcxpia.
I.2. Nghệ thuật bi kịch
Cái bi là một hiện tượng quan trọng trong xã hội và bi kịch chính là đỉnh cao
nhất của nghệ thuật. Song chúng ta cần phải hiểu rằng nghệ thuật bi kịch là một trong

16



Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

những vấn đề phức tạp bởi ngoài tính phổ quát nó còn mang tính dân tộc, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của dân tộc đã sinh ra nó. Các nhà lý luận cho rằng bất kỳ một nền nghệ
thuật nào dù là hài kịch hay bi kịch cho dù rất khác nhau nhưng chúng bao giờ cũng
gắn liền với dân tộc.
Hơn nữa khi nghiên cứu về mảng hài kịch, tác giả Đỗ Văn Khang cho rằng: các
hình tượng thẩm mỹ trong đó bao hàm cả hài kịch hay bi kịch là hiện tượng có tính phổ
biến, nhiều nhà lý luận cho rằng đó là tính toàn nhân loại Điều đó là bởi do sự cố kết
ngàn đời về lãnh thổ, về đời sống kinh tế xã hội, cách ứng xử của một dân tộc có một
hình thái tâm lý khác nhau do đó cũng tạo thành mạch cảm xúc và biểu hiện hình thái
khác nhau.
Trong cuốn Nghệ thuật thi ca, Arixtote chia bi kịch ra làm bốn loại, đó là:
1. Bi kịch phức tạp
2. Bi kịch của những nỗi đau khổ
3. Bi kịch tính cách
4. Bi kịch thần kỳ
Khác với cách phân chia của Arixtote, trong cuốn Mỹ học đại cương tác giả
Đỗ Văn Khang cho rằng: bi kịch rất đa dạng, phong phú, phức tạp cũng như sự phong
phú, phức tạp của cuộc đời vậy. Ông chia bi kịch ra làm sáu loại sau:
1. Bi kịch của nhân vật chết trong đêm trường đen tối
2. Bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh
3. Bi kịch của cái cũ
4. Bi kịch của cái xấu xa
5. Bi kịch của sự lầm lẫn, sự kém hiểu biết hoặc sự ngu dốt
6. Bi kịch của những khát vọng con người
Mặc dù trong mỗi cách chia của các nhà mỹ học có khác nhau song vấn đề là ở
chỗ mọi loại hình bi kịch được chia như trên đều thuộc những vấn đề có ý nghĩa xã hội

rộng lớn và mang tính triết luận sâu xa của xã hội và con người.
I.3 Một số quan niệm về nhân vật kịch và nhân vật bi kịch
Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ
đề và tư tưởng của tác phẩm nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng nghệ
thuật của tác phẩm văn học [10.111].

17


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

V.E.Khaliep trong cuốn: Dẫn luận ngôn ngữ văn học của Pôspêlôp quan
niệm: Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả những con người cá nhân với hành vi bề
ngoài và cách hiểu thế giới của chúng. Các cá nhân này thông thường được gọi là tính
cách hay vai hành động hoặc là nhân vật tác phẩm Các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật không phải giản đơn là những dập bản của những con người sống mà là những
hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý đồ tư tưởng tác giả.
Đó là hiện tượng tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm tự sự
và kịch. Điều quan trọng trước hết là phải hiểu chức năng của hệ thống nhân vật, nội
dung và ý đồ của nó. Chính vì đó mà ta bắt đầu xem xét truyện ngắn, tiểu thuyết hay
hài kịch, bi kịch
Hà Minh Đức trong cuốn Cơ sở lý luận văn học quan niệm: nhân vật và cốt
truyện là hai thành tố cực kỳ quan trọng, thiết yếu trong cấu trúc nghệ thuật của tác
phẩm kịch và tự sự Không phải ngẫu nhiên mà khi phân tích các tác phẩm thuộc hai
loại hình này chúng ta đều bắt đầu từ sự phân tích nhân vật và cốt truyện. Và chỉ bằng
con người đó thì chúng ta mới có sơ sở thâm nhập vào nội dung cũng như hình thức của
tác phẩm.
Như vậy, yếu tố nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng nhất của tác

phẩm kịch hay tự sự. Bên cạnh vai trò bộc lộ nội dung tư tưởng, nó còn giữ vai trò quyết
định hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Nhân vật văn học chính là sáng tạo của người
nghệ sỹ, thông qua các nhân vật mà nhà văn bộc lộ gửi gắm tâm sự, những cảm nhận
đánh giá của mình với cuộc sống hiện thực. Và quá trình chiếm lĩnh một tấc phẩm nghệ
thuật bao giờ cũng bắt đầu từ việc tiếp cận hệ thống nhân vật.
Về nhân vật kịch, theo M.Gorki trong Bàn về văn học nghệ thuật - nhà xuất
bản Văn học Hà Nội 1965, tập 2 trang 133, quan niệm: Kịchbi kịch, hài kịch là một
thể loại khó nhất trong văn học. Khó là vì một vở kịch đòi hỏi mỗi nhân vật trong vở
kịch tự biểu hiện tính cách bằng lời nói và hành động, không có những mách bảo gợi ý
của tác giả.
Tác giả kịch bản không xuất hiện trên sân khấu mà nói bằng đối thoại của các
nhân vật, bằng cấu trúc của vở kịch, bằng lời hướng dẫn [4.4]. Do vậy nhân vật kịch
chủ yếu được hình dung qua diện mạo, cử chỉ, điệu bộ Qua cái dễ nhìn thấy (ngoại
hình) của nhân vật để cảm nhận cái khó thấy hơn (tính cách tâm lý nhân vật) là một
hình tượng có ý nghĩa quy luật trong ý thức sáng tạo của nhà văn.

18


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Đối với nhân vật bi kịch thường được miêu tả đậm nét, cận cảnh nhất ở trạng
thái tĩnh và là phương tiện để bộc lộ rõ bản chất nhân vật. Vì vậy để tạo ra hiệu quả của
bi kịch thường đi vào xây dựng tính cách nhân vật nhằm thực hiện ý đồ nghệ thuật của
mình. Nhân vật kịch thường bằng những hành động quyết liệt để chống lại hoàn cảnh.
Ngay trong những lúc khó khăn nhất họ vẫn trung thành với mục đích lý tưởng của
mình; vẫn tin vào sức mạnh, vào nghị lực, và sự chính đáng của mình. Bởi vậy, họ kiên
quyết không lùi bước trước thế lực xấu xa đen tối, cuối cùng do cuộc chiến đấu không

cân sức, do chưa đủ khả năng thực tế để thực hiện lý tưởng và khát vọng chính đáng của
mình mà nhân vật bi kịch phải hy sinh và chấp nhận cái chết.
Như vậy, nhân vật kịch đã chứng tỏ là những tính cách mạnh mẽ không hề yếu
đuối và bị động trước những tình huống bất lợi kể cả khi phải chịu một kết cục bi thảm.
Bởi họ đã quyết tâm chiến đấu đến cùng, đã phát huy đến mức cao nhất khả năng tận độ
của mình nhưng dường như hoàn cảnh đã không mỉm cười với họ.
Tóm lại với những quan niệm và nhận định nêu trên sẽ là chìa khoá giúp tôi định
hướng về mặt lý luận để khám phá nghệ thuật xây dựng bi kịch trong một số vở bi kịch
tiêu biểu của U.Sêcxpia.

19


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Chương II:

Nghệ thuật xây dựng bi kịch trong một số vở bi
kịch tiêu biểu của Uyliam Sêcxpia
II.1. Nghệ thuật tạo tình thế bi kịch
Trong mỗi vở kịch để tạo nên sự thành công thì một trong những yếu tố rất quan
trọng có tác dụng tạo ra kịch tính dẫn dắt mâu thuẫn, xung đột kịch phát triển chính là
tạo ra một tình thế bi kịch hấp dẫn. Sêcxpia một nhà viết kịch tài ba đã thể hiện rõ tài
năng sáng tạo của mình thông qua việc tạo dựng trong các vở bi kịch của mình bằng
những tình thế bi kịch có hiệu quả.
II.1.1. Bi kịch tình thế bất ngờ
Bất ngờ là không ai ngờ tới, xảy ra ngoài dự tính (Từ điển tiếng Việt).
Bất ngờ là một yếu tố rất quan trọng trong bi kịch, chính cái bất ngờ ngoài dự

đoán làm cho kịch tính của vở kịch phát triển cao một sự hứng thú của vở kịch là sự
bất ngờ. Song chúng ta cần phải phân biệt bất ngờ với cái ngẫu nhiên. Trong tác phẩm
kịch, cái bất ngờ là một thủ pháp nghệ thuật mà các nhà viết kịch sử dụng để tạo ra hiệu
quả nghệ thuật nhất là các vở bi kịch. Nó có thể bất ngờ với nhân vật hoặc với khán giả
nhưng không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên, không phải sự bất ngờ gò ép, khiên cưỡng
phi lý vì nó nằm trên chuỗi phát triển logic của cốt truyện và tính cách nhân vật. Yếu tố
bất ngờ thường đạt đến đỉnh điểm. Tác giả tạo ra tình thế bất ngờ để giải quyết mâu
thuẫn, đưa đến cho vở kịch một kết thúc đau khổ cay đắng, thậm chí mất mát, hy sinh.
Trong một số vở kịch của Sêcxpia, tình thế bất ngờ là một thủ pháp nghệ thuật
đặc sắc để xây dựng bi kịch. ở các vở bi kịch của mình, tác giả tạo ra tình thế bất ngờ
làm cho mâu thuẫn xung đột giữa các nhân vật phát triển tới đỉnh điểm của nó.
ở Hămlet yếu tố bất ngờ được thể hiện rõ ở hồi I cảnh 5 khi bóng ma người
cha xuất hiện kể cho Hămlet nghe về cái chết không thể ngờ tới do chính bàn tay em
mình chú ruột Hămlet ám sát một cách kinh tởm, đồng thời yêu cầu Hămlet trả thù.

20


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Chính yếu tố này khiến cho Hămlet không còn hoài nghi gì nữa. Hămlet quyết định trả
thù cho cha nhưng điều kiện chưa cho phép nên để lật tẩy tội ác của Clôđiút, Hămlet
buộc phải trình diễn một vở kịch mang tên Vụ án Gônzagô giống hệt với cái chết
của vua cha Hămlet (hồi III cảnh 2). Sự việc này làm cho Clôđiút thật bất ngờ đến
hoảng hốt đùng đùng bỏ về. Vì hành động của Clôđiút giờ đã bị soi sáng bởi ánh mặt
trời nhưng kịch tính của vở kịch còn phát triển hơn nữa ở hồi V cảnh 2. Thật bất ngờ
đối với Hămlet, việc đấu kiếm với Laơctơ đã bị Clôđiút âm mưu cho tẩm thuốc độc
(mưu kế đã được sắp đặt). Như vậy yếu tố bất ngờ này cứ được lặp đi lặp lại, ban đầu là

Hămlet rồi đến Clôđiút sau đó lại trở về Hămlet. Cuối cùng cả Hămlet, Clôđiút, hoàng
hậu đều phải chết. Cái chết của Hămlét không chỉ là cái chết đơn thuần của sự trả
thù, sự hạ sát hèn hạ mà còn là cái chết của những ước muốn cao cả muốn thiết lập lai
trật tự xã hội mà không thực hiện được. Và cái ước muốn đó đã đi trước quá xa lịch sử.
Chính điều đó đã tạo nên những mâu thuẫn xung đột dẫn đến nhiều bi kịch đớn đau và
cái chết của Hămlet như là một tất yếu mang tính bi kịch lịch sử.
Tương tự trong vở kịch Ôtenlô, sự xuất hiện của Êmylia đã giải toả được mối
ghen tuông ly kỳ. Trong hồi III cảnh 4 của vở Ôtenlô, tình thế kịch được đặt trong sự
hiểu lầm căng thẳng. Đó là cuộc đối thoại hết sức gay gắt giữa Ôtenlô và Đexđêmôna,
Ôtenlô cho rằng Đexđêmôna lừa dối, phản bội. Trước tình huống căng thẳng, mâu
thuẫn đạt đến đỉnh điểm thì Êmylia xuất hiện đóng vai trò như người mở nút, làm cầu
nối trung gian xoá bỏ khoảng cách giữa Ôtenlô và Đexđêmôna. Iagô không ngờ rằng
chính Êmylia lại tố cáo hành vi tội ác của mình với Ôtenlô. Lời tố cáo khiến Ôtenlô thật
bất ngờ, điều mà chàng không bao giờ ngờ tới lại có thể xảy ra. Nhờ Êmylia mà Ôtenlô
đã nhận ra sự nóng vội, mù quáng, sự ghen tuông vô cớ của mình đã dẫn đến hành động
giết chết người vợ mà chàng vô cùng yêu thương. Vở bi kịch kết thúc cho dù mâu thuẫn
được giải quyết nhưng cuối cùng Đexđêmôna chết và Ôtenlô cũng đón nhận cái chết
trong sự tự trừng phạt mình.
Cùng với hai vở bi kịch Hămlet và Ôtenlô, trong vở bi kịch Macbet tình
thế bất ngờ chính là sự xuất hiện của các mụ phù thuỷ suy tôn Macbet tương lai sẽ lên
làm vua. Điều này khiến cho Macbet bất ngờ và sự bất ngờ này làm cho Macbet bao lần
phải suy nghĩ, hồ nghi, băn khoăn,do dự Nhưng ánh hào quang của ngai vàng đã
khiến Macbet loá cả mắt và loá cả tâm hồn. Càng về sau Macbet càng lún sâu vào tội
ác. Cuối cùng vở kịch kết thúc là một cái chết đau đớn và bi thảm.

21


Khoá luận Tốt nghiệp


Đoàn Thị Minh Hiếu

Tóm lại tình thế bất ngờ là một thủ pháp nghệ thuật hết sức độc đáo được
Sêcxpia sử dụng triệt để làm cho tình tiết của vở kịch diễn ra hết sức căng thẳng, dồn
dập để đến một lúc nào đó sự kiện được lật tẩy, mâu thuẫn xung đột tạm thời lắng
xuống. Tuy vậy, kết cục đều là cái chết của cả nhân vật phản diện lẫn nhân vật chính
diện, điều đó thể hiện rõ tấn bi kịch của con người thời Phục Hưng.
II.1.2. Bi kịch tình thế nảy sinh do tác động của hoàn cảnh xã hội
Hoàn cảnh xã hội là một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu được
trong xã hội loài người. Nó giúp con người nhận thức được bản chất cốt yếu của cuộc
sống. Nhiều người cho rằng hoàn cảnh xã hội ở đây có thể là hoàn cảnh chung hoặc
hoàn cảnh riêng và con người luôn luôn chịu sự quy định của hoàn cảnh xã hội. Đôi khi
do tác động của hoàn cảnh mà con người có sự chuyển biến theo chiều hướng tốt hoặc
chiều hướng xấu. Khi hoàn cảnh xã hội thuận lợi cho sự phát triển của con người theo
đúng quy luật của nó thì khi đó con người không hề có bi kịch. Ngược lại khi hoàn
cảnh xã hội không thuận lợi cho sự phát trỉên của con người, luôn chống lại con người
làm cho ước muốn của con người bị huỷ bỏ thậm chí gây ra những hậu quả xấu khi đó
con người rơi vào tình thế bi kịch. Người ta gọi đó là bi kịch do hoàn cảnh xã hội mang
lại. Khi nghiên cứu về tác động của hoàn cảnh đối với con người, Bôrép quan niệm: Bi
kịch là sự tác động lẫn nhau giữa tính cách và hoàn cảnh, trong đó vai trò chủ đạo thuộc
về tính cách và cuộc đấu tranh cho yêu cầu đã chín dần, chính đáng về mặt lịch sử
nhưng chưa có điều kiện để thực hiện dẫn tới kết quả là tính cách phải tiêu vong và
chung quy những lý tưởng, những mục đích xã hội được thể hiện phong phú ở mức độ
này hay mức độ khác qua nhân vật hy sinh [2.337]. Ông còn viết: Tính cách bi kịch
được khẳng định vững vàng qua những thử thách chiến thắng và thất bại của con người
[2.287].
Đây là một yếu tố làm nên sức mạnh của nghệ thuật bi kịch Sêcxpia, bởi vì khi
sáng tác một loạt các vở bi kịch chính là Sêcxpia muốn nói lên cuộc đấu tranh gay gắt,
khốc liệt giữa cá nhân và xã hội. Trong đó các thế lực đen tối quyết tâm tiêu diệt tất cả
những gì cản trở, chống lại tham vọng chính trị của nó.

Đồng thời Sêcxpia nhận ra các thế lực đen tối vẫn đang ngự trị trên một đất
nước, đặc biệt là sức mạnh của đồng tiền như muốn biến cả thế giới thành một nhà tù.
Vì vậy Sêcxpia muốn lên tiếng tố cáo xã hội qua các vở bi kịch của mình.

22


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

Trong vở kịch Hămlet, ta nhận thấy Hămlet luôn có nỗi khổ tâm day dứt của
riêng mình, đặc biệt khi nhìn rộng ra xã hội và thế giới thì nỗi khổ đau ấy cứ lớn dần
lên. Hămlet nhận thấy thời đại mình là một thời đại đảo điên tan tác đã biến Đan
Mạch thành một ngục thất ghê tởm và biến cả thế giới thành một nhà tù đen tối.
Nhận thức được vấn đề này khiến Hămlet luôn đấu tranh, muốn mang lại cho nhân loại
khổ đau đang rên xiết dưới gông cùm, xiềng xích có được tự do tức là muốn xây dựng
lại cái xã hội mà anh đang sống nó ngay ngắn vững vàng hơn. Tuy vậy do hoàn cảnh
xã hội dù là bước ngoặt tiến bộ nhất mà từ trước đến bấy giờ loài người chưa từng
thấy (Ănghen). Hơn nữa cái bi kịch của Hămlet là do Hămlet chưa tìm được con
đường xây dựng xã hội mới trong đó chàng là con người tiên tiến đã đến quá sớm so với
điều kiện của lịch sử, chưa có những đồng chí, những mô hình mới về một xã hội tương
lai. Vì vậy, bi kịch Hămlet còn được coi là bi kịch lịch sử.
Trong vở kịch Ôtenlô, bi kịch của Ôtenlô do hoàn cảnh xã hội mang lại
được trình bày khá rõ khi đấu tranh để thực hiện lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Ôtenlô một dũng tướng da đen có tài, chinh phục được nàng Đexđêmôna - con gái qúy tộc da
trắng. Điều đó chứng tỏ Ôtenlô đã chiến thắng được thế lực phong kiến cũ nhưng lại
vấp phải thế lực đen tối lớn hơn đang xâm nhập đổ xuống đầu nhân loại, đó là thế lực
chủ nghĩa tư bản mà kẻ đại diện là Iagô - một nhân vật mưu mô, nham hiểm đến cùng
cực. Đối với Iagô: tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn bè, thậm chí cả lương tri đều trở
nên vô nghĩa hắn chỉ thừa nhận tiền, vàng và địa vị cá nhân cùng với dục vọng và

những mưu đồ đen tối. Lê Nin đã từng nhận định: Tất yếu xuất phát từ một môi trường
xã hội nhất định, môi trường tạo thành chất liệu và khách thể cho đời sống tinh thần cá
nhân [15.418].
Cùng với hai vở bi kịch Hămlet và Ôtenlô, vở bi kịch Macbet cũng
được coi là một trong những đỉnh cao sáng tác của Sêcxpia. Đó là thời đại Phục Hưng
mà con người khổng lồ về mặt dục vọng đen tối Macbet bị ánh hào quang của ngai
vàng làm cho loá mắt và loá cả tâm hồn. Do đó con đường đi tới ngai vàng của Macbet
phải trải qua rất nhiều tội ác để rồi tự huỷ hoại bản thân mình. Hêghen nhận định:
Bởi vì chỉ vâng theo những sự cần thiết cấp bách của cá tính họ, họ bị hoàn cảnh
bên ngoài lôi cuốn vào hành động hoặc nhắm mắt lao vào hành động và cho dù sở dĩ họ
hành động là vì sự bắt buộc yêu cầu, họ vẫn tìm thấy ở trong ý chí mình cái sức mạnh
để tự khẳng định mình trong sự đối lập với những người khác Sự xuất hiện một dục

23


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

vọng tuy vốn là bộ phận hữu cơ của tính cách nhưng vẫn chưa có dịp biểu hiện mà chỉ
mới bắt đầu hé mở thôi, sự diễn biến của cuộc sống bên trong một tâm hồn, chống lại
hoàn cảnh và các điều kiện bên ngoài nhưng cuộc đấu tranh dẫn những con người này
tới sự huỷ hoại chính mình [9.819]. Vì vậy việc Ôtenlô đón chờ cái chết như là một
sự giải phóng khỏi cái gánh nặng mà chính chàng đã khoác lên tâm hồn mình.
Tóm lại, Sêcxpia hơn hẳn những nhà văn khác thời kì Phục Hưng chính là ở
chỗ đã thấy được bản chất vô nhân đạo của những quan hệ xã hội tư sản mới. Sêcxpia
nhận thấy rằng trên cái mề đay nhãn hiệu Phục Hưng, bên cạnh những con người tiên
tiến còn có các thế lực hắc ám đang đè nén. Do vậy phê phán xã hội cũ, Sêcxpia như
muốn vạch rõ bộ mặt của xã hội mới. Chính thái độ của Sêcxpia đối với xã hội thời kì

đó khiến ông gần gũi với chúng ta, trở thành người của thời đại chúng ta. Cũng chính
bởi điều đó đã đưa ông trở thành một nghệ sĩ của nhân dân trong ý nghĩa trọn vẹn nhất
của danh từ và Puskin đã nói: Trong bi kịch Sêcxpia nói lên cái gì? Mục đích của bi
kịch là cái gì? Đó là con người và nhân dân. Đó là số phận của nhân loại, số phận của
nhân dân Chính chỗ đó làm cho Sêcxpia vĩ đại. [20.38]
II.1.3. Bi kịch nảy sinh từ tính cách nội tại của nhân vật (Bi kịch nội tại)
Sự phong phú phức tạp trong đời sống xã hội loài người đã tạo ra biết bao số
phận, bao tính cách khác nhau. Tính cách của con người bên cạnh mặt khách quan đem
lại còn do mặt chủ quan của chính con người đó. Điều này khi soi vào trong tác phẩm
nghệ thuật, ta cũng nhận thấy mặc dù trong cùng một tác phẩm, ra đời trong cùng một
thời kì lịch sử nhất định thì tính cách của nhân vật trong tác phẩm đó cũng khác nhau.
Từ những vấn đề trên khi đặt vào trong phạm trù mĩ học mà cụ thể là trong bi
kịch, chúng tôi nhận thấy nhân vật bi kịch không hoàn toàn do hoàn cảnh xã hội mang
lại mà còn do tính cách của nhân vật đó. Bởi trong mỗi nhân vật dường như có sự phân
chia thành hai hoặc là nhân vật tích cực hoặc là nhân vật tiêu cực nhằm cải tạo hoàn
cảnh, vượt lên trên hoàn cảnh nhưng cuối cùng bị thất bại thậm chí dẫn đến cái chết.
Có thể coi đây là một yếu tố quan trọng nữa trong việc tạo nên thành công những vở
kịch của Sêcxpia.
Trong vở bi kịch Hămlet, nhân vật Hămlet luôn luôn suy nghĩ và hành động
mang tính cách đại diện cho con người thời đại Phục hưng. Chính cái chết đột ngột của
vua cha và sự tái giá vội vàng của người mẹ khiến Hămlét nghi ngờ để đến khi sự việc

24


Khoá luận Tốt nghiệp

Đoàn Thị Minh Hiếu

được phơi bày, Hămlet nghĩ đến cách trả thù. Song Hămlet do dự nhưng sự do dự của

Hămlet không phải là không có lý do. Hămlet muốn được lật tẩy tội ác của Clôđiút
trước ánh sáng công lý nhưng sự hạn chế trong con người Hămlet là chưa nhìn thấy bản
chất thực của xã hội mà anh muốn phá bỏ, xây dựng lại cho nó ngay ngắn vững vàng.
Vì vậy sự hoài nghi, bi quan, do dự là những nét đậm trong tính cách con người
Hămlet, điều đó không thể không nhận thấy song vẫn chưa đủ. Một nét khá đậm nữa
trong tính cách của Hămlet chính là sự cô độc; sự hoang mang trước cảnh tan vỡ của
những giá trị làm thành những ý nghĩa của cuộc sống.
Mô-cun-xki khi bàn đến cái chết của Hămlet, ông cho rằng: Sự thi hành
nhiệm vụ của Hămlet cũng đã trở thành tất yếu hợp với quy luật. Anh chết vì sự cô độc
của mình, vì sự không kiên quyết của mình, chính vì là một người mạnh khoẻ về tinh
thần sẵn sàng đấu tranh nhưng cũng không thật tin chắc chắn rằng thực hiện được
nhiệm vụ chung to lớn đặt ra cho mình, xây dựng lại thời đại đổ vỡ, tan hoang và tiêu
diệt điều ác [15.127]
Hêghen nhận định: Đối với chúng ta, cái chết của Hămlet nảy sinh do chỗ
thay kiếm trong lúc chiến đấu với Laơctơ có vẻ hoàn toàn ngẫu nhiên và cũng bởi tính
cách anh ta nữathực ra cái chết chờ đợi Hămlet đã từ lâu và không ngừng theo đuổi
chàng tạo thành bối cảnh của số phận chàng. Đứng trước nỗi buồn và vẻ mềm yếu này,
trước nỗi đau xót và chán chường mà chàng cảm thấy rằng bị ném vào cái môi trường
khốc hại ấy, chàng đã hoàn toàn bị đốt cháy bởi nỗi đau buồn đang cấu xé mình, vì vậy
chàng rất muốn hành động để rồi dẫn đến cái chết [9.822].
Như vậy, ta thấy tính cách của Hămlet là không bao giờ chịu gò bó mình trong
cái trật tự tư bản chủ nghĩa mà ở đó những mâu thuẫn xã hội ngày càng nảy sinh.
G.Biêlinxki - nhà phê bình văn học Nga khi giải thích về hiện tượng Hămlet đã khẳng
định rằng: Hămlet là một hiệp sĩ, là đại diện đẳng cấp cao nhất thời trung cổ. Chàng
có cả một bầu máu nóng sục sôi hành động và một cánh tay đủ mạnh để san bằng mọi
bất bìnhTuy nhiên cái xã hội mà anh sống chưa cho phép anh hành động, xã hội Đan
Mạch đang dần trở thành một nhà tù đè bẹp anh, giết chết anh. Và như vậy, sự thất bại
của Hămlet là một yếu tố khách quan không thể nghi ngờ gì nữa [12.213].
Vậy bi kịch của Hămlet chính là do nằm ngay trong tính cách nói trên. Có thể
nói, toàn bộ sự phát triển tính cách của Hămlet là ở chỗ Nhân vật cố vượt lên trên sự

đổ vỡ bên trong rất đau khổ với chính mình [15.128].

25


×