Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Luận văn sư phạm Trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.3 KB, 53 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trong tiếng Việt, có nhiều động từ khi làm trung tâm của cụm động từ
đòi hỏi phải dùng cùng một lúc nhiều bổ ngữ làm thành tố phụ sau. Các bổ
ngữ này có tác dụng bổ sung ý nghĩa, chi tiết chuyên môn cho động từ - chính
tố. Chúng chỉ có ý nghĩa ở trong mối liên hệ chi phối của động từ làm vị ngữ.
Vắng chúng, nhóm động từ nào đó trong câu trở nên không cụ thể và nghĩa có
thể mơ hồ.
Trong các ngôn ngữ đơn lập kiểu tiếng Việt thì phương thức ngữ pháp quan
trọng nhất là phương thức trật tự từ. Vai trò chính yếu của phương thức này
được thể hiện ở chỗ tự thân trật tự từ trong nhiều trường hợp có thể biểu thị
các mối quan hệ ngữ pháp. Thay đổi trật tự của các thành tố là thay đổi mối
quan hệ ngữ pháp. ở một số trường hợp bản thân trật tự từ không đủ để phân
biệt các mối quan hệ ngữ pháp, cần có sự phụ trợ của các phương tiện khác
như hư từ và ngữ điệu. Nhưng hư từ và ngữ điệu trong hành chức, nói chung,
cũng nằm trong khuôn khổ của trật tự từ, vẫn bị trật tự từ ràng buộc chi phối.
Bởi vì sự kết hợp nào cũng tuân theo những quy luật logic, ngữ pháp, sự hoà
hợp ngữ nghĩa, đặc điểm dân tộc của ngôn ngữ, thói quen người bản ngữ, sự
chấp nhận của xã hội, tính quan trọng, chuẩn mực phong cách, chuẩn mực
ngôn ngữ... Trật tự sắp xếp của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt cũng
không nằm ngoài những quy luật này. Về vấn đề này cho đến nay khó có thể
nói đến một trật tự sắp xếp nào dù chỉ là tương đối ổn định. Người viết lựa
chọn đề tài này nhằm góp thêm một cách nhìn về trật tự sắp xếp của các bổ
ngữ trong cụm động từ tiếng Việt, qua đó khẳng định thêm cái hay, cái đẹp, sự
phong phú, đa dạng của ngôn ngữ tiếng Việt.
1.2. Nam Cao là một trong chín tác gia của nền văn học Việt Nam. Với hơn
mười năm cầm bút, với một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ, bằng tài năng và
tâm huyết, Nam Cao đã tạo dựng cho mình một vị trí đáng kể trong nền văn


Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

1


Khoá luận tốt nghiệp
học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là những đóng góp về mặt ngôn ngữ nghệ
thuật. Nhà văn rất có ý thức và rất biết cách đào sâu, tìm tòi, sáng tạo cả về nội
dung và hình thức cho những đứa con tinh thần của mình. Bởi vậy văn Nam
Cao luôn được mọi người yêu quý và trân trọng.
Đọc văn Nam Cao, chúng tôi thấy ông sử dụng khá nhiều cụm động từ có
từ hai bổ ngữ trở lên và chúng được sắp xếp rất hợp lý, rất linh hoạt và tinh tế.
Do hình thức bao giờ cũng biểu hiện nội dung, không có hình thức thì nội
dung của câu chỉ là một cái hồn bâng quơ, vì thế việc tìm hiểu về trật tự của
các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt qua một số truyện ngắn của Nam
Cao chúng tôi mong muốn tiếp cận tác phẩm từ một khía cạnh của hình thức
để thấy được cách sử dụng từ ngữ sinh động, sáng tạo của Nam Cao và cũng
để thấy được trong tay một nhà văn tài năng tiếng Việt đã phát huy được sức
mạnh tối ưu như thế nào, qua đó khẳng định cái giàu, cái đẹp của tiếng Việt.
Đó là lý do chúng tôi chọn văn Nam Cao cụ thể là ở ba truyện ngắn: Chí
Phèo, Đời thừa, Đôi mắt làm đối tượng khảo sát, bởi vì cả ba tác phẩm
này đều là những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao được giảng dạy ở phổ
thông.
1.3. Đối với bản thân, việc tìm hiểu trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ
tiếng Việt rất có ý nghĩa đối với việc học tập cũng như giảng dạy sau này. Học
văn, dạy văn không chỉ nói đúng, viết đúng mà còn nói hay, viết hay. Biết
nhiều về trật tự từ người giáo viên sẽ có những chuẩn tắc rõ ràng để hướng dẫn
học sinh dùng từ đặt câu và chữa lỗi dùng từ, đặt câu cho học sinh. Mặt khác
tiếp cận văn chương từ góc độ ngôn ngữ sẽ cho ta thêm một con đường hấp
dẫn, một cách nhìn thú vị để bước vào tác phẩm.

Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Trật
tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt qua một số truyện ngắn của
Nam Cao.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

2


Khoá luận tốt nghiệp
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Nghiên cứu tổ chức cú pháp của câu, từ lâu đã là việc thường thấy trong
các công trình ngữ pháp tiếng Việt. Vấn đề cụm từ không phải là vấn đề mới.
Hầu như mọi công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt từ trước tới nay
đều khẳng định sự hiện diện cũng như cấu tạo của các cụm từ. Và trong các
công trình này thì phần miêu tả về cụm từ, trật tự sắp xếp của các thành tố
thuộc phần phụ sau của cụm từ cũng rất được chú ý và đã có nhiều kết luận
mang tính chân lý được đưa ra và thừa nhận.
Tìm hiểu về trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt đã có
một số nhà nghiên cứu đề cập đến, tiêu biểu như:
2.1.1 Gs. Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: Chi phối trật tự của các bổ ngữ ở phần
cuối trong cụm động từ là do:
- Cách phát âm:
Khi đọc, khi nói có ngắt quãng làm cho các thành phần phụ hơi dời
nhau, độc lập nhau thì chuỗi các thành tố phụ có thể kéo ra tương đối dài với
số lượng lớn và trật tự tương đối tự do. Trái lại khi đọc, khi nói liền một hơi thì
số lượng thành tố phụ thường bị hạn chế và trật tự thường được quy định khá
nghiêm ngặt. Hiện tượng này đặc biệt nổi rõ khi kết hợp trạng tố với trạng
tố.[1. 296]
- Nguyên tắc ý nghĩa:

Những thành tố phụ có khả năng kết hợp với trung tâm tạo thành một tổ
hợp có giá trị gần như từ ghép thì đứng liền sau trung tâm. Các thành tố phụ
dùng để gia thêm một chi tiết phụ nào đấy lâm thời miêu tả cho rõ hơn hành
động trung tâm thì phải bố trí sau.[1, 296]
-Nguyên tắc khối lượng:
Xu thế cơ bản của động ngữ là thành tố phụ ngắn gọn thường phải đặt
trước, thành tố phụ có kèm thêm quan hệ từ, thành tố phụ đã phát triển thành

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

3


Khoá luận tốt nghiệp
đoản ngữ hay thành tố phụ do một mệnh đề đảm nhiệm thì thường phải đặt
sau. Không phải không có một số ngoại lệ (...)[1, 296]
2.1.2. Trong sách Ngữ pháp chức năng tiếng Việt có đưa ra các quy tắc về
trật tự của các ngữ danh từ và các ngữ vị từ sau trung tâm áp dụng cho ngữ vị
từ biểu hiện nội dung sự tình như sau:
- Các bổ ngữ là các diễn tố đứng liền ngay với trung tâm, các bổ ngữ là
các chu tố đứng sau.
- Các bổ ngữ là các chu tố có trật tự khá tự do.
- Nếu ngữ vị từ có một hoặc nhiều ngữ vị từ khác làm bổ ngữ thì các bổ
ngữ chỉ hành động liên đới, chỉ phương thức, chỉ hướng đứng liền ngay sau
trung tâm rồi mới đến các bổ ngữ là diễn tố, chu tố.
- Nếu ngữ vị từ có bổ ngữ là một ngữ vị từ chỉ kết quả thì ngữ vị từ đó có
thể đứng liền sau trung tâm hoặc có thể đứng sau bổ ngữ chỉ diễn tố.
- Bổ ngữ là một vị từ chỉ sự hoàn thành thường ở vị trí cuối câu. [3, 62]
Cũng trong giáo trình này khi nói đến những thuộc tính cú pháp của danh
từ đơn vị thì Cao Xuân Hạo đã chỉ ra: Khi làm bổ ngữ của một ngữ vị từ chỉ

có ngữ danh từ có danh từ đơn vị làm trung tâm mới có thể tách ra khỏi ngữ vị
từ trung tâm bằng một ngữ vị từ làm bổ ngữ chỉ hướng hoặc chỉ kết
quả.[3,81]
2.1.3. Nguyễn Xuân Khoa phân chia cụ thể thành hai kiểu sắp xếp trật tự của
các phần phụ sau trong cụm động từ. Đó là:
- Các phần phụ sau sắp xếp theo quan hệ đẳng lập thì trật tự tương đối tự
do.
- Các phần phụ sau sắp xếp theo quan hệ đệ gia thì tuân theo hai nguyên
tắc sau:
+ Phần phụ ghép liền đặt trước phần phụ ghép cách.
+ Phần phụ ít âm tiết đặt trước phần phụ nhiều âm tiết.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

4


Khoá luận tốt nghiệp
2.1.4. Trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban khoa học xã hội
Việt Nam - Nxb KHXH, H. 1983 đã chỉ ra các trật tự hợp lý là:
- Phụ tố chỉ sự vật đưa ra đặt trước phụ tố chỉ kẻ tiếp nhận.
- Phụ tố chỉ vật lấy vào đặt trước phụ tố chỉ kẻ có sự vật bị lấy.
- Phụ tố chỉ kẻ bị sai khiến đặt trước phụ tố chỉ nội dung sai khiến.
- Phụ tố chỉ kẻ sai khiến, điều khiển đứng trước phụ tố chỉ kết quả sai
khiến, điều khiển.
- Phụ tố chỉ đối tượng so sánh đứng trước phụ tố chỉ kết quả so sánh.
Trong từng kiểu loại thì các tác giả của giáo trình này có nhấn mạnh đến
vai trò của hư từ, ngữ điệu và sự hài hoà ngữ âm có ảnh hưởng nhất định đến
trật tự sắp xếp của các phụ tố ở khu vực sau.
Qua việc tìm hiểu trên, chúng ta có thể thấy vấn đề trật tự của các bổ ngữ

trong cụm động từ tiếng việt là đối tượng nghiên cứu của nhiều giáo trình đại
học. Điều đó cho thấy đây là vấn đề đã được quan tâm, một vấn đề có ý nghĩa.
Tuy đã được nhiều tác giả đề cập và đưa ra nhiều kết luận nhưng do tính chất
khái quát của các giáo trình nên vấn đề về trật tự của các bổ ngữ mới chỉ được
dừng lại ở việc điểm qua các quy tắc và một số ví dụ minh hoạ cho các quy tắc
đó, chưa có công trình nào quy mô miêu tả một cách đầy đủ sự phong phú của
nó. Do sự phong phú, sinh động của ngôn ngữ tiếng Việt, do sự phức tạp cả về
ngữ nghĩa lẫn cách thức tổ chức của các bổ ngữ, vì thế vấn đề này vẫn mang
tính chất gợi mở. Trên cơ sở lý thuyết mà các tác giả đề cập chúng tôi phân
tích ngữ liệu thống kê được từ một số truyện ngắn của Nam Cao nhằm làm rõ
hơn vấn đề về trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt.
2.2. Nam Cao là một nhà văn có đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam
hiện đại đặc biệt là về mặt ngôn ngữ. Văn của Nam Cao được rất nhiều nhà
nghiên cứu đi sâu tìm hiểu và họ đã đưa ra những điểm độc đáo về nội dung,
nghệ thuật, tư tưởng trong sáng tác của ông. Đa số các nhà nghiên cứu tập
trung khám phá ý nghĩa chân thực, chủ nghĩa nhân đạo, phong cách riêng ...

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

5


Khoá luận tốt nghiệp
còn về phương diện từ ngữ mới chỉ là những bài báo trong các dịp lễ kỷ niệm
về Nam Cao như:
- Tìm hiểu một chữ nhưng trong văn Nam Cao của Phan Trọng
Thưởng.
- Nhân vật hắn với những nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật
Nam Cao của Trương Thị Nhàn.
ở phương diện câu cũng chỉ dừng lại ở những nhận xét chung chung,

chẳng hạn:
- Vũ Tuấn Anh trong bài viết Phong cách truyện ngắn Nam Cao khẳng
định: Câu văn Nam Cao là một thứ câu văn bị xé rách về ngữ điệu, chúng
nhấm nhẳn, đứt nối, cắn rứt, chì chiết, nghẹn ngào đầy kịch tính. [10, 366].
- Bùi Công Thuấn trong bài viết Phong cách truyện ngắn Nam Cao trước
Cách mạng có viết: về mặt ngôn ngữ, Nam Cao thường viết những câu văn
ngắn và cộc, dường như không thể rút ngắn hơn. (...) Ngay cả khi Nam Cao
viết những câu dài những câu ấy cũng được ngắt vụn ra. Câu ngắn làm cho
mạch văn đi nhanh, giọng văn đanh lại. [10. 369].
Một cách khái quát SGK Văn học 11 nhận xét: Ngôn ngữ Nam Cao
sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói của quần
chúng.[12, 201]
Tóm lại việc nghiên cứu ngôn ngữ văn xuôi Nam Cao mới chỉ điểm qua
mà chưa đi sâu và nếu có cũng chỉ là gợi mở. Chưa có một nhà nghiên cứu nào
bàn cụ thể, chi tiết về cụm động từ trong văn Nam Cao nói chung và trong ba
tác phẩm chọn làm ngữ liệu khảo sát nói riêng.
Từ những định hướng về cơ sở lý luận của các nhà nghiên cứu chúng tôi
đi sâu tìm hiểu đề tài Trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt
qua một số truyện ngắn của Nam Cao. Hy vọng đề tài sẽ góp một tiếng nói
khẳng định cái hay, cái đẹp của tiếng Việt và chỉ ra được một số điểm độc
đáo, thú vị trong cách hành văn của Nam Cao.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

6


Khoá luận tốt nghiệp
3. Mục đích nghiên cứu.
3.1. Qua việc khảo sát và nghiên cứu đề tài Trật tự của các bổ ngữ trong cụm

động từ tiếng Việt qua một số truyện ngắn của Nam Cao, chúng tôi hy vọng
góp phần bổ sung và khẳng định rõ hơn một vấn đề lý thuyết của ngôn ngữ
học. Đó là vấn đề: Những nhân tố chi phối trật tự của các bổ ngữ trong cụm
động từ tiếng Việt.
3.2. Đề tài góp phần kết luận về trật tự của các bổ ngữ trong văn Nam Cao,
qua đó thấy được cách sử dụng từ ngữ sinh động, sáng tạo, tinh tế của Nam
Cao.
3.3 Khảo sát đề tài này, tư liệu và hướng nghiên cứu của nó sẽ phục vụ cho
chúng tôi trong việc học tập và giảng dạy sau này.
4. Nhiệm vụ của đề tài.
Muốn đạt được mục đích trên, đề tài cần thực hiện một số nhiệm vụ sau:
4.1. Tập hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
4.2. Khảo sát, thống kê, phân loại các cụm động từ có từ hai bổ ngữ trở lên
trong sáng tác Nam Cao.
4.3. Phân tích các cụm động từ để rút ra kết luận.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là: Cụm động từ và các bổ ngữ của
nó.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
a. Chỉ khảo sát các cụm động từ có từ hai bổ ngữ trở lên.
b. Các cụm động từ ấy được thống kê từ ba truyện ngắn: Chí Phèo, Đời
thừa, Đôi mắt trong quyển tuyển tập Nam Cao Nxb VH. 2005.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

7



Khoá luận tốt nghiệp
- Phương pháp cải biến.
- Phương pháp quy nạp.
7. Bố cục của khoá luận.
Bố cục của khoá luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận.
Phần mở đầu chúng tôi trình bày lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, mục
đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, các phương pháp nghiên cứu và bố cục
của khoá luận.
Phần nội dung được bố cục thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Cụm động từ với trật tự cố định.
Chương 3: Cụm động từ với trật tự tự do.
Chương 1 trình bày những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài bao
gồm phương thức trật tự từ, bổ ngữ, cụm động từ và một số ý kiến của các nhà
ngữ pháp về trật tự sắp xếp của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt.
Chương 2 trình bày một số nhân tố chi phối và mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố đến trật tự cố định của các bổ ngữ trong cụm động từ. Đó là các
nhân tố như số lượng âm tiết, nhân tố quan hệ từ, nhân tố về sự hoà hợp ngữ
âm, ngữ nghĩa, ngữ cảnh, tính quan trọng, đặc điểm dân tộc của ngôn ngữ, sự
chấp nhận của xã hội. Trong khi trình bày chúng tôi có nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của từng nhân tố và nhân tố nào là nhân tố chi phối chủ yếu.
Chương 3 trình bày khi nào thì trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ
là tự do và cụ thể ở mức độ nào.
Phần kết luận khẳng định lại những việc đã làm được trong khoá luận.
Phân chia bố cục như vậy là thuận tiện hơn cả để chúng tôi tìm hiểu rõ
những nhân tố chi phối đến trật tự của các bổ ngữ và khi nào thì chúng được
sắp xếp theo trật tự cố định, khi nào thì trật tự giữa chúng là tự do.


Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

8


Khoá luận tốt nghiệp

Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Phương thức trật tự từ.
- Khái niệm trật tự: Trật tự là sự sắp xếp theo một trật tự, một quy tắc
nhất định. [11, 1031].
- Khái niệm phương thức ngữ pháp: Phương thức ngữ pháp là những
biện pháp hình thức chung nhất thể hiện ý nghĩa ngữ pháp. [9, 219].
- Khái niệm phương thức trật tự từ: Phương thức trật tự từ là phương thức
biểu thị ý nghĩa ngữ pháp bằng thứ tự sắp xếp các từ trong câu. Đây là phương
thức quan trọng nhất của tiếng Việt. Kết hợp các từ loại theo trật tự khác nhau
sẽ tạo ra các kiểu quan hệ cú pháp khác nhau. Phương thức này chi phối đến
các phương thức ngữ pháp khác của tiếng Việt như hư từ và ngữ điệu.
1.2. Bổ ngữ.
- Khái niệm: bổ ngữ là thành phần phụ bằng thực từ đi kèm vị từ (động
từ, tính từ) để chỉ cái đối thể chịu tác dụng trực tiếp hay gián tiếp của đặc
trưng nêu ở vị từ hoặc các chủ thể gắn liền với đặc trưng nêu ở vị từ, đứng sau
vị từ hoặc chỉ các đặc trưng phụ thêm vào đặc trưng ở vị từ. [1, 183]
- Về vị trí: Bổ ngữ có thể đứng trước nhưng đa số là đứng ngay sau động
từ mà nó bổ nghĩa.
- Về mặt từ loại: Bổ ngữ của từ có thể là danh từ, động từ, tính từ, số từ,
đại từ.
- Về mặt cấu tạo: bổ ngữ của từ có thể được cấu tạo từ một từ, một cụm

từ chính phụ, một cụm từ đẳng lập hoặc một cụm từ chủ vị.
- Về mặt ý nghĩa: bổ ngữ là những thực từ có ý nghĩa từ vựng đầy đủ. Nó
bổ sung ý nghĩa về đối tượng, nội dung, thời gian, địa điểm, mục đích, nguyên
nhân ... cho động từ trung tâm.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

9


Khoá luận tốt nghiệp
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ đối tượng tác động và bổ ngữ chỉ cách thức,
phương tiện:
Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại
B1
(cách thức)

B2
B3 (địa điểm)
(đối tượng tác động)

dắt nó lên để nó đền ơn. (1, 47)
B1 B2
B3 (mục đích)
(đối tượng tác động) (chỉ hướng)
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận và bổ ngữ chỉ nội dung:
Ai//cho tao lương thiện? (1, 73)
B1
C


B2
V

B1 là bổ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận, B2 là bổ ngữ chỉ nội dung.
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ thời gian và bổ ngữ chỉ không gian:
Như thế năm ngày chẵn, thị//ở nhà hắn cả ngày lẫn đêm trừ những lúc
đi kiếm tiền. (1, 69)

B1 (không gian)
C

B2 (thời gian)

V

TN
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ lượng:

Họ//bàn tán rất nhiều (về) vụ án không ngờ ấy. (1, 73)
B1 (chỉ lượng)

C
V
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ mục đích:

B2-(chỉ nội dung)

- Con//đến xin cụ cho con đi ở tù.(1,51)
B1
B1


B2 - mục đích

B2 - mục đích

C
V
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ nguyên nhân:
Hãy đập bàn đập ghế để đòi được năm đồng, nhưng được rồi thì vất trả
lại năm hào vì thương anh túng quá!(1,47)
(Bổ ngữ chỉ nguyên nhân của hành động vất trả lại).

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

10


Khoá luận tốt nghiệp
+ Ví dụ về bổ ngữ chỉ phương diện so sánh:
- Người ta//tránh Thị Nở (như) tránh một con vật nào đó rất tởm. (1, 59)
B1

B2 (chỉ phương diện so sánh)

C
V
Như vậy bổ ngữ là các yếu tố từ vựng được dùng thêm vào cho vị từ
trọn nghĩa, đủ ý. ý nghĩa của bổ ngữ bị chi phối bởi ý nghĩa khái quát của
động từ trung tâm.
1.3. Cụm động từ.

- Khái niệm: Cụm động từ là tổ hợp từ tự do không có kết từ đứng đầu,
có quan hệ chính phụ giữa thành tố chính với thành tố phụ và thành tố chính là
động từ.[1, 62]
- Chức năng: Trong câu, cụm động từ có chức năng làm thành phần câu:
chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ, đề ngữ.
- Cấu tạo: Cụm động từ có cấu tạo ba phần: phần trung tâm, phần phụ
trước và phần phụ sau.
Phần trung tâm của cụm động từ là động từ. Đây là phần cốt lõi của
nhóm từ, là trung tâm ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm từ. Trung tâm chi phối
bản chất, chức năng, tổ chức nội bộ của nhóm từ. Chỉ có trung tâm mới có
quan hệ với từ ở ngoài cụm từ. Các thành tố phụ chỉ có quan hệ với trung tâm
trong nội bộ nhóm từ.
Thành tố phụ của cụm động từ có thể chia thành hai loại: thành tố
phụ là các hư từ và thành tố phụ là các thực từ. Thành tố phụ là các hư từ (chủ
yếu là phụ từ) biểu thị mối quan hệ với thời gian. Loại này xuất hiện với tần số
lớn ở phần phụ trước. Thành tố phụ thực từ có tác dụng mở rộng nội dung cho
động từ - thành tố chính, cụ thể là bổ sung ý nghĩa về đối tượng, thời gian,
không gian, địa điểm, phương tiện, cách thức, nguyên nhân ... cho động từ
trung tâm. Loại thành tố này xuất hiện chủ yếu ở thành phần phụ sau. Tóm lại
phần phụ trước và sau là những phần phụ có tác dụng hạn định hoặc bổ sung
cho phần trung tâm.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

11


Khoá luận tốt nghiệp
Ví dụ: Cụ lại cho con đi ở tù.(1, 51)
B

B1
C

B2

V

Trong ví dụ này thì lại cho con đi ở tù là một cụm động từ có cấu tạo
ba phần:
- Phần trung tâm là động từ độc lập: cho.
- Phần phụ trước là phụ từ chỉ sự tiếp diễn đồng nhất: lại.
- Phần phụ sau gồm có hai bổ ngữ : B1 chỉ đối tượng tiếp nhận:
con và B2 chỉ mục đích: đi ở tù.
1.4. Trật tự sắp xếp của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng việt
Tại phần phụ sau của cụm động từ có thể đồng thời xuất hiện nhiều
thành tố mà cho đến nay khó có thể nói đến một trật tự sắp xếp nào dù chỉ là
tương đối ổn định.
Về vấn đề này, Nguyễn Tài Cẩn trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt,
đã chỉ ra: trong sự bố trí các bổ ngữ ở phần phụ sau của động từ phải tuân thủ
theo nguyên tắc ý nghĩa và nguyên tắc âm hưởng.
Còn tác giả của giáo trình Tiếng Việt, Nguyễn Xuân Khoa khi tìm
hiểu về trật tự sắp xếp các thành tố phụ sau cụm động từ đã khẳng định một
cách ngắn gọn: Các thành tố phụ sau sắp xếp theo quan hệ đẳng lập thì trật tự
khá linh hoạt, có thể đổi chỗ cho nhau được. Nếu sắp xếp theo quan hệ đệ gia
thì phải theo hai nguyên tắc: phần phụ ghép liền đặt trước phần phụ ghép cách
và phần phụ ít âm tiết đặt sau phần phụ nhiều âm tiết.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban khoa học xã hội việt
nam đã đưa ra các trật tự hợp lý là nói đưa ra cái gì thì mới nói đưa ai, nói lấy
cái gì trước rồi mới nói kẻ có sự vật bị lấy, nói kẻ bị sai khiến rồi mới nói nội
dung sai khiến hoặc kết quả sai khiến, nói đối tượng so sánh trước rồi mới nói


Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

12


Khoá luận tốt nghiệp
kết quả so sánh. Nhưng tuỳ hoàn cảnh, tuỳ vào cách diễn đạt cụ thể, tuỳ vào
việc có hay không có hư từ vẫn có thể thay đổi được trật tự.
Xét ở phương diện chức năng, trật tự sắp xếp của các ngữ danh từ và các
ngữ vị từ sau trung tâm trong ngữ vị từ biểu hiện nội dung sự tình thì sách
Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (quyển 2, trang 62) đưa ra các quy tắc cụ thể
là bổ ngữ là diễn tố đứng trước bổ ngữ là chu tố, bổ ngữ chỉ hành động liên
đới, chỉ phương thức đứng trước bổ ngữ là diễn tố, chu tố, bổ ngữ chỉ sự hoàn
thành đứng cuối câu, bổ ngữ là các chu tố có trật tự khá tự do, bổ ngữ chỉ kết
quả và bổ ngữ chỉ diễn tố là vai đối thể có thể đảo cho nhau, trong đó diễn tố
và chu tố là hai tham tố của sự tình, diễn tố là tham tố cần và đủ, chu tố là
tham tố có thể có hoặc không.
Trên đây là những ý kiến, những nhận định của các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ và là cơ sở lý luận để chúng tôi xem xét và xử lý đề tài.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

13


Khoá luận tốt nghiệp
Chương 2: CụM Động từ với Trật tự cố định
Nếu hình dung từ là nguyên tử hoá học thì hoá trị của từ chính là tiềm
năng kết hợp của từ với các từ khác. Khi đứng một mình nguyên tử từ chỉ như

một đơn vị định danh chưa đầy đủ nhưng khi nguyên tử đó kết hợp, thu nạp
một cách lựa chọn với một số yếu tố khác sẽ tạo nên một đơn vị định danh cao
hơn là cụm từ. Tiếng Việt là một ngôn ngữ tiết kiệm cao độ. Do đó các từ
trong tiếng Việt luôn có khả năng kết hợp và rất giỏi kết hợp. Động từ là một
trong ba từ loại chủ chốt trong các loại thực từ tiếng Việt (danh từ, động từ,
tính từ), khi đứng ở vị trí trung tâm của cụm, nó càng giỏi kết hợp, giỏi gần
gũi với các từ loại khác. Nhiều khi do nội dung ý nghĩa của bản thân nó cũng
như do nhiệm vụ phản ánh hiện tượng ngoài ngôn ngữ, tại phần phụ sau của
cụm động từ có thể và thường hay xuất hiện cùng một lúc nhiều thành tố phụ
sau. Các thành tố này liên kết với nhau và liên kết với động từ trung tâm theo
các phương thức ngữ pháp thành một tổ chức không lộn xộn, rối rắm, không
phí phạm ngôn từ, không nhầm lẫn nghĩa chữ mà chặt chẽ, ổn định, tinh tế.
Trật tự giữa chúng không chỉ đơn thuần là sự sắp đặt vị trí các bổ ngữ mà cơ
bản là việc tổ chức nghĩa của cụm từ dựa trên mạng lưới các mối quan hệ logic
giữa các yếu tố ý nghĩa. Bản thân ngôn ngữ tiếng Việt rất đa dạng và phong
phú, vì thế có cả trật tự cố định, cứng nhắc, nghiêm ngặt, có cả trật tự linh
động, mềm dẻo, tự do. Trật tự là cố định khi các bổ ngữ không thể đảo vị trí
cho nhau được. Nếu đảo sẽ phá vỡ sự hài hoà về ngữ âm, làm thay đổi nghĩa,
làm mất đi sự phù hợp về ngữ cảnh. Tính cố định này là do sự chi phối của các
nhân tố sau:
2.1. Do nhân tố số lượng âm tiết.
Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong tiếng Việt. Nó được cấu trúc
rất chặt chẽ gồm: phụ âm đầu - âm đệm - âm chính - âm cuối. Do âm tiết tiếng
Việt có khả năng biểu hiện ý nghĩa và có tính độc lập rất cao nên trong sự sắp

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

14



Khoá luận tốt nghiệp
xếp các thành tố phụ sau cụm động từ tiếng Việt thì một điều dễ nhận thấy là
thành tố ít âm tiết thường đứng trước thành tố nhiều âm tiết.
Ngữ liệu thống kê cho thấy số phiếu mà trong trật tự cố định thành tố
phụ sau ít âm tiết xếp trước thành tố phụ nhiều âm tiết là 361/396 phiếu chiếm
khoảng 91%. Chỉ có 35/396 phiếu 9% lượt cụm động từ có hai bổ ngữ có số
lượng âm tiết tương đương hoặc bổ ngữ có số lượng âm tiết nhiều hơn đứng
trước. Những con số này chứng tỏ rằng xu thế sắp xếp cơ bản trong cụm động
từ là thành tố phụ nào có số lượng âm tiết ít hơn thường đứng trước thành tố
phụ có số lượng âm tiết nhiều hơn.
Ví dụ:

-

Thị Nở//giục hắn ăn nóng. (1, 66)

B1
B2(2 âm tiết)
(1 âm tiết)
C
V
Không thể đảo: giục ăn nóng hắn (-)
- (...) thị
phải nhìn trộm
bà cô rồi
xuống bụng (1, 74).
(1 âm tiết) (2 âm tiết)
(2 âm tiết)
Có thể đảo khi: nhìn xuống bụng thật nhanh
2 âm tiết


nhìn nhanh
(1 âm tiết)

2 âm tiết

Không thể đảo: nhìn bà cô trộm rồi nhìn xuống bụng nhanh (-)
- Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó
(1 âm tiết)
(17 âm tiết)
đối với người nuôi. (2, 7)
Nếu đảo trật tự nghĩa của câu sẽ thay đổi:
Từ yêu bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với
người nuôi hắn. (-).
- Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng đôi mắt sung sướng và thương
hại loang loáng ướt. (2, 17)

B1(1 âm tiết)

B2(10 âm tiết)

Không thể đảo:
(...) nhìn đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt chúng (-)

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

15


Khoá luận tốt nghiệp

- Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung bộ (2, 449)
(1 âm tiết)
(6 âm tiết)
Tôi đã gặp trong mặt trận Nam Trung bộ họ (-)
- Tôi đã biết Hoàng vẫn có tính tự nhiên đá bạn một cách đột ngột vì
những cớ gì mà chỉ mình anh biết. (2, 442)
Cụm động từ đá bạn một cách đột ngột vì những cớ gì mà chỉ mình
(1 âm tiết) (4 âm tiết)
(9 âm tiết)
anh biết là một cụm từ có trật tự cố định do nó chịu sự chi phối của nhân tố
khối lượng âm tiết.
Không thể đảo:
đá một cách đột ngột bạn vì những cớ gì mà chỉ mình anh biết (-).
đá vì những cớ gì mà chỉ mình anh biết bạn một cách đột ngột (-).
đá vì những cớ gì mà chỉ mình anh biết một cách đột ngột bạn (-).
đá bạn vì những cớ gì mà chỉ mình anh biết một cách đột ngột (-).
- Anh vừa đi vừa tâm sự nhỏ với tôi như vậy và thì thầm kể sát tai những
cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của từng người một, trong khi chúng
tôi bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút. (2, 451)
Trong câu này có 4 cụm động từ:
(1). tâm sự nhỏ với tôi như vậy.
B1 B2
B3 (2 âm tiết)
(1 âm tiết) (2 âm tiết)
(2). thì thầm kể sát tai những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời
B1
B2
(2 âm tiết) (2 âm tiết)
của từng người một.


B3
(14 âm tiết)

(3). bước chầm chậm để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút
B1(2 âm tiết)
(4). ra sau chúng tôi một chút

B2(10 âm tiết)

B1
B2
B3
(1 âm tiết) (2 âm tiết) (2 âm tiết)
Trong các cụm động từ trên trật tự được quy định khá nghiêm ngặt:

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

16


Khoá luận tốt nghiệp
(1).

- tâm sự nhỏ như vậy với tôi (+) (đảo B2 và B3 được vì do số lượng âm

tiết tương đương và do có quan hệ từ với)
- tâm sự như vậy nhỏ với tôi (-)
- tâm sự như vậy với tôi nhỏ (-)
(2).


- kể thì thầm sát tai những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của

từng người một (+) (đảo được là do thì thầm là từ láy chỉ cách thức)
- kể sát tai thì thầm những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của
từng người một (-)
- kể thì thầm sát tai những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của
từng người một (-)
- kể thì thầm những cái thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời của từng
người một sát tai (-)
(3).

- bước để đợi chị Hoàng ra sau chúng tôi một chút chầm chậm (-)

(4).

- ra sau một chút chúng tôi (-)
ở câu trên, trong cụm động từ (3) có sự chi phối của nguyên lý lồng

chứa thể hiện ở chỗ trong cụm động từ này có 2 cụm động từ nhỏ (3, 4). Đây
là một nguyên lý quan trọng về cách thức mà các cụm động từ kết nối với
nhau để tạo thành các câu. Kiến trúc câu theo nguyên lý này chúng ta cũng
hay gặp trong tiếng Việt.
Ví dụ:

- (...) đêm nay, một vài chú rận có thể rời sơ mi tôi (để) đi du lịch ra cái

chăn bông thoang thoảng nước hoa (2, 454)
(8 âm tiết)

(2 âm tiết)-B1


B2

B1(3 âm tiết) B2 (12 âm tiết)

- Con//đến xin cụ cho con đi ở tù.(1,51)
B1
B1

B2

B2

C
V
Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy rõ sự chi phối của nhân tố khối lượng
âm tiết. Những bổ ngữ có số lượng âm tiết ít hơn thường đứng trước những bổ

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

17


Khoá luận tốt nghiệp
ngữ có số lượng âm tiết nhiều hơn. Sắp xếp theo trật tự này mới đảm bảo được
sự hài hoà về ngữ âm và sự hoà hợp về ý nghĩa.
2.2. Do nhân tố quan hệ từ.
Trong các cụm động từ thì trật tự của các thành tố là cố định còn do sự
chi phối của quan hệ từ. Có những cụm động từ có mặt quan hệ từ thì trật tự
giữa các bổ ngữ khá linh hoạt, không có sự tham gia của nhân tố này trật tự

các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt không đảo được.
- Kết quả khảo sát:10/396 phiếu 4%
- Ví dụ:
(1). Vả lại dầu có rủ được anh làm như tôi khoác cái ba lô lên vai, đi hết
làng nọ đến làng kia để nhận xét nông thôn một cách kĩ càng hơn cũng chẳng
ích gì. (2, 448)
Trong câu này có cụm động từ có trật tự cố định: nhận xét nông thôn
một cách kĩ càng hơn. Nếu thêm quan hệ từ về có thể đảo được trật tự:
nhận xét một cách kĩ càng hơn về nông thôn. (+)
(2). Tôi gần gũi họ rất nhiều. (2, 449)
(1 âm tiết) (2 âm tiết)
(3). Tôi đã theo họ đi đánh phủ. (2, 449)
(1 âm tiêt) (3 âm tiết)
Trong (2) và (3) nếu có thêm quan hệ từ với thì trật tự của các bổ ngữ
sẽ đảo được:
(2). Tôi gần gũi rất nhiều với họ. (+)
(3). Tôi đã theo đi đánh phủ với họ. (+)
Nếu không có quan hệ từ thì không thể đảo trật tự:
(2). Tôi gần gũi rất nhiều họ. (-)
(3). Tôi đã theo đi đánh phủ họ. (-)
Vai trò của quan hệ từ đối với trật tự rõ nhất ở những cụm động từ có
động từ phát - nhận làm trung tâm.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

18


Khoá luận tốt nghiệp
Ví dụ:

Hắn // vuốt má Từ một cái rồi ra đi. (2, 16)
B1
V1

B2

V2

C
V
Hắn vuốt một cái má Từ rồi ra đi. (-)
Nếu có quan hệ vào sẽ đảo được trật tự:
- Hắn vuốt một cái (vào) má Từ rồi ra đi. (+)
B1
B2
Như vậy, trong cụm động từ thì nhân tố quan hệ từ trong những trường
hợp cụ thể không chỉ có tác dụng làm rõ quan hệ chính tố và phụ tố mà còn
chi phối đến trật tự của các bổ ngữ trong cụm động từ tiếng Việt.
2.3. Do quy luật hoà âm.
Tiếng Việt là một ngôn ngữ rất dồi dào về hiện tượng ngữ âm, cân đối
nhịp nhàng về mặt cú pháp. Ngay cả những món vay khi đưa về nhà đều
được gia công, được dân tộc hoá cho phù hợp với cơ cấu phát âm và thính
giác của người Việt. Do đó sự hài hoà về ngữ âm là yêu cầu đối với tất cả các
trật tự từ trong tiếng Việt. Lẽ đương nhiên trong sự bố trí các thành tố thuộc
khu vực sau của cụm động từ cũng không nằm ngoài yêu cầu này. Có đảm bảo
được quy luật này mới tạo ra những câu có âm hưởng hay và hấp dẫn bằng
những hình thức cân đối, nhịp nhàng.
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ tức là ngôn ngữ được sử dụng với tất
cả những phẩm chất và khả năng nghệ thuật của nó. Do đó hơn ai hết nhà văn
muốn tác phẩm của mình đến được với công chúng thì trong quá trình sáng tác

phải chú ý đến quy luật này. Nam Cao là một nhà văn có tài và có phong cách.
Câu văn của Nam Cao ngắn, cộc và khô nhưng luôn luôn đảm bảo yêu cầu hoà
âm. Khảo sát sự chi phối của quy luật hoà âm đối với trật tự cố định, chúng tôi
thu được 350/396 phiếu 88%.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

19


Khoá luận tốt nghiệp
Một số dẫn chứng tiêu biểu:
(1). (Hay là) mình//sang đây ở (với) tớ một nhà cho vui (1, 68)
B1
B1

B2

B3

B2

C
V
Có thể thay đổi một chút trong trật tự như sau:
(1). Hay là mình sang đây ở một nhà với tớ cho vui. (+)
Trong cụm động từ ở với tớ một nhà cho vui do có sự xuất hiện của
quan hệ từ với và một bổ ngữ đã được tính đếm về mặt số lượng một nhà
cho nên các bổ ngữ này có thể đảo vị trí cho nhau được mà không làm mất đi
sự hài hoà về ngữ âm, ngữ nghĩa.

Không thể viết:

(1). Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui đây.(-)
(1). Hay là mình sang đây cho vui ở với tớ một nhà. (-)

Nếu viết như vậy thì lời tỏ tình của Chí Phéo sẽ rất lủng củng và không
rõ nghĩa.
(2). Bắt tay tôi xong, anh Hoàng//dịu dàng đẩy tôi đi trước. (2, 441)
B1

B2

B3

C
V
(2). Bắt tay tôi xong anh Hoàng đẩy tôi dịu dàng đi trước. (-)
(2). Bắt tay tôi xong anh Hoàng đẩy tôi đi trước dịu dàng. (-)
(2).Bắt tay tôi xong anh Hoàng đẩy tôi đi trước một cách dịu dàng.(+)
Trật tự này không đảo được trừ khi thêm một cách trước bổ ngữ là từ
láy chỉ cách thức dịu dàng. Nếu không khi đảo nó sẽ phá vỡ sự hài hoà về
nội dung và hình thức của câu văn.
(3). Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình. (2, 10)
B1

B2

ĐN
(3). ... giúp đỡ trên đôi vai của mình kẻ khác. (-)


(4). Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm cả người tôi ...(2, 446)
B1

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

B2

B1

20

B2


Khoá luận tốt nghiệp
(4). Anh cười một tiếng gằn, nhìn cả người tôi bao trùm ... (-)
Qua các ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của nhân tố
hoà âm chi phối đến trật tự của các bổ ngữ. khi sử dụng tiếng việt tất cả mọi
người đều phải chú ý và quan tâm đến quy luật hài âm. Nếu bỏ qua quy luật
này thì khi đọc, khi nói rất khó nghe, lạ tai và lủng củng. có chú ý đến quy
luật này mới giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt, mới thấy được sự sống
động, uyển chuyển, tinh tế, cái hay, cái đẹp của tiếng Việt về mặt ngữ âm.
2.4. Sự hoà hợp về ngữ nghĩa.
Trong tiếng Việt câu bao giờ cũng có chức năng thông báo. Nó giúp
cho việc hình thành, biểu hiện và truyền đạt tư tưởng từ người này sang người
khác. Nếu không kể những câu chỉ có một từ thì câu là do các cụm từ tạo
thành. Câu dù dài đến bao nhiêu cũng chỉ là sự nối tiếp của các cấu trúc cốt lõi
mà thôi. Điều quan trọng là các thành tố trong cụm từ, câu phải có sự gắn bó
với nhau theo một trật tự logic - ngữ nghĩa nhất định. Do mọi trật tự cú pháp
đều có nguồn gốc từ nghĩa, vì thế khi xem xét trật tự của các bổ ngữ trong

cụm động từ chúng ta đều phải tìm nguồn gốc từ nghĩa. Sự kết hợp của các từ
trong cụm từ và trong câu chỉ có thể được chấp nhận nếu giữa chúng có sự
tương hợp về ngữ nghĩa. Hạn chế về những kết hợp của các bổ ngữ là sự có
mặt của những thành tố nghĩa không dung hoà vào nhau. Như vậy thì quy luật
về sự hoà hợp ngữ nghĩa có tác dụng quy định trật tự của các bổ ngữ trong
cụm động từ.
Khi khảo sát các cụm động từ có từ hai bổ ngữ trong văn Nam Cao
chúng tôi thu được 363/396 phiếu 92% cụm động từ có trật tự cố định do sự
chi phối của nhân tố logic - ngữ nghĩa. Các bổ ngữ chỉ nội dung mục đích,
phương diện so sánh, nguyên nhân, ... thường đứng ở vị trí cuối cùng trong
cụm động từ. Để làm rõ sự chi phối của nhân tố tổ hợp nghĩa, chúng tôi tìm
hiểu một số trường hợp cụ thể sau:

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

21


Khoá luận tốt nghiệp
- Phần phụ ghép với trung tâm tạo thành một từ ghép thì đứng liền ngay
sau trung tâm.
- Phần phụ chỉ đối tượng thường đặt ngay sau trung tâm.
- Phần phụ chỉ nội dung thường đứng ở vị trí cuối trong cụm động từ .
- Phần phụ chỉ mục đích thường đứng ở vị trí cuối trong cụm động từ .
- Phần phụ chỉ nguyên nhân. thường đứng ở vị trí cuối trong cụm động từ
- Phần phụ chỉ phương diện so sánh thường đứng ở vị trí cuối trong cụm
động từ .
Các loại

Phần phụ


Bổ ngữ

Bổ ngữ

Bổ ngữ

Bổ ngữ

Bổ ngữ

bổ

ghép liền

chỉ đối

chỉ nội

chỉ

chỉ

chỉ mục

với trung

tượng

dung


nguyên

phương

đích

nhân

diện so

ngữ
Tác

tâm tạo

phẩm

thành từ

sánh

ghép
Chí Phèo

47

55

20


2

4

37

Đời thừa

17

75

13

1

5

28

Đôi mắt

22

62

18

2


3

33

86

192

51

5

12

98

(22%)

(48%)

(13%)

(1,2%)

(3%)

(25%)

Tổng

Tổng

396 (100%)

Bảng thống kê tần số xuất hiện của các loại bổ ngữ trong cụm động từ
có trật tự cố định qua ba truyện ngắn: Chí Phèo, Đời thừa, Đôi mắt.
2.4.1.Phần phụ ghép liền với trung tâm tạo thành một tư ghép thì đứng
liền ngay sau trung tâm.
Trong cụm động từ, các thành tố phụ sau có thể liên kết với trung tâm
bằng cách liên kết trực tiếp (không thông qua kết từ) hoặc liên kết gián tiếp
(có thông qua kết từ). Kiểu liên kết trực tiếp nhiều khi nó ổn định dần dần trở
thành một kết cấu có tính chất ổn định giống như từ ghép chính phụ, đặc biệt

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

22


Khoá luận tốt nghiệp
khi chính tố là một động từ khái quát kiểu như: đi, làm, ăn, trả, tặng, đưa ... Bổ
ngữ trong những kết cấu kiểu này gọi là phần phụ ghép liền với trung tâm.
Phần phụ dùng để gia thêm một chi tiết nào đấy cho trung tâm gọi là phần phụ
ghép cách. Trật tự sắp xếp của các bổ ngữ thường theo nguyên tắc những phần
phụ ghép liền với trung tâm thì đứng trước. Nguyên tắc này được vận dụng rất
linh hoạt trong văn Nam Cao. Chúng tôi thống kê được 86/396 phiếu 22%.
Ví dụ:

(1). ... làm cách mạng hăng hái lắm. (2, 449)
B1
B2

(2). ... đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi ... (2, 454)
B1
B2
B1
B2
(3). Thị Nở sẽ mở đường cho hắn (1,68)
B1
B2
(4). Sau cái hành vi đẹp của hắn và thấy cái hành vi ấy được
trả công bằng một tình yêu rất êm đềm. (2, 8)
B1
B2
Trong các ví dụ trên thì các từ làm cách mạng, đắp chăn, buông

màn, mở đường là những từ ghép chính phụ. Những từ ghép này được tạo
thành từ hai hình vị có ý nghĩa từ vựng đầy đủ và động từ là thành tố chính
còn danh từ là thành tố phụ. Trong cụm động từ loại này, giữa chính tố và phụ
tố thứ nhất có mối quan hệ gắn bó tương đối chặt chẽ với nhau, nếu chúng ta
đảo trật tự của các bổ ngữ thì không chỉ phá vỡ sự hài hoà về mặt âm hưởng
mà còn làm thay đổi nghĩa của câu văn.
(1). ... làm hăng hái lắm cách mạng. (-)
(2). ... đắp cho ấm chăn và buông cho khỏi muỗi màn. (-)
(3). ... mở cho hắn đường. (-)
(4). ... trả một tình yêu rất êm đềm công. (-)
Qua những ví dụ trên chúng ta đã thấy rõ vai trò của nguyên tắc ý nghĩa
này đối với trật tự của các bổ ngữ. Bao giờ cũng vậy, quan hệ giữa các thành

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

23



Khoá luận tốt nghiệp
tố trong từ ghép chính phụ là rất chặt chẽ và vị trí của các thành tố trong quan
hệ chính phụ là cố định.
2.4.2. Bổ ngữ chỉ đối tượng thường đứng liền sau trung tâm.
Loại bổ ngữ này có tác dụng mở rộng nghĩa về đối tượng cho động từ
trung tâm. Nó thường đứng liền ngay sau trung tâm.
Khi khảo sát các cụm động từ loại trật từ này chúng tôi thu được:
192 phiếu 48%.
(1). Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng là hách dịch,
coi người như rơm như rác. (1, 38)
B1
B2
(đối tượng) (phương diện so sánh)
... coi như rơm như rác người. (-)
(2). Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy ...(1, 41)
B1
B2
(đối tượng) (mục đích)
Cụ dắt đứng dậy Chí Phèo ... (-)
(3). Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. (2, 8)
B1 B2
đối tượng) (nội dung)
Hộ đã chính thức nhận làm vợ Từ. (-)
(4). Tôi cho anh biết là người nhà quê mình có tục kiêng. (2, 444)
B1

B2


Tôi cho biết là nhà quê mình có tục kiêng anh. (-)
Trong các ví dụ trên thì đối tượng tác động của hành động coi là
người, của hành động dắt là Chí Phèo, của hành động nhận là Từ
của hành động cho là anh nên để các trật tự như Nam Cao là hợp lý.
Như vậy, chúng ta thấy bổ ngữ chỉ đối tượng thường có vị trí liền ngay
sau trung tâm, liên kết trực tiếp với trung tâm nhằm tạo ra một cụm động từ có
kết cấu logic chặt chẽ.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

24


Khoá luận tốt nghiệp
2.4.3. Bổ ngữ chỉ nội dung thường đứng ở cuối cụm động từ.
Bổ ngữ chỉ nội dung là bổ ngữ nêu lên sự việc chịu tác động của hành
động nêu ở vị từ. Trong cụm động từ, loại bổ ngữ này thường đứng ở vị trí
cuối.
Kết quả khảo sát: 51/396 phiếu 13%. Chúng tôi tìm hiểu một số
trường hợp cụ thể sau:
2.4.3.1. Bổ ngữ chỉ nội dung mệnh lệnh nhất định phải đứng sau bổ ngữ chỉ kẻ
chịu mệnh lệnh trong mọi điều kiện.
Ví dụ:

(1). ... cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân. (1, 67)
B1
B2
(kẻ chịu mệnh lệnh) (nội dung mệnh lệnh)
(1). ...cái con quỷ cái hay bắt bóp chân hắn (-) (sai về nghĩa)
(2). Từ ăn và bắt các con kham khổ, thường thường đói nữa. (2, 15)

B1

B2

(2). ...bắt kham khổ, thường thường đói nữa các con. (-) (sai về hoà
âm và nghĩa)
(3). ... tôi cũng bắt nhà tôi đóng của suốt ngày ... (2, 448)
B1
B2
(kẻ chịu mệnh lệnh) (nội dung mệnh lệnh)
(3). ... bắt đóng cổng suốt ngày nhà tôi... (-) (sai về hoà âm và nghĩa)
(4). Thế mà ông chủ tịch ấy cứ nằn nỉ mãi hai ba lượt
yêu cầu nhà tôi dạy Bình văn học vụ hay làm tuyên truyền giúp.
(nội dung mệnh lệnh)

(kẻ chịu mệnh lệnh)

(2, 449)

(4). yêu cầu dạy Bình dân học vụ hay tuyên truyền giúp nhà tôi. (-)
(sai về nghĩa)
Trong tiếng Việt, trật tự thuận là khi sai, bắt, yêu cầu, nhờ, ... thì phải
nói ai trước thì mới nói nội dung mệnh lệnh sau. Như thế mới đảm bảo được
tiết tấu và nội dung của lời nói.

Nguyễn Thị Mơ K29B Văn

25



×