Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN VĂN: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.66 KB, 98 trang )

2

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI
10

1.1.

MỚI Ở NƯỚC TA
Thực chất vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn

10

1.2.

kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Những vấn đề có tính quy luật vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới

Chương 2

ở nước ta
TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VẬN DỤNG


32

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
47

2.1.

HIỆN NAY
Tình hình và yêu cầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

47

2.2.

đại đoàn kết dân tộc hiện nay
Một số giải pháp cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay

KẾT LUẬN

63
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

PHỤ LỤC


90

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


3

Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực
kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý
nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của
thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu lý luận đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng cách
mạng, về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở
thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Với nhãn quan chính trị
sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã
không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết
dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính
quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người đã được quán triệt và thực
hiện trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam đã thiết thực góp phần tập hợp
lực lượng, tạo ra sức mạnh to lớn có ý nghĩa quyết định vào thắng lợi của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Quan điểm và thực tiễn chỉ đạo vấn đề đại đoàn kết dân tộc
của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở, nền tảng, là kim chỉ nam
định hướng cho Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng mới.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân

tộc, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta luôn nhất quán trong nhận
thức và khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu đạt được của hơn
hai mươi năm đổi mới là hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại cho


4

đất nước ta sự thay đổi cơ bản và toàn diện; thế và lực, uy tín của chúng ta
trên trường quốc tế được nâng cao. Điều đó là minh chứng sáng ngời thể hiện
giá trị tư tưởng đại đoàn kết dân tộc với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu đạt được thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng
trước những khó khăn, thách thức mới.
Vì vậy, để góp phần khắc phục những hạn chế, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, với mục tiêu: “Đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [13, tr.149] thì
nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc là việc làm có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc đến nay đã có nhiều công trình, nhiều bài viết khoa học tiếp cận và đề cập
dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau, khá toàn diện và sâu sắc, tập trung chủ
yếu trên các vấn đề:
Nhóm vấn đề nghiên cứu về nguồn gốc hình thành và nội dung cơ bản

trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Trong các công trình như:
Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[15]; Nguyễn Bích Hạnh - Nguyễn Văn Khoan, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết và mặt trận đoàn kết dân tộc [19]; Đinh Xuân Lý, Một số chuyên đề
về tư tưởng Hồ Chí Minh [28]; Trần Quang Nhiếp, Tuyên truyền tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc [69]; Phùng Hữu Phú (chủ biên), Chiến lược
đại đoàn kết Hồ Chí Minh [70]. Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, song các
tác giả đều thừa nhận và khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nói
chung, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc nói riêng không phải ra đời từ một


5

mảnh đất trống mà hình thành, phát triển và hoàn thiện trên nền tảng: kế thừa
truyền thống đoàn kết, cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam; sự khảo cứu,
trải nghiệm về những bài học thất bại, thành công của phong trào cách mạng
trong nước và thế giới; những quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vấn đề đoàn kết dân
tộc, đoàn kết giai cấp và tập hợp lực lượng...; lòng yêu thương con người và
tinh thần khoan dung là nhân tố chủ quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hình
thành nên tư tưởng của Người về đại đoàn kết. Tuy nhiên, trong các yếu tố trên
thì lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất tạo
nên sự phát triển về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Cùng với khẳng định nguồn gốc hình thành, các công trình nghiên cứu
trên đã khái quát một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc. Các tác giả đều nhất quán nhận định tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc là một nội dung có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tư tưởng
của Người. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược, là mục tiêu và
nhiệm vụ hàng đầu có ý nghĩa quyết định tới mọi thành công của cách mạng
Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở lấy liên
minh công - nông - trí thức làm nền tảng, đồng thời mở rộng và tập hợp tất cả

những lực lượng có thể tranh thủ vào Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Về cách thức để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tuy khác
nhau về góc độ tiếp cận, nhưng nhìn chung các tác giả đều cho rằng trong tư
tưởng của Người thì bảo đảm vấn đề lợi ích tối cao của dân tộc và những
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động là nguyên tắc, phương thức cơ bản
nhất để quy tụ khối đại đoàn kết toàn dân. Bên cạnh đó, muốn xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc bền vững cần có phương pháp tuyên truyền, giáo dục,
vận động quần chúng thật sự khoa học để họ nhận thức được sự cần thiết phải
tập hợp lại, từ đó tự giác tham gia công việc cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc
được xây dựng và củng cố vững chắc còn phụ thuộc vào cách thức ứng xử sao


6

cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp đến
mức tối đa trận tuyến thù địch, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố chủ
quan là tinh thần nhân văn và tấm lòng bao dung của Người.
Nhóm vấn đề về tình hình và giải pháp vận dụng, phát huy tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Được phân tích, luận giải trong các công trình, bài viết như: Lưu Ngọc Khải,
Đoàn kết là sức mạnh – tư tưởng chiến lược cách mạng của chủ tịch Hồ Chí
Minh [25]; Nguyễn Đức Ngọc, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc và
sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay [67]; Trần Văn Phòng,
Phát huy vai trò to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới [72]; Nguyễn Thị
Giang,“Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước”, in trong tập Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong thời kì mới [22].
Với cách tiếp cận đa chiều, song các tác giả đều nhận định tư tưởng Hồ

Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc dù phản ánh một giai đoạn lịch sử đã qua
song vẫn chứa đựng trong lòng những hạt nhân hợp lý, có giá trị to lớn trong
công tác tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay. Để tăng cường, củng cố và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới, phần lớn các tác giả đều thống
nhất một số vấn đề chủ yếu như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước đối với công tác xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; Đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân trên cơ sở coi
trọng việc củng cố khối liên minh công nhân, nông dân với đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tập hợp lực lượng.


7

Trên hướng tiếp cận khác, một số tác giả trong các công trình nghiên
cứu của mình lại khẳng định, để vận dụng một cách có hiệu quả tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay thì vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng là tiến hành công tác tuyên truyền tư tưởng của
Người về sức mạnh của khối đại đoàn kết, đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh cuộc
vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cùng với
công tác tuyên truyền tư tưởng của Người, công tác đấu tranh nhằm vô hiệu
hóa âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, nhất là “chiến lược diễn biến hòa bình” cũng cần được
chú trọng. Bởi lẽ, một trong những nội dung ưu tiên trọng điểm trong “chiến
lược diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc đang tiến hành chống phá
công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay là
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt chính sách giai cấp,
chính sách xã hội cũng là một giải pháp quan trọng nhằm tăng cường sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc bởi chính sách giai cấp, chính sách xã hội thực

chất là chính sách vì con người, là động lực quan trọng nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Chính sách
đúng, đặc biệt giải quyết hài hòa các mối quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp,
tầng lớp sẽ là chất keo kết dính đoàn kết của mỗi thành viên trong xã hội và
tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Nhận xét chung, các công trình nghiên cứu trên đều rất đáng trân trọng,
thể hiện quá trình nghiên cứu công phu về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh cùng những khám phá có giá trị trong việc đề xuất những giải
pháp vận dụng. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học, cũng như đề xuất một hệ
thống giải pháp cơ bản nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Từ những lí do chủ yếu và thôi thúc trên, tác


8

giả chọn vấn đề “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” làm luận văn nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích của luận văn: Nghiên cứu cơ bản, hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng trong công cuộc
đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc trong tình hình hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
Luận giải thực chất và những vấn đề có tính quy luật vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Khái quát tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc trong những năm đổi mới, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản

nhằm vận dụng tư tưởng của Người về đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Bản chất và những vấn đề có tính quy luật
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc vào xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân từ đổi mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn: Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp, về tập hợp lực lượng trong tiến trình đấu
tranh cách mạng.


9

* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng và
thống nhất đất nước, đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn như phân
tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, quy nạp và diễn dịch, nghiên cứu tài liệu và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần khẳng định tính đúng đắn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng sáng tạo của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới.
Tác giả bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở

nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1


10

THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
1.1. Thực chất vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và những vấn
đề đặt ra đối với đoàn kết dân tộc trong điều kiện hiện nay
* Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Quan niệm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan
trọng hợp thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận
thấy cụm từ đoàn kết được sử dụng một cách đều đặn, điều đó nói lên sự quan
tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch sử, đồng
thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết có thể hiểu
một cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt
động vì một mục đích chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi tức
muốn nhấn mạnh tới thành phần, quy mô, lực lượng của khối đoàn kết.
Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần
duy nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước

hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn
phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [54, tr.438]. Tư tưởng về đại đoàn kết
tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như: “đại đoàn kết
toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”.
Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều
thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân


11

dân Việt Nam. Trong bài viết Ba mươi năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ nội hàm của khái niệm đoàn kết dân tộc: “Đảng ta đã khéo tập hợp mọi
lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc để đấu tranh chống đế quốc và phong kiến” [62, tr.18].
Như vậy, đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn
kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống
trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở
thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản.
Vai trò của đại đoàn kết dân tộc được xác định là mục tiêu chiến lược,
nguyên nhân cơ bản quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ đơn
giản là phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận
hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng,
Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một
thủ đoạn chính trị” [54, tr.438]. Có thể nói đoàn kết dân tộc vừa là điều kiện
tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tôn chỉ, mục
đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới.

Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một chủ trương, một chiến
lược xuất phát từ nguyện vọng, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà
là sự đúc kết những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng
tiến hành. Nếu như xuất phát từ nhu cầu của lực lượng lãnh đạo cách mạng, đại
đoàn kết dân tộc sẽ chỉ dừng lại là một thủ đoạn chính trị nhằm đạt được mục
đích, một ý đồ nhất định. Ngược lại, nhìn nhận đoàn kết dân tộc như một đòi hỏi
tự thân, khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
thì đại đoàn kết là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, trong tiến trình
lãnh đạo cách mạng, Người yêu cầu không được có bất cứ lúc nào lơ là nhiệm
vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc


12

không chỉ dừng lại trong nhận thức mà được cụ thể hóa trong mọi bước đi, giai
đoạn phát triển của cách mạng, Người nói: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà” [54,
tr.438].
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công
việc hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể thành
công khi quy tụ được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc vì đoàn kết mới tạo
nên sức mạnh, tạo nên lực lượng hùng hậu có thể đương đầu và chiến thắng kẻ
thù. Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đoàn kết và thành công có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy mô của thành công trước hết phụ
thuộc vào chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn kết. Là người lãnh đạo tối
cao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc
đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc
sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. Để lý giải một
nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu lại có thể đương đầu và đánh bại một tên thực
dân đầu sỏ có ưu thế tuyệt đối về vật chất, phương tiện chiến tranh, Người nói:

“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ, Chỉ có một ý chí:
Quyết không chịu mất nước, Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh
thủ thống nhất và độc lập cho tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành
một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo
quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”
[46, tr.151-152]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trả lời, có đoàn kết mới có
thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại cần phải
đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Người đặc biệt quan tâm tới vấn đề đoàn kết vì đoàn kết là mấu chốt
của thắng lợi và rút ra một bài học lớn đồng thời là quy luật mang tính sống còn
của dân tộc Việt Nam: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [40, tr.217].


13

Về lực lượng và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc.
Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là toàn dân trong đó lấy liên
minh công - nông - trí làm nền tảng.
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước
lấy dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là
ngày hội của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần
kì của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng
vô địch của nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [57, tr.276].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng.
Người dùng các khái niệm này để chỉ tất cả mọi con dân của nước Việt Nam,
những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng,

đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối
nhưng đã biết hối cải, quay về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư
tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực
lượng và bộ phận có thể tranh thủ. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi được Người
khẳng định: “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [54, tr.438], và “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [54, tr.438].
Tuy nhiên, đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ với tư
tưởng điều hòa giai cấp, xóa nhòa bản chất giai cấp bởi Người luôn nhấn mạnh:
“Không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường
lối thỏa hiệp” [37, tr.3]. Trong thành phần đông đảo tạo nên lực lượng của khối
đoàn kết phải xác định đâu là nền tảng và những lực lượng nào tạo ra cái nền
tảng đó. Ngay trong chặng đường hoạt động cách mạng đầu tiên, Hồ Chí Minh
đã sớm chỉ ra lực lượng nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc: “Công nông là


14

người chủ cách mệnh” [34, tr.266]. Tư tưởng đó của Người tiếp tục được quán
triệt và thực hiện nhất quán trong toàn bộ đường lối của cách mạng Việt Nam.
Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn kết
tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người
bổ sung thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công
nhân, nông dân với trí thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và
công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối” [57, tr.214].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp hài hòa,
quyện chặt và nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân

tộc trên cơ sở lấy liên minh công nông làm gốc, không một lúc nào quên đi lợi
ích giai cấp song Người cũng có một tư duy vượt trước khi khẳng định chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát huy khi tập hợp
trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở
thành lực lượng vô địch khi được tổ chức thành một khối chặt chẽ, được giác
ngộ sâu sắc về mục tiêu lý tưởng, được định hướng bởi một đường lối chính
trị đúng đắn, nếu không thì dù quần chúng nhân dân có số đông tới hàng triệu
người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh, rời rạc.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh
đã rất lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những tổ chức yêu
nước phù hợp với đặc điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp, tôn giáo... Bao trùm
tất cả là tư tưởng muốn thu nạp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào Mặt
trận dân tộc thống nhất. Mặt trận cần thu nạp được đông đảo quần chúng nhân
dân, những người ít nhiều có tinh thần yêu nước, Mặt trận cần là một tổ chức
rộng rãi. Rộng rãi nhằm thực hiện đoàn kết được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng


15

không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, xu hướng chính trị... Người nói: “Mặt
trận bao gồm tất cả những người yêu nước, không phân biệt khuynh hướng
chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác” [49, tr.25].
Do đó Mặt trận không chỉ thu hút được mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp
bức, mà còn thu hút được cả tầng lớp trên không thuộc nhân dân lao động và
một bộ phận phân hóa trong hàng ngũ của kẻ thù. Trong Mặt trận, xương sống
và sức mạnh chủ yếu của khối đại đoàn kết là khối liên minh công nông làm nền
tảng, Người nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”

[62, tr.18]. Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt
tổ chức xã hội mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Trong đó, tách
biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc liên minh công nông
đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng, không đúng với
nguyên tắc đoàn kết của Người. Tuyệt đối hóa vai trò, vị trí của liên minh công
nông, hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan, “tả khuynh” và bệnh cô
lập, hẹp hòi. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận, xem
nhẹ liên minh công nông sẽ dẫn tới hữu khuynh, vô chính phủ. Người từng nói
rằng: “Trong chính sách đoàn kết cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô
độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc” [54, tr.438].
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được
xác định là một thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công
nhân. Tuy nhiên, Đảng không phải là một thành viên bình thường, mà là người
lãnh đạo của khối đại đoàn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng là tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết
lại; chọn lựa những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để có thể thu hút
rộng rãi các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân chúng; hướng dẫn khối đại
đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ
phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân


16

dân. Người cũng nhấn mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong
cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận
thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng
ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh
đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” [38, tr.139].
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là toàn

dân, trong đó lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng được tập hợp
trong một Mặt trận thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả
lời chỉ trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc này, đại đoàn kết dân tộc mới có sức
sống bền vững và trường tồn.
Phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết được xây dựng dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của
dân tộc và những lợi ích chính đáng của nhân dân lao động.
Thực tiễn lịch sử đã xác nhận, suy đến cùng, mối quan hệ giữa các tầng
lớp nhân dân trở nên bền chặt hay không do chính vấn đề lợi ích quy định.
Ngược lại nếu không thỏa mãn những vấn đề tối thiểu về lợi ích thì mọi khẩu
hiệu về đoàn kết chỉ là những khẩu hiệu trống rỗng. Tuy nhiên, mối quan hệ
lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp luôn là vấn đề hết sức phức tạp, chồng chéo,
luôn chứa đựng những yếu tố thống nhất, mâu thuẫn và không ngừng vận
động biến đổi cùng với đời sống thực tiễn.
Là một đất nước có một kết cấu giai tầng phong phú mang nhiều nét đặc
thù của một xã hội nửa thực dân phong kiến, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc về nhận
thức, thái độ của mỗi tầng lớp nhân dân là hết sức khác nhau, Người nhận định:
“Dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác
nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp lừng chừng,
có lớp lạc hậu” [46, tr.296]. Do chính môi trường, hoàn cảnh sống khác nhau đó
nên nhận thức và hành động không thể nhất quán, thậm chí có những xung đột về
vấn đề lợi ích. Nhằm quy tụ sức mạnh của cả dân tộc hướng vào mục tiêu chung,


17

tạo nên hợp lực trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Hồ Chí Minh đã
tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc
chế, giải quyết các yếu tố khác biệt, mâu thuẫn. Yếu tố tương đồng để quy tụ sức
mạnh của cả dân tộc phải phản ánh được khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt

Nam yêu nước, đó là phương châm “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Mẫu số chung của khối đại đoàn kết dân tộc, theo Người là chân lý:
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập, tự do là nội dung cơ bản về
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi cá
nhân, thành viên trong dân tộc đó. Quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi con người.
Song, con người không bao giờ là một chủ thể tách biệt xã hội, con người
luôn là con người xã hội và sống trong lòng mỗi quốc gia dân tộc cụ thể. Vì lẽ
đó, quyền của con người luôn gắn liền với quyền của quốc gia, dân tộc. Con
người chỉ có thể mưu cầu hạnh phúc cho chính mình, được sống và được tôn
trọng phẩm giá khi quốc gia dân tộc độc lập, tự do. Như vậy, xác định mục
tiêu phản ánh được lợi ích căn bản, cấp bách và nóng bỏng nhất của toàn thể
dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa
là phương thức quan trọng để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc của Người.
Không chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu chung, đối với Người, độc lập
dân tộc chỉ có giá trị khi gắn liền với tự do, hạnh phúc, với cơm no áo ấm của
người dân lao động, Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” [41, tr.58] và “Dân chỉ biết
rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [42, tr.152].
Vì vậy, ngay trong những ngày đấu tranh gian khổ của nhân dân ta, Hồ Chí
Minh rất chăm lo tới đời sống cho nhân dân với phương châm vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, từng bước nâng cao đời sống vật chất, quyền tự do dân
chủ cho đông đảo nhân dân lao động. Người luôn phấn đấu làm cho dân thấy
được giá trị và từng bước được hưởng quyền tự do dân chủ. Người đồng thời
căn dặn, mọi đường lối chủ trương của chính quyền phải phản ánh được tâm


18

tư nguyện vọng và lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, chính quyền

phải thật sự vì dân, phấn đấu cho quyền lợi của nhân dân: “Việc gì có lợi cho
dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh” [41,
tr.56-57]. Chỉ với thái độ như vậy mới thực sự lôi kéo, tập hợp được đông đảo
các tầng lớp nhân dân, phát huy cao nhất sự chủ động sáng tạo của từng
người, từng bộ phận, trên mọi lĩnh vực để đưa cách mạng tới thắng lợi.
Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên
truyền giáo dục đối với quần chúng nhân dân.
Để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh rất chú trọng tiến
hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng. Công tác tuyên
truyền theo Người là một khoa học, nghệ thuật cách mạng, do vậy các tổ chức và
cán bộ cách mạng phải không ngừng tìm tòi lựa chọn nội dung, hình thức phù
hợp để chuyển tải đường lối của Đảng một cách sâu rộng tới nhân dân.
Muốn làm được điều đó, việc quan trọng hàng đầu đòi hỏi nội dung
tuyên truyền, giáo dục, vận động phải phản ánh đúng những nguyện vọng sâu
xa và những lợi ích cơ bản nhất của dân chúng. Ở đây có những quyền lợi,
nguyện vọng chung có thể gắn kết mọi thành viên của dân tộc nhưng cũng có
những nguyện vọng riêng phù hợp với một bộ phận dân chúng, giai cấp. Do đó,
nội dung tuyên truyền, giáo dục cần phải đáp ứng được hai yêu cầu trên. Thấm
nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác, nên tùy theo hoàn cảnh
và yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đưa vào cương
lĩnh cách mạng của Đảng những mục tiêu chiến lược phản ánh những khát
vọng cháy bỏng của nhân dân. Nếu như trong những năm tháng tiến hành đấu
tranh giành độc lập tự do cho dân tộc, nội dung tuyên truyền và khẩu hiện hành
động của Người là “độc lập dân tộc và người cày có ruộng” thì trong cuộc
kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp, Người lại nhấn mạnh “Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết”, và trong cuộc Kháng chiến chống đế quốc Mỹ là
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Không chỉ sáng tạo trong việc xác định
nội dung tuyên truyền, giáo dục phù hợp với tâm lý, nguyện vọng chung của cả



19

cộng đồng dân tộc, Hồ Chí Minh còn hết sức nhạy cảm, sáng suốt trong lựa
chọn những nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng đối tượng cụ thể,
từng cộng đồng xã hội. Có được nội dung tuyên truyền, vận động đúng đắn là
cần thiết, song hiệu quả tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng còn phụ thuộc
vào việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động sao cho phù hợp với
từng đối tượng cụ thể, và chính Người là một điển hình mẫu mực về việc sử
dụng hiệu quả các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng.
Trong công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, Hồ Chí Minh đặc biệt
lưu ý giải quyết hai mối quan hệ có tính chất nền tảng, quyết định tới sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân, đó là quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam và quan hệ giữa các tôn giáo. Do những điều kiện lịch sử để lại
cùng với âm mưu chia để trị của thực dân phong kiến, mối quan hệ giữa các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, mối quan hệ giữa miền ngược và miền
xuôi, giữa đồng bào lương - giáo... có những rạn nứt, nghi hoặc. Người đã đấu
tranh kiên trì, bền bỉ để xóa bỏ những hiềm khích, xây dựng khối đoàn kết giữa
các dân tộc, trên cơ sở lợi ích chung thống nhất của quốc gia; đoàn kết gắn liền
với thực hiện quan hệ dân tộc bình đẳng, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ nhau;
đoàn kết trên cơ sở tôn trọng văn hóa, phong tục, tập quán của nhau, kiên quyết
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi: “Đảng và Chính phủ ta luôn luôn
kêu gọi các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng
nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ” [61,
tr.587]. Trong giải quyết mối quan hệ giữa các tôn giáo, Người luôn nhấn mạnh
đến những nét tương đồng, những mẫu số chung của những giá trị chân, thiện,
mỹ để hạn chế, khắc phục những khác biệt, quy tụ khối đại đoàn kết toàn dân.
Hồ Chí Minh luôn đề cao, trân trọng những khía cạnh nhân bản của đạo đức tôn
giáo trong giáo lý nguyên sơ của các tôn giáo để kêu gọi mọi người dù theo
những tín ngưỡng tôn giáo khác nhau cùng đoàn kết hướng tới một mục tiêu
chung: “Chúa Giêxu dạy: Đạo đức là bác ái; Phật Thích ca dạy: Đạo đức là từ bi;

Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” [50, tr.225].


20

Như vậy, trong tư tưởng của Người, để không ngừng củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc thì công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động
quần chúng có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng. Điều cần lưu ý phải luôn
có một nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng
giai đoạn cách mạng cụ thể và đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần đoàn kết
giữa các dân tộc, các tôn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Xóa bỏ mặc cảm, định kiến và bệnh hẹp hòi trên tinh thần độ lượng,
khoan dung là phương thức quan trọng để xây dựng đại đoàn kết dân tộc.
Trải qua gần 100 năm thống trị của đế quốc nước ngoài, và xa hơn là
hàng nghàn năm phong kiến với những âm mưu thủ đoạn “chia để trị” của
thực dân và thậm chí do những sai lầm ấu trĩ của cán bộ cách mạng nên giữa
một bộ phận các dân tộc, tôn giáo, giai cấp... còn có những khoảng cách, nghi
hoặc, rạn nứt trong quan hệ. Bởi vậy, những tàn tích của những định kiến quá
khứ do đế quốc, phong kiến để lại còn đè nặng lên tư tưởng và tình cảm của
quần chúng nhân dân. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết, muốn tập hợp, động
viên và phát huy sức mạnh của tất cả các lực lượng, theo Hồ Chí Minh tất yếu
phải san bằng những hố sâu ngăn cách đó: “Cần phải xóa bỏ hết thành kiến,
cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, để cùng
phục vụ nhân dân” [50, tr.391].
Muốn xóa bỏ được những thành kiến, theo Người, phải có một lòng bao
dung, biết nâng niu, trận trọng và khuyến khích mặt tốt, mặt thiện trong mỗi con
người để khơi dậy phần tốt được nảy nở như hoa mùa xuân, và phần xấu bị héo
mòn đi để họ trở về với cộng đồng dân tộc. Đối với những người có thói hư tật
xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc, cũng cần giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho phần thiện trong họ nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi

bời. Chính sách khoan hồng đại độ trong tư tưởng của Người là xóa bỏ những
hận thù, định kiến và mặc cảm quá khứ trên cơ sở khai thác những yếu tố “tương
đồng”, tôn trọng những yếu tố “dị biệt”; nhân lên mẫu số chung những yếu tố
tâm lý, văn hóa, lợi ích dân tộc; khơi dậy trong tâm hồn mọi người tinh thần của


21

những người mang dòng máu Lạc Hồng; trân trọng cái phần thiện, dù nhỏ nhất ở
mỗi con người. Trong nhận thức của Người, có tấm lòng độ lượng sẽ có được sự
cảm hóa sâu sắc: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ
lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy
tràn, vì độ lượng của nó hẹp nhỏ...” [48, tr.644]. Như vậy, có thể khẳng định, mọi
tư tưởng, mọi sự sáng tạo của Hồ Chí Minh đều xuất phát từ lòng yêu thương,
kính trọng và tin tưởng ở con người, tin tưởng ở nhân dân. Người từng nói rằng
đã là người Việt Nam thì ai cũng có ít nhiều lòng yêu nước. Với tấm lòng nhân ái
bao la, lòng tin vô hạn đối với nhân dân, dân tộc, Người đã giành trọn tình yêu
thương và sự tin tưởng vào khả năng tiến bộ của con người, biết khơi dậy trong
họ những khả năng tiềm tàng, thức tỉnh và giáo dục họ đứng lên đấu tranh cho sự
nghiệp chính nghĩa của quốc gia dân tộc.
Trên thực tế, quan điểm khoan dung, độ lượng và niềm tin vào nhân tính
con người đã giúp Hồ Chí Minh: “Đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ
quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng
lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào” [55, tr.61]. Tinh thần khoan dung
của Người là sự kế tục và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc.
Đó là thái độ trân trọng, cái nhìn rộng lượng, là chấp nhận sự giao lưu, tương tác
giữa cái chung và cái riêng, cái đồng nhất và dị biệt để đạt tới cái chung, cái hòa
đồng để cùng phát triển. Lòng khoan dung của Người đã có sức cuốn hút và cảm
hóa kì diệu, đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết của kẻ thù; đã
tập hợp được đông đảo các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, kể cả các hoàng tộc,

quan lại đứng trong khối đại đoàn kết toàn dân để tạo nên một sức mạnh vô địch.
* Những vấn đề đặt ra đối với đoàn kết dân tộc trong điều kiện hiện nay
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (1986)
và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong các kì đại hội tiếp theo. Với tính chất
sâu sắc, với quy mô rộng rãi trên mọi phương diện của đời sống, với mục đích
tối cao và nhân bản đem lại hạnh phúc thực sự cho con người nên về bản chất,
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng xã hội


22

chủ nghĩa đã được xác định trong giai đoạn cách mạng trước đây. Hơn lúc nào
hết, sự nghiệp lớn lao đó muốn đạt tới kết quả mong muốn cần huy động được
trí tuệ, tài lực và sự cố kết của toàn thể mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam, trong đó sức mạnh của khối đại đoàn kết được xác định là nguồn sức
mạnh cơ bản nhất, có ý nghĩa nhất bởi: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất của
chúng ta” [53; tr.368]. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc cần tính đến những điều kiện mới mà trước đó chưa đặt ra:
Một là, đại đoàn kết diễn ra trong điều kiện đất nước hòa bình, độc lập, thống
nhất.
Trải qua hàng chục năm chiến tranh nên mong muốn và khát vọng phục
hưng đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới để rửa nỗi nhục nghèo khổ, mở ra một
chương mới rạng rỡ cho dân tộc có thể tự hào sánh vai với các cường quốc năm
Châu là nguyện vọng thiết tha của mọi người Việt Nam yêu nước. Tuy nhiên, cần
nhận thức trong môi trường bình đẳng và mỗi cá nhân được khuyến khích làm giàu
một cách chính đáng thì mỗi người, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp luôn hành động và
tìm kiếm, theo đuổi và chinh phục những lợi ích nhất định. Trong quá trình theo
đuổi và tìm kiếm những lợi ích đó sẽ tạo nên một hệ thống những nhu cầu, động cơ
đa dạng và phức tạp, đan xen và không ngừng tác động qua lại chi phối lẫn nhau.
Lợi ích tương đồng có thể tạo nên một hệ thống những hợp lực khiến con người

xích lại gần nhau hơn, gắn bó và cố kết với nhau trong hành động. Tuy nhiên, xã
hội luôn là một tập hợp người đa dạng, phức tạp nên thực tiễn săn tìm lợi ích không
thể tránh khỏi những lệch pha, va chạm, xung đột về mặt lợi ích. Khi cùng theo
đuổi những lợi ích sẽ có người toại nguyện khi đạt được mục đích của mình, và
đương nhiên bên cạnh người được là kẻ mất. Kẻ mất, người được sau một cuộc đua
tranh về lợi ích thì khó có thể có một sự đồng cảm và chia sẻ.
Thực tiễn cuộc sống đã trả lời, những xung đột, mâu thuẫn về lợi ích
vật chất là nền tảng và mấu chốt nhất của mọi sự xung đột xã hội. Đó là một


23

sự thật mà Đảng và Nhà nước cần phải tính đến trong quá trình xây dựng và
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay.
Hai là, đại đoàn kết diễn ra trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kì đổi mới, mô hình kinh tế chúng ta thực hiện là phát triển nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ có đường lối đúng, chúng ta
đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đời sống vật chất, tinh thần của đại đa
số nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đã đạt
được, nền kinh tế thị trường cũng để lại sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày một
sâu sắc thêm. Đây là nhân tố có khả năng tác động tiêu cực tới sự cố kết xã hội.
Mặc dù Nhà nước khuyến khích người dân làm giàu chính đáng song
không phải ai cũng có điều kiện và khả năng để làm giàu, nhất là đồng bào trong
diện chính sách, đồng bào ở vùng sâu vùng xa. Trong dân cư, một bộ phận nhờ
những ưu thế nhất định trong nhận thức, kinh nghiệm và khả năng tiếp cận các
nguồn lực nên giàu lên nhanh chóng. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các giai cấp,
tầng lớp ngày càng sâu sắc như nhận định của Đảng ta là “ngày càng doãng ra”;
khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách xa và trầm trọng hơn giữa các vùng
miền, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi là một thực tế có

thật. Cùng với việc phân hóa giàu nghèo, kinh tế thị trường cũng tạo ra tâm lý
chạy theo đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, cạnh tranh không lành mạnh làm phai
nhạt truyền thống tình nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng. Kinh tế thị
trường cũng gây ra nhiều tệ nạn xã hội như buôn lậu, trốn thuế, mại dâm... làm
nhức nhối trong toàn xã hội và khiến lòng dân không yên. Điều đáng lưu ý, vì lợi
ích khiến một bộ phận bất chấp tất cả, làm giàu bằng mọi cách và sẵn sàng chà
đạp lên lợi ích chân chính của người khác. Nghiêm trọng hơn, có một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã lợi dụng quyền lực do Đảng và
nhân dân giao cho để vơ vét, làm giàu một cách bất chính. Tình trạng tham nhũng,
tha hóa trong một bộ phận không nhỏ cán bộ công quyền làm xói mòn niền tin của


24

dân vào Đảng và Nhà nước. Trong cuộc sống không thiếu những chủ trương chính
sách đưa ra không hợp lòng dân nhằm phục vụ cho “lợi ích nhóm” giữa một bộ
phận cán bộ công quyền móc ngoặc với bên ngoài. Điều đó khiến nhân dân thiếu
sự tin tưởng vào những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là
nguyên nhân dẫn tới các vụ khiếu kiện đông người, có lúc có nơi rất gay gắt, tạo
kẻ hở cho các thế lực thù địch kích động chia rẽ khối đại đoàn kết.
Tất cả những phân tích trên để khẳng định rằng, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần là một vấn đề thực tiễn mới mẻ. Để quy tụ được sự đoàn kết của mọi
người trong sự nghiệp chung cần có một tư duy tiếp cận mới, tránh sự rập
khuôn như xây dựng khối đại đoàn kết trong thời gian trước đây.
Ba là, đại đoàn kết diễn ra trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Hội nhập với quốc tế đã tạo nên sự thay đổi tích cực trên mọi phương diện
của đời sống xã hội, nhưng cùng với việc đón nhận những luồng gió trong lành,
chúng ta đồng phải đối diện với sự xâm nhập hàng ngày, hàng giờ của các “luồng
gió độc” bởi giao lưu về văn hóa là một nội dung quan trọng của hội nhập. Trong

quá trình đó ta không chỉ tiếp nhận những cái hay, cái tốt đẹp mà còn bị tác động,
chi phối bởi những cái phản văn hóa, phản giá trị làm ảnh hưởng và xói mòn
nghiêm trọng tới thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm băng hoại các giá trị đạo
đức truyền thống. Mở cửa hội nhập cùng quá trình phát triển mạnh mẽ các
phương tiện thông tin truyền, thông bên cạnh lợi ích góp phần nâng cao dân trí thì
sự yếu kém trong công tác định hướng và kiểm duyệt thông tin đã và đang tạo kẽ
hở để các thế lực thù địch kích động, xuyên tạc gây ảnh hưởng tiêu cực tới khối
đoàn kết. Đồng thời chúng dễ dàng tiếp cận, nắm bắt những mâu thuẫn nảy sinh
trong một bộ phận nhân dân, lợi dụng những sai lầm nhất định trong đường lối,
chủ trương và quá trình thực hiện của các cấp chính quyền từ đó tiến hành chia rẽ
sự đoàn kết thống nhất giữa các tầng lớp nhân dân. Trong đó kẻ địch chú trọng
khoét sâu vào mâu thuẫn, tạo sự bất bình và nghi kị giữa một bộ phận nhân dân


25

với các cấp chính quyền, với Đảng và Nhà nước. Đây là một nhân tố tiềm ẩn
nhưng có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng khiến xã hội bất ổn vì sự mất
niềm tin của người dân vào chính quyền có thể tạo nên những khủng hoảng, xung
đột - cái cớ để các thế lực thù địch tiến hành can thiệp.
Sự giao lưu, tương tác, tự do trong tiếp cận thông tin là những nhân tố
có thật đã và đang trực tiếp tác động tới quá trình xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân. Đây là những điều kiện mới mà giai đoạn trước đó không có được.
Do vậy, để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc đạt được hiệu quả
thì nhất thiết chủ thể cần phải bám sát sự vận động, phát triển sinh động của
thực tiễn để có chủ trương và giải pháp phù hợp.
1.1.2. Quan niệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định
là nền tảng tư tưởng của Đảng và là kim chỉ nam cho mọi hành động của cách

mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người nói chung, tư tưởng về đại đoàn kết dân
tộc nói riêng là những chân lý cách mạng đã được sự kiểm nghiệm nghiêm
khắc của lịch sử, đã khẳng định tính chân lý trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc và thống nhất đất nước. Tuy phản ánh một giai đoạn lịch sử đã qua
song những vấn đề trong nhận thức về vai trò, lực lượng, phương thức nhằm
thực hiện đoàn kết rộng rãi toàn dân để tạo nên một sức mạnh to lớn của
Người vẫn chứa đựng những hạt nhân hợp lý, có giá trị đối với chúng ta trong
công cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, cần nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
khi vận mệnh, độc lập, tự do của Tổ quốc và số phận của mỗi người dân đang
đứng trước những thử thách nghiêm trọng, sống còn. Do đó, nếu bê nguyên
những luận điểm đã được khái quát trong một hoàn cảnh đã qua và xem đó là
một chân lý trong điều kiện hiện tại sẽ là một sai lầm. Thực tiễn xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề


26

hết sức mới mẻ. Bởi vậy, để tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc luôn
là kim chỉ nam cho công tác tập hợp lực lượng thì tư tưởng đó cần tiếp tục
được bổ sung và phát triển sao cho phản ánh một cách sinh động thực tiễn của
sự nghiệp đổi mới. Với cách tiếp cận đó, tác giả đưa ra quan niệm: Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi mới là một
quá trình sử dụng tổng hợp các phương thức nhằm nâng cao nhận thức hệ
giá trị tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người và bổ sung, phát triển hệ giá
trị đó phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đồng thời hiện thực
hóa những vấn đề lý luận được khái quát vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Quan niệm trên bao hàm ba vấn đề cơ bản sau:
Một là, đây là quá trình sử dụng tổng hợp các phương thức nâng cao nhận
thức hệ giá trị tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đối với các chủ thể vận dụng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng
cấu thành tư tưởng của Người. Nó bao gồm một hệ thống những luận điểm về
vai trò, lực lượng, phương thức trong thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc nhằm
phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng.
Những luận điểm của Người trong xây dựng khối đoàn kết là những chân lý của
một giai đoạn lịch sử, song vẫn chứa đựng những hạt nhân hợp lý có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng về mặt phương pháp luận đối với chúng ta trong quá trình tập
hợp lực lượng nhằm tạo ra một hợp lực mạnh mẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới hiện nay. Bởi vậy, yêu cầu nhận thức và nâng cao nhận thức đối với các
chủ thể về bản chất khoa học, cách mạng tư tưởng của Người về đại đoàn kết
dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc, là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa nền tảng
trong quá trình vận dụng vào thực tiễn công cuộc đổi mới.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân bởi đại đoàn kết
thành công sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho chính đông đảo quần chúng nhân
dân. Vì lẽ đó, chủ thể nhận thức, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tiễn công cuộc đổi mới không phải là trách nhiệm của riêng ai, càng


×