Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại - Ý nghĩa và định hướng vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.5 KB, 30 trang )

Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

MỤC LỤC

1

Văn Công Vũ 


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

LỜI MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà hoạt động quốc tế xuất 
sắc, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, sứ  giả  của hoà bình  
và hữu nghị. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người đã để  lại  
kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá cho dân tộc Việt Nam.
Trong hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn 
ba nhiều nơi trên khắp thế  giới, Người đã sống và hoạt động trong phong trào  
giải phóng dân tộc và công nhân quốc tế, tiếp nhận chủ  nghĩa Mác – Lênin và  
qua trải nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng, trong tư tưởng của Người, vấn  
đề mở  cửa, hội nhập đã sớm hình thành. Đa phương hóa, đa dạng hóa, làm bạn 
với tất cả  các nước dân chủ  và tiến bộ  là một tư  tưởng xuyên suốt trong tư 
tưởng Hồ  Chí Minh. Cùng với thời gian và trước những thử  thách khắc nghiệt  
của công cuộc xây dựng và bảo vệ  đất nước suốt mấy chục năm, Chủ  tịch Hồ 
Chí Minh luôn giữ  vững quan điểm nhất quán, xử  lý linh hoạt, đúng đắn mối  
quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại. 
 Trong hệ  thống tư  tưởng Hồ  Chí Minh, tư  tưởng về  kinh tế  đối ngoại là 
một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người về kinh tế, nó 


được hình thành trên cơ  sở  kế  thừa những giá trị  tốt đẹp của truyền thống dân 
2


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

tộc, từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ 
nghĩa Mác ­ Lênin, thông qua quá trình khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới.  
Những quan điểm đó đã trở  thành đường lối, chủ  trương, chính sách đối ngoại 
về  kinh tế  của Đảng, được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính 
đúng đắn của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc và cả  trong giai đoạn xây 
dựng chủ nghĩa xã hội. 
Trong khuôn khổ môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, học viên thực  
hiện tiệu luận với chủ  đề:  “Quan điểm của Hồ  Chí Minh về  kinh tế  đối  
ngoại. Ý nghĩa và định hướng vận dụng”.  Thông qua đó, học viên sẽ  đi sâu 
nghiên cứu, chỉ  rõ quan điểm của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế 
đối ngoại và quá trình vận dụng tư tưởng đó của Người trong thực tiễn nước ta. 

3


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUAN HỆ ĐỐI 

NGOẠI VÀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Theo Bác, thế giới là một khối thống nhất các quốc gia có sự  hợp tác, giúp 
đỡ lẫn nhau. Muốn giành được độc lập dân tộc, nhất định phải thiết lập những  
mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Việt Nam luôn coi trọng vấn đề quan hệ với 
các nước, không phân biệt đối tác đó là ai, thiết lập quan hệ đối ngoại, không bỏ 
sót bất kỳ  ai và phải trên nguyên tắc độc lập chủ  quyền, không can thiệp vào 
công việc nội bộ của nhau vì lợi ích chung cùng có lợi. 
Theo Người, ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau: “chúng tôi sẵn  
sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước”1. Bác luôn xác 
định cần thiết phải thiết lập, mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên 
cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi.

1 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tập 10, tr.317

4


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Bác Hồ thăm Liên Xô năm 1955

Tư duy của Bác về chính sách mở cửa, hội nhập đã được hình thành từ  rất 
sớm. Ngay từ năm 1919, Người đã nhận định: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung  
phụ  thuộc vào việc phát triển chủ  nghĩa quốc tế  và văn minh chỉ  có lợi khi các  
quan hệ  quốc tế  được mở  rộng và tăng cường”2.“Là phi lý nếu nghĩ rằng hai  
dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể  cứ  tồn  
tại biệt lập đối với nhau”3. Khi trả  lời nhà báo Mỹ  Standley Harrison, Hồ  Chí 
Minh đã nói: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn  
giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”4.

Tư tưởng chiến lược kinh tế mở được Người đề cập tập trung, đầy đủ  và  
rõ ràng nhất trong bức thư Người gửi cho Liên hợp quốc tháng 12/1946:
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 9­10

3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 9­10

4

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 578
5


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

“…Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách  
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. 
a. Nước Việt Nam dành sự  tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư  của các nhà tư  
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
        b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở  rộng các cảng, sân bay và đường sá giao  
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
       c. Nước Việt Nam chấp thuận tham gia mọi tổ chức h ợp tác kinh tế quốc tế  
dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
        d. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân  
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những  
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.
       … Chính sách mở cửa và hợp tác nói trên, Chính phủ Việt Nam cũng giành  
cho nước Pháp trong Hiệp định ngày 6/3/1946. Nhưng những người đại diện  
Pháp ở Đông Dương đã tìm cách phá hoại…”5.

        Chiến tranh lạnh giữa hai phe sau Chiến tranh thế giới thứ hai không cho  
phép Người triển khai những ý tưởng đúng đắn hình thành ở  Người từ  rất sớm  
này. Từ  sau Chiến tranh thế  giới thứ hai, khi tình hình thế  giới diễn biến phức 
tạp, thế  giới chia thành hai phe, Hồ  Chí Minh vẫn cố  gắng tìm cách mở  rộng  
quan hệ  với các nước để  vừa tận dụng sự   ủng hộ, giúp đỡ  của các nước bạn 
cho sự  nghiệp xây dựng CNXH  ở  miền Bắc đồng thời để  xây dựng mặt trận  
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. 
        Hồ Chí Minh có cách xử lý riêng với từng đối tác tùy theo vị trí địa lý, quan  
hệ chính trị, lịch sử giữa Việt Nam với các đối tác, để từ  đó vạch ra chính sách  
đối ngoại làm cơ sở co việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 470
6


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

          Trong bài phát biểu chúc mừng năm mới nhân dịp lễ  mừng Trung  ương 
Đảng và Chính phủ về thủ đô, Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương châm quan hệ của 
nước ta với các nước bạn bè XHCN, với các nước trong bán đảo Đông Dương, 
với các nước Đông Nam Á, với nước Pháp và các nước trong hệ thống TBCN:
        “Chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn. Chung ta sẽ dựa  
theo 5 nguyên tắc lớn của bản tuyên bố  Trung ­    Ấn và Trung – Miến (nay là  
Mianma) để gây quan hệ hữu hảo với hai chính phủ nhà vua Miến và Lào. phát  
triển quan hệ hữu hảo với các nước Đông – Nam Á.
        Đối với nước Pháp, chúng ta sẽ cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn  

hóa trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên đều có lợi. Chúng ta đoàn kết với nhân  
dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới”6.
         Năm 1946, sau khi nước ta giành được độc lập, trong chuyến thăm nước  
Pháp, người đã nói:  “Đối với nước Pháp, chúng tôi tiếp tục chủ  trương rằng  
trong những điều kiện bình đẳng tuyệt đối và cùng có lợi, trước hết là tin cậy  
lẫn nhau và hợp tác thẳng thắn, chúng tôi có thể  thiết lập những quan hệ đặc  
biệt về kinh tế và văn hóa với nước Pháp”7. 
Với các nước TBCN khác trên thế giới, Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn  

 

mạnh: “Trong quan hệ với các nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân  
chủ  Cộng hòa là rõ ràng và trong sáng: đó là một chính sách hòa bình và quan  
hệ  tốt. Chính sách đó dựa trên 5 nguyên tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bố  
chung Trung ­  Ấn và Trung – Miến, tức là: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ  và chủ  

6

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.7, tr. 430

7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T.8, tr.58­59

7


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ,  

bình dẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hòa bình”8.
Hồ  Chí Minh luôn có quan điểm độc lập dù trong điều kiện Chiến tranh  
lạnh giữa hai phe diễn ra gay gắt, luôn mong muốn Việt Nam có quan hệ  bình  
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, và mong muốn nhờ mối quan hệ, giúp đỡ 
của bên ngoài mà kinh tế, văn hóa Việt Nam có thể được nâng cao.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ 
ĐỐI NGOẠI
1. Nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại
Theo Người, nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại bao gồm bốn nhiệm vụ mang 
tính chiến lược như sau:
Một là, khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm xây dựng và bảo 
vệ Tổ quốc,
Hai là, nhiệm vụ trước mắt phải đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất 
nước, độc lập chủ quyền là vận mệnh số một của quốc gia, nó là mục tiêu bao 
trùm, mục tiêu của mọi mục tiêu,
Ba là, mở cửa kinh tế vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện quan trọng để  phát  
triển kinh tế,
Bốn là, tư  tưởng của người trong việc lựa chọn đối tượng để  mở  rộng 
quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế đó là tất cả các dân tộc trên thế  giới đều là 
bạn, là đối tượng hợp tác kinh tế. 
2. Nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối 
ngoại

8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr. 58

8


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế


Văn Công Vũ 

2.1. Nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc phát triển kinh tế  đối ngoại của  
Việt Nam. Chính sách đối với các nước lớn dựa trên nguyên tắc giữ  vững độc  
lập tự  chủ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích chính đáng của dân  
tộc. Độc lập, tự chủ phải đi đôi với giữ gìn bản sắc dân tộc. 
Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả nguồn 
lực quốc tế chủ yếu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhằm phát huy lợi 
thế, tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là 
độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối  
ngoại đều phải hướng vào mục tiêu đó, tránh tình trạng vì lợi ích kinh tế  trước 
mắt, xa rời mục tiêu dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. 
2.2. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Bác khẳng định là nguyên tắc quan trọng, cơ sở vững chắc duy trì, mối quan 
hệ  giữa các bên.  Bác luôn khẳng định: các nước đều có thể  mở  rộng quan hệ 
hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền lẫn nhau và hợp 
tác cùng có lợi. 
Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ  quan trọng trước hết phải được thể 
hiện ở việc đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị của các bên quan hệ, trước hết là 
lợi ích kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ  bản trong quan hệ  quốc tế. Suy cho cùng  
trong quan hệ  quốc tế các bên tham gia cũng chính là nhằm tới mục tiêu lợi ích 
trước mắt hoặc lâu dài. Tuy nhiên, mục tiêu và phương thức thực hiện không  
giống nhau. 
2.3. Nguyên tắc mềm dẻo, linh hoạt
Người luôn căn dặn: “Phải nắm giữ  nguyên tắc cứng rắn với sách lược 
mềm dẻo”, “lạc mềm nhưng buộc chặt”
Mềm dẻo, linh hoạt trong tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù
9



Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

2.4. Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Trong cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập đều 
có chủ quyền về  chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý. Vì vậy, trong quan hệ  kinh  
tế, các bên quan hệ  phải tôn trọng, đồng thời trên cơ  sở  tôn trọng chủ  quyền 
không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đó cũng chính là yêu 
cầu của nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Đấu tranh cho hòa bình, cùng tồn tại hòa bình trở thành mục tiêu phấn đấu 
của phần lớn các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hòa bình của mỗi quốc gia có  
được trên cơ sở của độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Bác luôn coi trọng chính 
sách đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhưng không rơi vào chủ  nghĩa 
biệt lập, hẹp hòi. 
3. Một số đối tác cần ưu tiên trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Theo quan điểm của Bác, cần  ưu tiên đặt mối quan hệ  kinh tế  đối ngoại 
với một số đối tác đặc biệt như:
+ Ưu tiên thiết lập quan hệ kinh tế đối ngoại với Liên Xô và Trung Quốc
+ Chú trọng thiết lập các quan hệ  kinh tế, thương mại với các nước láng  
giềng
+ Củng cố quan hệ kinh tế với nước Pháp
+ Đối với các nước còn lại trong cộng đồng thế  giới, Bác luôn khẳng định 
muốn giao dịch với tất cả các nước muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật  
thà.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của ngoại lực, thu hút ngoại lực để 
phát huy nội lực, coi nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng
Người khẳng định, độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia không tách rời với  
hợp tác kinh tế  quốc tế. Hợp tác quốc tế  để  tranh thủ  nguồn vốn, khoa học,  

công nghệ, thị trường nhằm phát triển kinh tế. Phát huy sức mạnh nội lực, tăng  
cường sự hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích chung của mỗi dân tộc.
10


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Bác Hồ tiếp Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông

­  Hồ  Chí Minh kiên trì quan điểm mở  rộng quan hệ  với các nước XHCN,  
với các nước láng giềng và các nước có chế độ chính trị khác nhau.
 ­ Mục đích: nhằm góp phần duy trì sự   ổn định trong khu vực và trên thế 
giới để  nhân dân ta được sống trong không khí hòa bình, tự  do và  thu hút mọi 
nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân ta. 
Trên báo Cứu quốc ngày 23/10/1945, Hồ  Chí Minh đã nói rõ mục tiêu này: 
“Có thể  rằng: chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư  bản vào  
xứ  ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác, chúng ta sẽ  mời  
những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay tàu, đến đây giúp việc cho  
chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”9. 
9

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.74
11


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 


­ Tuy nhiên, mục tiêu cơ  bản của việc mở  rộng quan hệ  kinh tế  với các  
nước chính là để  có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt Nam. Đó là  
quan điểm thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người. Đó là vì:
Một là, tư  tưởng chủ  đạo của Hồ  Chí Minh là tư  tưởng tự  lực cánh sinh 
dựa vào sức mình là chính. Theo Bác, phát huy sức mạnh dân tộc, coi đó là nguồn 
lực nội sinh, giữ vai trò quyết định
Báo cáo về  kết quả  chuyến đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ  Chủ 
tịch Hồ  Chí Minh nói rõ thêm:  “Cũng như  trong thời kỳ  kháng chiến, phương  
châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là  
phụ”10.
Hai là,  Người cho rằng vì sự  giúp đỡ  của bạn dù có vô tư  và to lớn bao  
nhiêu cũng chỉ có hạn. 
“Sự giúp đỡ  của các nước bạn chỉ có hạn. Căn bản là ta phải tự lực cánh  
sinh, cố gắng sản xuất”11
III.   QUÁN   TRIỆT   TƯ   TƯỞNG   HỒ   CHÍ   MINH   TRONG   PHÁT   TRIỂN  
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
        Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, cần chú ý các  
vấn đề sau đây:
1. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại nói chung với 
chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng
Đây là mối quan hệ  biện chứng giữa chính trị  và kinh tế, do vậy, chúng ta 
phải làm sao có sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với xây dựng kinh tế của đất  
nước. Ưu tiên và chú trọng giải quyết quan hệ đối ngoại làm cơ sở cho quan hệ 
kinh tế đối ngoại.
10

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr. 30

11


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr.297
12


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Người chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại theo thứ tự ưu tiên sau đây:
        ­ Trước hết là các nước XHCN anh em (khi còn phe XHCN).
­ Sau đó là quan hệ  với lào và Campuchia, những nước láng giềng gần gũi  
cùng trong bán đảo Đông Dương, có nhiều gắn bó quan hệ từ lâu.
­ Thứ ba là quan hệ với các nước có vị trí địa lý gần gũi và có điều kiện gần  
giống Việt Nam (cả về  kinh tế và về  chính trị  ­ mới thoát khỏi ách áp bức của  
chủ nghĩa thực dân) ở khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia.
­ Cuối cùng là các nước dân chủ  khác, trong đó Người đặc biệt chú ý đến  
quan hệ Việt – Pháp xuất phát từ quan hệ lịch sử lâu đời, đặc biệt giữa hai quốc  
gia.
Điều  cần  rút ra  ở  đây là chúng ta cần quán triệt quan điểm mở  rộng cửa  
hữu nghị để cùng các bạn làm ăn trên tinh thần tin cậy lẫn nhau, hai bên cùng có 
lợi mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ rất sớm và rất kiên trì theo đuổi trong suốt cuộc 
đời của Người.
Đường lối đối ngoại là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng đường lối kinh tế 
đối ngoại.  Mối quan hệ  giữa đường lối đối ngoại và đường lối kinh tế  đối  
ngoại là mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế.  Vì thế, chúng ta phải làm sao có 
sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với việc xây dựng kinh tế của đất nước. 
Thấm nhuần tư  tưởng của Hồ  Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần  
thứ X của Đảng đã nêu: 
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ, hòa bình, hợp  

tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa  
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế… Việt Nam  
là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…”12.

12 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, tr.112

13


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

"Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và  
các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ  quyền và toàn vẹn  
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ  của nhau; không dùng vũ lực  
hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết bất đồng và tranh chấp thông qua thương  
lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi." 13
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội 
(bổ  sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối 
đối ngoại độc lập, tự  chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa 
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;… Việt Nam là bạn, 
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần  
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. 
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả  các nước không phân biệt chế  độ 
chính trị  ­ xã hội khác nhau trên cơ  sở  những nguyên tắc cơ  bản của Hiến 
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

2. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để thu hút ngoại lực nhằm phát 
huy nội lực

Mục tiêu cơ  bản nhất của mở  rộng quan hệ  kinh tế  đối ngoại là  thu hút 
ngoại lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân Việt Nam.  
Để thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh, cần giải quyết các việc sau đây:
Một là,  cần tập trung và hoàn thiện môi trường và chuẩn bị  những điều 
kiện kinh tế trong nước cho việc mở cửa nền kinh tế trên các mặt:
­ Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
­ Đào tạo nguồn nhân lực
13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, tr.112 ­ 113
14


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

­ Cải cách hành chính
Hai là, phải tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với hoàn cảnh,  
điều kiện của Việt Nam, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ  là nhân tố  hấp dẫn đầu tư  nước  
ngoài, bời vì các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào kinh doanh không gặp những phiền  
hà, rắc rối, thu được lợi nhuận thỏa đáng và được nhà nước đảm bảo lợi ích 
hợp pháp cho họ. Cùng với việc có một bộ  luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp 
với luật pháp và thông lệ quốc tế, cần cải cách hệ thống hành chính, chống quan 
liêu, tham nhũng… là những việc cấp bách để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
3. Giữ  vững các nguyên tắc mở  rộng và nâng cao hiệu quả  kinh tế  đối  
ngoại
Cần phải giữ vững và tăng cường tính độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị. 
Đó là quan điểm có tính nguyên tắc trong hội nhập quốc tế, trước hết là quyết  

sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó, thắng với  
các thách thức trong hội nhập.
Để  mở  rộng và nâng cao hiệu quả  kinh tế  đối ngoại, Đảng ta đã không 
ngừng quán triệt những nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu 
quả kinh tế đối ngoại, gồm:
­ Nguyên tắc bình đẳng: Để quán triệt nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ 
quốc tế nói chung, quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng yêu cầu phải tiếp tục đấu  
tranh giành quyền bình đẳng thực sự, đồng thời tạo ra những tiền đề  cần thiết  
để duy trì sự bình đẳng đó.
­ Nguyên tắc cùng có lợi:   Phải nâng cao trình độ  hiểu biết về  việc xây 
dựng, ký kết các điều khoản quy định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các 
bên trong các hợp đồng. Chính lợi ích các bên trong quan hệ  được cụ  thể  hóa 
trong các điều khoản đó. 

15


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

­ Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ  
của mỗi quốc gia: Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi bên trong các quan  
hệ phải tôn trọng các điều khoản ký kết, không đưa ra những điều kiện phương 
hại đến lợi ích của nhau, không được dùng các biện pháp có tính chất can thiệp  
vào nội bộ  của các quốc gia, đặc biệt là không dùng các thủ  đoạn kinh tế, kỹ 
thuật, kích động, can thiệp vào đường lối chính trị  của các quốc gia, tôn trọng  
quyền tự lựa chọn con đường phát triển của các quốc gia. 
­ Nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN: mọi thành tựu 
đạt được đều phải phục vụ  nhân dân, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, 

phải điều tiêt thu nhập giữa các lĩnh vực, các vùng. Trong điều kiện toàn cầu hóa 
đang được đẩy mạnh, việc chủ  động hội nhập tranh thủ  các nguồn lực bên 
ngoài là hết sức cần thiết, song cần phải đề cao việc vừa hợp tác, vừa đấu tranh 
để đảm bảo lợi ích chính đáng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Một số  giải pháp chủ  yếu nhằm mở  rộng, nâng cao hiệu quả  kinh tế  đối 
ngoại:

16


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XàHỘI Ở NƯỚC TA
1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại qua các kỳ Đại 
hội của Đảng
Quá trình đổi mới, đồng thời là quá trình từng bước vận dụng tư tưởng kinh 
tế Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Đảng ta thông qua các kỳ 
Đại hội Đảng
1.1. Đại hội lần thứ VI của Đảng
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định:
“Nhiệm vụ  ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng  
như  sự  nghiệp phát triển khoa học ­ kỹ  thuật và công nghiệp hoá xã hội chủ 
nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan  
trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”14
Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta  
phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ  yếu là mở  rộng 
quan hệ  phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các  

nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan 
hệ kinh tế và khoa học ­ kỹ  thuật với các nước thế  giới thứ  ba, các nước công 
nghiệp phát triển, các tổ  chức quốc tế  và tư  nhân nước ngoài trên nguyên tắc 
bình đẳng, cùng có lợi.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI

17


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Trong toàn bộ  công tác kinh tế  đối ngoại, khâu quan trọng nhất là đẩy  
mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
1.2. Đại hội lần thứ VII của Đảng
Đại hội lần thứ  VII của Đảng đã nêu rõ phương hướng phát triển kinh tế 
đối ngoại:
“Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ 
chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có  
lợi. Củng cố  và tăng cường vị  trí  ở  các thị  trường quen thuộc và với các bạn 
hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát 
triển các quan hệ mới”15
Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động 
tiềm năng của nền kinh tế, phát huy lợi thế  so sánh, vừa đáp  ứng tốt nhu cầu  
sản xuất và đời sống trong nước, vừa hướng mạnh về xuất khẩu. Tiếp tục coi  
trọng các thị trường truyền thống, đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị  trường 
mới, mở rộng thị trường khu vực. Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ 
trọng các mặt hàng chế  biến, giảm tỷ  trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các 

sản phẩm xuất khẩu chủ  lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ  sản. Sớm tạo được  
một số mặt hàng gia công, lắp ráp, chế biến có công nghệ hiện đại, có sức cạnh 
tranh trong xuất khẩu. Phát triển du lịch, vận tải hàng không, thông tin, bưu điện 
quốc tế và các hoạt động dịch vụ  thu ngoại tệ khác. Mở  rộng hợp tác lao động 
và chuyên gia. Phát triển hợp tác quốc tế  trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, 
bảo hiểm. Có chính sách thu hút tư  bản nước ngoài đầu tư  vào nước ta, trước  
hết vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức.
15 Đảng công sản Việt Nam (1991) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.: CTQG, Hà Nội, 2007, tập 

51 (6­12.1991), tr182.
18


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

1.3. Đại hội lần thứ VIII của Đảng
Đại hội lần thứ  VIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của 
kinh tế đối ngoại:
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ, rộng mở, đa  
phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn  
là bạn của tất cả nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập  
và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các  
tổ  chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ  quyền, toàn  
vẹn lãnh thổ  của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ  của nhau, bình  
đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương  
lượng”16 .
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, bằng cách:
Một là,  đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng  ưu tiên và là trọng  

điểm của kinh tế  đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ  lực. Nâng  
sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô  
và sơ  chế, tăng tỉ  trọng sản phẩm chế  biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. 
Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị 
hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản  
xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có 
chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Hai là, điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập  
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác.

16 Đảng công sản Việt Nam (1996) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Tr.120, 

121

19


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Ba là, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các 
tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.
Bốn là,  việc sử  dụng vốn vay và thu hút vốn đầu tư  trực tiếp của nước 
ngoài phải theo quy hoạch và kế  hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, bảo 
đảm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng
Đại hội lần thứ IX của Đảng quán triệt:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ, rộng mở, đa  
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối 

tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập  
và phát triển.
Nhiệm vụ  đối ngoại  là tiếp tục giữ  vững môi trường hoà bình và tạo các 
điều kiện quốc tế  thuận lợi  để  đẩy mạnh phát triển kinh tế  ­ xã hội, công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc 
lập và chủ  quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh 
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã  
hội
Chủ  động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối 
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định  
hướng xã hội chủ  nghĩa, bảo vệ  lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ  gìn bản  
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ  môi trường. Chính phủ  cùng các bộ, ngành và các  
doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế  hoạch hội nhập kinh tế 
quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ 
động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ 

20


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ­ xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật  
pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”17
1.5. Đại hội lần thứ X của Đảng
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X, Đảng ta khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ, hoà bình, hợp  
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá  
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời  

mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy  
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác  
quốc tế và khu vực”18.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế  đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ  hơn 
với các thể chế  kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ  lợi ích 
đất nước làm mục tiêu cao nhất.
1.6. Đại hội lần thứ XI của Đảng
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự  chủ, hoà bình, hợp  
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội 
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng 
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà  
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc 
độc lập, chủ  quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị  thế  của đất  

17 Đảng công sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

18 Đảng công sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.tr112

21


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân  
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ 
quốc tế vào chiều sâu trên cơ  sở  giữ  vững độc lập, tự  chủ, phát huy tối đa nội  

lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác  
động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và 
đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ  chế  hợp tác quốc tế, các 
nguồn lực về  vốn, khoa học – công nghệ, trình độ  quản lý tiên tiến. Tham gia  
các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc 
gia trên cơ  sở  tôn trọng các nguyên tắc cơ  bản của luật pháp quốc tế, Hiến 
chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ  chức quốc tế, đặc  
biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ  chức khu vực và  
quốc tế  trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và  
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức 
quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên 
quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc 
nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ  quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh  
quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”19
1.7. Đại hội lần thứ XII của Đảng
Gần đây nhất, Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh:
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia ­ dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc  
cơ  bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán  
đường lối đối ngoại độc lập, tự  chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng  
hóa, đa phương hóa trong quan hệ  đối ngoại; chủ  động và tích cực hội nhập  
19 Đảng công sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
22


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng  
quốc tế. Trên cơ  sở  vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm  

phục vụ  mục tiêu giữ  vưng môi trường hòa bình,  ổn định, tranh thủ  tối đa các  
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân…”20
2. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập 
kinh tế quốc tế
Để việc học tập, quán triệt và đặc biệt là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh  
trong chính sách đối ngoại trong lĩnh vực kinh tế  nói chung,  ở  đây là phương 
diện kinh tế  đối ngoại nói riêng một cách hiệu quả, cần chú ý một số  vấn đề 
chính sau:
Thứ  nhất, xác định đúng mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và chính  
sách kinh tế đối ngoại.
Chính sách đối ngoại đúng đắn, rõ ràng là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng  
chính sách kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Trên thực tế, chủ trương và thực hiện 
đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế,  
trước hết là về kinh tế, nhằm tranh thủ cao độ  ngoại lực để phát huy tối đa nội  
lực. Hai vấn đề này bổ sung cho nhau một cách biện chứng. Trong bối cảnh mới  
hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh  
mẽ, đan xen lẫn nhau, vừa có điều kiện thuận lợi, nhưng cũng vừa có nhiều mặt 
phức tạp, nên đòi hỏi cả hai mặt chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại  
của Việt Nam phải được gắn chặt và xử  lý một cách linh hoạt hơn nữa trên cơ 
sở  giữ  vững định hướng xã hội chủ  nghĩa. Những thắng lợi về  chính trị  trong 
chính sách đối ngoại sẽ  tạo cho chúng ta có tiếng nói riêng trên trường quốc tế 
và những thành quả đó suy cho cùng là để mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút các 
nguồn lực từ  bên ngoài, khai thác lợi thế  so sánh của Việt Nam nhằm phục vụ 
20 Đảng công sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 153

23


Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế


Văn Công Vũ 

sự phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói, việc xây dựng một chính sách đối 
ngoại đúng đắn, kết hợp hài hòa được cả  hai mặt chính trị  và kinh tế  sẽ  giúp 
Việt Nam khai thác tối đa được tiềm năng của đất nước, góp phần sớm hoàn 
thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 như Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra.
Thứ hai, hoạt động đối ngoại có vai trò quan trọng phục vụ mục tiêu phát  
triển kinh tế.
Nghị quyết số  07/NQ­TW của Bộ Chính trị  (khóa IX) Về hội nhập kinh tế  
quốc tế chỉ rõ: Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục  
vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng  
đầu. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế cần được hiểu theo nghĩa 
rộng, tức là phát huy những thế mạnh riêng của toàn ngành đối ngoại vào công 
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế   ở  Việt Nam. Đối ngoại phục vụ  kinh tế  có 
nghĩa là định hướng hoạt động đối ngoại vào việc khai thác triệt để  những  
thuận lợi và điều kiện từ  các mối quan hệ  quốc tế  để  làm lợi cho công cuộc 
phát triển kinh tế của đất nước.
Vì thế, hoạt động đối ngoại cần quan tâm tới mặt hiệu quả  kinh tế và coi  
đây vừa là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của toàn 
ngành ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. Phải lấy kết quả  thiết thực trong  
việc phục vụ phát triển kinh tế làm thước đo và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả 
của hoạt động đối ngoại. Đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế thể hiện ở việc 
tranh thủ mọi nguồn ngoại lực cho quốc gia. Đây có thể được coi là một nhiệm 
vụ  mới, rất quan trọng và nặng nề  đặt ra đối với ngành đối ngoại Việt Nam. 
Mọi hoạt động đối ngoại cần phải nhằm phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế nhanh và vững chắc. 
Hoạt động đối ngoại phải không ngừng quảng bá, cải thiện hình ảnh, vị thế của 
24



Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Văn Công Vũ 

Việt Nam trên trường quốc tế, nhằm thu hút đầu tư  nước ngoài vào Việt Nam;  
bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động có hiệu quả thiết thực trong các cơ 
chế, diễn đàn đa phương và song phương nhằm tìm kiếm đối tác và thị  trường  
xuất khẩu, làm tốt vai trò trung gian, môi giới và làm cầu nối trong các hoạt 
động kinh tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế  trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ,  
giáo dục. Tìm kiếm và mở  rộng thị  trường cũng là vấn đề  quan trọng, bởi thị 
trường quyết định đến việc tiêu thụ  sản phẩm cho mọi lĩnh vực sản xuất, kinh  
doanh dịch vụ, từ đó quyết định hướng đầu tư, góp phần thúc đẩy sự  phát triển  
của nền kinh tế chung. Để phát triển kinh tế đối ngoại, Việt Nam cần coi trọng  
và mở rộng cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
Thứ ba, đa dạng hóa chính sách kinh tế đối ngoại là để phát huy tiềm năng  
kinh tế của đất nước.
Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc mở rộng quan hệ 
kinh tế với các nước không phải chỉ nhằm nhận sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế 
để  bù đắp sự  thiếu hụt  ở  trong nước, mà chính là thông qua sự  giúp đỡ  đó để 
phát huy những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam. Đó là quan điểm thu hút ngoại 
lực để phát huy nội lực của Người. Phát triển và vận dụng quan điểm đó, Đảng 
ta đã xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế  quốc tế: Chủ  động hội nhập  
kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến 
thức quản lý để  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã 
hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn  
minh.
Vì thế, Việt Nam cần tạo lập, hoàn thiện môi trường để  tạo những điều 
kiện thuận lợi cho việc mở  cửa nền kinh tế trên các lĩnh vực và nhanh chóng 
hình thành đồng bộ  hệ  thống huy động vốn từ  trong nước, cũng như  thu hút và 

sử  dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư  nước ngoài. Nguồn vốn trong nước tạo ra  
25


×