Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
MỤC LỤC
1
Văn Công Vũ
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà hoạt động quốc tế xuất
sắc, chiến sĩ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc, sứ giả của hoà bình
và hữu nghị. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người đã để lại
kho tàng lý luận, tư tưởng cách mạng và khoa học vô giá cho dân tộc Việt Nam.
Trong hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn
ba nhiều nơi trên khắp thế giới, Người đã sống và hoạt động trong phong trào
giải phóng dân tộc và công nhân quốc tế, tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và
qua trải nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng, trong tư tưởng của Người, vấn
đề mở cửa, hội nhập đã sớm hình thành. Đa phương hóa, đa dạng hóa, làm bạn
với tất cả các nước dân chủ và tiến bộ là một tư tưởng xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với thời gian và trước những thử thách khắc nghiệt
của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước suốt mấy chục năm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn giữ vững quan điểm nhất quán, xử lý linh hoạt, đúng đắn mối
quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về kinh tế đối ngoại là
một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người về kinh tế, nó
được hình thành trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân
2
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
tộc, từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin, thông qua quá trình khảo sát thực tiễn trong nước và thế giới.
Những quan điểm đó đã trở thành đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại
về kinh tế của Đảng, được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính
đúng đắn của nó trong cách mạng giải phóng dân tộc và cả trong giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong khuôn khổ môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, học viên thực
hiện tiệu luận với chủ đề: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối
ngoại. Ý nghĩa và định hướng vận dụng”. Thông qua đó, học viên sẽ đi sâu
nghiên cứu, chỉ rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế
đối ngoại và quá trình vận dụng tư tưởng đó của Người trong thực tiễn nước ta.
3
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUAN HỆ ĐỐI
NGOẠI VÀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Theo Bác, thế giới là một khối thống nhất các quốc gia có sự hợp tác, giúp
đỡ lẫn nhau. Muốn giành được độc lập dân tộc, nhất định phải thiết lập những
mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Việt Nam luôn coi trọng vấn đề quan hệ với
các nước, không phân biệt đối tác đó là ai, thiết lập quan hệ đối ngoại, không bỏ
sót bất kỳ ai và phải trên nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau vì lợi ích chung cùng có lợi.
Theo Người, ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau: “chúng tôi sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước”1. Bác luôn xác
định cần thiết phải thiết lập, mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên
cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi.
1 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, tập 10, tr.317
4
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Bác Hồ thăm Liên Xô năm 1955
Tư duy của Bác về chính sách mở cửa, hội nhập đã được hình thành từ rất
sớm. Ngay từ năm 1919, Người đã nhận định: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung
phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các
quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”2.“Là phi lý nếu nghĩ rằng hai
dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn
tại biệt lập đối với nhau”3. Khi trả lời nhà báo Mỹ Standley Harrison, Hồ Chí
Minh đã nói: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn
giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”4.
Tư tưởng chiến lược kinh tế mở được Người đề cập tập trung, đầy đủ và
rõ ràng nhất trong bức thư Người gửi cho Liên hợp quốc tháng 12/1946:
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 910
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 910
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 578
5
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
“…Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
a. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c. Nước Việt Nam chấp thuận tham gia mọi tổ chức h ợp tác kinh tế quốc tế
dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.
… Chính sách mở cửa và hợp tác nói trên, Chính phủ Việt Nam cũng giành
cho nước Pháp trong Hiệp định ngày 6/3/1946. Nhưng những người đại diện
Pháp ở Đông Dương đã tìm cách phá hoại…”5.
Chiến tranh lạnh giữa hai phe sau Chiến tranh thế giới thứ hai không cho
phép Người triển khai những ý tưởng đúng đắn hình thành ở Người từ rất sớm
này. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi tình hình thế giới diễn biến phức
tạp, thế giới chia thành hai phe, Hồ Chí Minh vẫn cố gắng tìm cách mở rộng
quan hệ với các nước để vừa tận dụng sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn
cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc đồng thời để xây dựng mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thống nhất nước nhà.
Hồ Chí Minh có cách xử lý riêng với từng đối tác tùy theo vị trí địa lý, quan
hệ chính trị, lịch sử giữa Việt Nam với các đối tác, để từ đó vạch ra chính sách
đối ngoại làm cơ sở co việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 470
6
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Trong bài phát biểu chúc mừng năm mới nhân dịp lễ mừng Trung ương
Đảng và Chính phủ về thủ đô, Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương châm quan hệ của
nước ta với các nước bạn bè XHCN, với các nước trong bán đảo Đông Dương,
với các nước Đông Nam Á, với nước Pháp và các nước trong hệ thống TBCN:
“Chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn. Chung ta sẽ dựa
theo 5 nguyên tắc lớn của bản tuyên bố Trung Ấn và Trung – Miến (nay là
Mianma) để gây quan hệ hữu hảo với hai chính phủ nhà vua Miến và Lào. phát
triển quan hệ hữu hảo với các nước Đông – Nam Á.
Đối với nước Pháp, chúng ta sẽ cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn
hóa trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên đều có lợi. Chúng ta đoàn kết với nhân
dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới”6.
Năm 1946, sau khi nước ta giành được độc lập, trong chuyến thăm nước
Pháp, người đã nói: “Đối với nước Pháp, chúng tôi tiếp tục chủ trương rằng
trong những điều kiện bình đẳng tuyệt đối và cùng có lợi, trước hết là tin cậy
lẫn nhau và hợp tác thẳng thắn, chúng tôi có thể thiết lập những quan hệ đặc
biệt về kinh tế và văn hóa với nước Pháp”7.
Với các nước TBCN khác trên thế giới, Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn
mạnh: “Trong quan hệ với các nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa là rõ ràng và trong sáng: đó là một chính sách hòa bình và quan
hệ tốt. Chính sách đó dựa trên 5 nguyên tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bố
chung Trung Ấn và Trung – Miến, tức là: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.7, tr. 430
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T.8, tr.5859
7
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ,
bình dẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hòa bình”8.
Hồ Chí Minh luôn có quan điểm độc lập dù trong điều kiện Chiến tranh
lạnh giữa hai phe diễn ra gay gắt, luôn mong muốn Việt Nam có quan hệ bình
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, và mong muốn nhờ mối quan hệ, giúp đỡ
của bên ngoài mà kinh tế, văn hóa Việt Nam có thể được nâng cao.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ
ĐỐI NGOẠI
1. Nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại
Theo Người, nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại bao gồm bốn nhiệm vụ mang
tính chiến lược như sau:
Một là, khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc,
Hai là, nhiệm vụ trước mắt phải đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất
nước, độc lập chủ quyền là vận mệnh số một của quốc gia, nó là mục tiêu bao
trùm, mục tiêu của mọi mục tiêu,
Ba là, mở cửa kinh tế vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện quan trọng để phát
triển kinh tế,
Bốn là, tư tưởng của người trong việc lựa chọn đối tượng để mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế đó là tất cả các dân tộc trên thế giới đều là
bạn, là đối tượng hợp tác kinh tế.
2. Nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại
8 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr. 58
8
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
2.1. Nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của
Việt Nam. Chính sách đối với các nước lớn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc
lập tự chủ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích chính đáng của dân
tộc. Độc lập, tự chủ phải đi đôi với giữ gìn bản sắc dân tộc.
Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả nguồn
lực quốc tế chủ yếu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhằm phát huy lợi
thế, tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối
ngoại đều phải hướng vào mục tiêu đó, tránh tình trạng vì lợi ích kinh tế trước
mắt, xa rời mục tiêu dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Bác khẳng định là nguyên tắc quan trọng, cơ sở vững chắc duy trì, mối quan
hệ giữa các bên. Bác luôn khẳng định: các nước đều có thể mở rộng quan hệ
hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền lẫn nhau và hợp
tác cùng có lợi.
Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quan trọng trước hết phải được thể
hiện ở việc đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị của các bên quan hệ, trước hết là
lợi ích kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế. Suy cho cùng
trong quan hệ quốc tế các bên tham gia cũng chính là nhằm tới mục tiêu lợi ích
trước mắt hoặc lâu dài. Tuy nhiên, mục tiêu và phương thức thực hiện không
giống nhau.
2.3. Nguyên tắc mềm dẻo, linh hoạt
Người luôn căn dặn: “Phải nắm giữ nguyên tắc cứng rắn với sách lược
mềm dẻo”, “lạc mềm nhưng buộc chặt”
Mềm dẻo, linh hoạt trong tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù
9
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
2.4. Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Trong cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập đều
có chủ quyền về chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý. Vì vậy, trong quan hệ kinh
tế, các bên quan hệ phải tôn trọng, đồng thời trên cơ sở tôn trọng chủ quyền
không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đó cũng chính là yêu
cầu của nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Đấu tranh cho hòa bình, cùng tồn tại hòa bình trở thành mục tiêu phấn đấu
của phần lớn các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hòa bình của mỗi quốc gia có
được trên cơ sở của độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Bác luôn coi trọng chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhưng không rơi vào chủ nghĩa
biệt lập, hẹp hòi.
3. Một số đối tác cần ưu tiên trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Theo quan điểm của Bác, cần ưu tiên đặt mối quan hệ kinh tế đối ngoại
với một số đối tác đặc biệt như:
+ Ưu tiên thiết lập quan hệ kinh tế đối ngoại với Liên Xô và Trung Quốc
+ Chú trọng thiết lập các quan hệ kinh tế, thương mại với các nước láng
giềng
+ Củng cố quan hệ kinh tế với nước Pháp
+ Đối với các nước còn lại trong cộng đồng thế giới, Bác luôn khẳng định
muốn giao dịch với tất cả các nước muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật
thà.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của ngoại lực, thu hút ngoại lực để
phát huy nội lực, coi nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng
Người khẳng định, độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia không tách rời với
hợp tác kinh tế quốc tế. Hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, khoa học,
công nghệ, thị trường nhằm phát triển kinh tế. Phát huy sức mạnh nội lực, tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích chung của mỗi dân tộc.
10
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Bác Hồ tiếp Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông
Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm mở rộng quan hệ với các nước XHCN,
với các nước láng giềng và các nước có chế độ chính trị khác nhau.
Mục đích: nhằm góp phần duy trì sự ổn định trong khu vực và trên thế
giới để nhân dân ta được sống trong không khí hòa bình, tự do và thu hút mọi
nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân ta.
Trên báo Cứu quốc ngày 23/10/1945, Hồ Chí Minh đã nói rõ mục tiêu này:
“Có thể rằng: chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào
xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác, chúng ta sẽ mời
những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay tàu, đến đây giúp việc cho
chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”9.
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.74
11
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của việc mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước chính là để có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt Nam. Đó là
quan điểm thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người. Đó là vì:
Một là, tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh là tư tưởng tự lực cánh sinh
dựa vào sức mình là chính. Theo Bác, phát huy sức mạnh dân tộc, coi đó là nguồn
lực nội sinh, giữ vai trò quyết định
Báo cáo về kết quả chuyến đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói rõ thêm: “Cũng như trong thời kỳ kháng chiến, phương
châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là
phụ”10.
Hai là, Người cho rằng vì sự giúp đỡ của bạn dù có vô tư và to lớn bao
nhiêu cũng chỉ có hạn.
“Sự giúp đỡ của các nước bạn chỉ có hạn. Căn bản là ta phải tự lực cánh
sinh, cố gắng sản xuất”11
III. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, cần chú ý các
vấn đề sau đây:
1. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại nói chung với
chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế, do vậy, chúng ta
phải làm sao có sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với xây dựng kinh tế của đất
nước. Ưu tiên và chú trọng giải quyết quan hệ đối ngoại làm cơ sở cho quan hệ
kinh tế đối ngoại.
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr. 30
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr.297
12
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Người chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại theo thứ tự ưu tiên sau đây:
Trước hết là các nước XHCN anh em (khi còn phe XHCN).
Sau đó là quan hệ với lào và Campuchia, những nước láng giềng gần gũi
cùng trong bán đảo Đông Dương, có nhiều gắn bó quan hệ từ lâu.
Thứ ba là quan hệ với các nước có vị trí địa lý gần gũi và có điều kiện gần
giống Việt Nam (cả về kinh tế và về chính trị mới thoát khỏi ách áp bức của
chủ nghĩa thực dân) ở khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia.
Cuối cùng là các nước dân chủ khác, trong đó Người đặc biệt chú ý đến
quan hệ Việt – Pháp xuất phát từ quan hệ lịch sử lâu đời, đặc biệt giữa hai quốc
gia.
Điều cần rút ra ở đây là chúng ta cần quán triệt quan điểm mở rộng cửa
hữu nghị để cùng các bạn làm ăn trên tinh thần tin cậy lẫn nhau, hai bên cùng có
lợi mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ rất sớm và rất kiên trì theo đuổi trong suốt cuộc
đời của Người.
Đường lối đối ngoại là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng đường lối kinh tế
đối ngoại. Mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại và đường lối kinh tế đối
ngoại là mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế. Vì thế, chúng ta phải làm sao có
sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với việc xây dựng kinh tế của đất nước.
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng đã nêu:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế… Việt Nam
là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…”12.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, tr.112
13
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
"Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và
các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết bất đồng và tranh chấp thông qua thương
lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi." 13
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;… Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
2. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để thu hút ngoại lực nhằm phát
huy nội lực
Mục tiêu cơ bản nhất của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là thu hút
ngoại lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh, cần giải quyết các việc sau đây:
Một là, cần tập trung và hoàn thiện môi trường và chuẩn bị những điều
kiện kinh tế trong nước cho việc mở cửa nền kinh tế trên các mặt:
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
Đào tạo nguồn nhân lực
13
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, tr.112 113
14
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Cải cách hành chính
Hai là, phải tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện của Việt Nam, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ là nhân tố hấp dẫn đầu tư nước
ngoài, bời vì các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào kinh doanh không gặp những phiền
hà, rắc rối, thu được lợi nhuận thỏa đáng và được nhà nước đảm bảo lợi ích
hợp pháp cho họ. Cùng với việc có một bộ luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp
với luật pháp và thông lệ quốc tế, cần cải cách hệ thống hành chính, chống quan
liêu, tham nhũng… là những việc cấp bách để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
3. Giữ vững các nguyên tắc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại
Cần phải giữ vững và tăng cường tính độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị.
Đó là quan điểm có tính nguyên tắc trong hội nhập quốc tế, trước hết là quyết
sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó, thắng với
các thách thức trong hội nhập.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Đảng ta đã không
ngừng quán triệt những nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại, gồm:
Nguyên tắc bình đẳng: Để quán triệt nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ
quốc tế nói chung, quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng yêu cầu phải tiếp tục đấu
tranh giành quyền bình đẳng thực sự, đồng thời tạo ra những tiền đề cần thiết
để duy trì sự bình đẳng đó.
Nguyên tắc cùng có lợi: Phải nâng cao trình độ hiểu biết về việc xây
dựng, ký kết các điều khoản quy định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các
bên trong các hợp đồng. Chính lợi ích các bên trong quan hệ được cụ thể hóa
trong các điều khoản đó.
15
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ
của mỗi quốc gia: Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi bên trong các quan
hệ phải tôn trọng các điều khoản ký kết, không đưa ra những điều kiện phương
hại đến lợi ích của nhau, không được dùng các biện pháp có tính chất can thiệp
vào nội bộ của các quốc gia, đặc biệt là không dùng các thủ đoạn kinh tế, kỹ
thuật, kích động, can thiệp vào đường lối chính trị của các quốc gia, tôn trọng
quyền tự lựa chọn con đường phát triển của các quốc gia.
Nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN: mọi thành tựu
đạt được đều phải phục vụ nhân dân, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phải điều tiêt thu nhập giữa các lĩnh vực, các vùng. Trong điều kiện toàn cầu hóa
đang được đẩy mạnh, việc chủ động hội nhập tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài là hết sức cần thiết, song cần phải đề cao việc vừa hợp tác, vừa đấu tranh
để đảm bảo lợi ích chính đáng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại:
16
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại qua các kỳ Đại
hội của Đảng
Quá trình đổi mới, đồng thời là quá trình từng bước vận dụng tư tưởng kinh
tế Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Đảng ta thông qua các kỳ
Đại hội Đảng
1.1. Đại hội lần thứ VI của Đảng
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định:
“Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng
như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan
trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”14
Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta
phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là mở rộng
quan hệ phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các
nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan
hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công
nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
17
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trọng nhất là đẩy
mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
1.2. Đại hội lần thứ VII của Đảng
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã nêu rõ phương hướng phát triển kinh tế
đối ngoại:
“Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ
chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có
lợi. Củng cố và tăng cường vị trí ở các thị trường quen thuộc và với các bạn
hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát
triển các quan hệ mới”15
Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động
tiềm năng của nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, vừa đáp ứng tốt nhu cầu
sản xuất và đời sống trong nước, vừa hướng mạnh về xuất khẩu. Tiếp tục coi
trọng các thị trường truyền thống, đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị trường
mới, mở rộng thị trường khu vực. Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ
trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các
sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ sản. Sớm tạo được
một số mặt hàng gia công, lắp ráp, chế biến có công nghệ hiện đại, có sức cạnh
tranh trong xuất khẩu. Phát triển du lịch, vận tải hàng không, thông tin, bưu điện
quốc tế và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. Mở rộng hợp tác lao động
và chuyên gia. Phát triển hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm. Có chính sách thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước
hết vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức.
15 Đảng công sản Việt Nam (1991) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.: CTQG, Hà Nội, 2007, tập
51 (612.1991), tr182.
18
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
1.3. Đại hội lần thứ VIII của Đảng
Đại hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của
kinh tế đối ngoại:
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn
là bạn của tất cả nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các
tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương
lượng”16 .
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, bằng cách:
Một là, đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng
điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng
sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô
và sơ chế, tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu.
Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị
hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản
xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có
chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Hai là, điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác.
16 Đảng công sản Việt Nam (1996) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Tr.120,
121
19
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Ba là, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các
tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.
Bốn là, việc sử dụng vốn vay và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài phải theo quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, bảo
đảm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng
Đại hội lần thứ IX của Đảng quán triệt:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển.
Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc
lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành và các
doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế
quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ
động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ
20
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật
pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”17
1.5. Đại hội lần thứ X của Đảng
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X, Đảng ta khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”18.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích
đất nước làm mục tiêu cao nhất.
1.6. Đại hội lần thứ XI của Đảng
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất
17 Đảng công sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
18 Đảng công sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.tr112
21
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội
lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và
đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các
nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. Tham gia
các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc
gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến
chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và
quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và
nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên
quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc
nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh
quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”19
1.7. Đại hội lần thứ XII của Đảng
Gần đây nhất, Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh:
“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập
19 Đảng công sản Việt Nam (2011) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
22
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm
phục vụ mục tiêu giữ vưng môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân…”20
2. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế
Để việc học tập, quán triệt và đặc biệt là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong chính sách đối ngoại trong lĩnh vực kinh tế nói chung, ở đây là phương
diện kinh tế đối ngoại nói riêng một cách hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề
chính sau:
Thứ nhất, xác định đúng mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và chính
sách kinh tế đối ngoại.
Chính sách đối ngoại đúng đắn, rõ ràng là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng
chính sách kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Trên thực tế, chủ trương và thực hiện
đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế,
trước hết là về kinh tế, nhằm tranh thủ cao độ ngoại lực để phát huy tối đa nội
lực. Hai vấn đề này bổ sung cho nhau một cách biện chứng. Trong bối cảnh mới
hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, đan xen lẫn nhau, vừa có điều kiện thuận lợi, nhưng cũng vừa có nhiều mặt
phức tạp, nên đòi hỏi cả hai mặt chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam phải được gắn chặt và xử lý một cách linh hoạt hơn nữa trên cơ
sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thắng lợi về chính trị trong
chính sách đối ngoại sẽ tạo cho chúng ta có tiếng nói riêng trên trường quốc tế
và những thành quả đó suy cho cùng là để mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam nhằm phục vụ
20 Đảng công sản Việt Nam (2016) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr. 153
23
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
sự phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói, việc xây dựng một chính sách đối
ngoại đúng đắn, kết hợp hài hòa được cả hai mặt chính trị và kinh tế sẽ giúp
Việt Nam khai thác tối đa được tiềm năng của đất nước, góp phần sớm hoàn
thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 như Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra.
Thứ hai, hoạt động đối ngoại có vai trò quan trọng phục vụ mục tiêu phát
triển kinh tế.
Nghị quyết số 07/NQTW của Bộ Chính trị (khóa IX) Về hội nhập kinh tế
quốc tế chỉ rõ: Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục
vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng
đầu. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế cần được hiểu theo nghĩa
rộng, tức là phát huy những thế mạnh riêng của toàn ngành đối ngoại vào công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đối ngoại phục vụ kinh tế có
nghĩa là định hướng hoạt động đối ngoại vào việc khai thác triệt để những
thuận lợi và điều kiện từ các mối quan hệ quốc tế để làm lợi cho công cuộc
phát triển kinh tế của đất nước.
Vì thế, hoạt động đối ngoại cần quan tâm tới mặt hiệu quả kinh tế và coi
đây vừa là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của toàn
ngành ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. Phải lấy kết quả thiết thực trong
việc phục vụ phát triển kinh tế làm thước đo và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả
của hoạt động đối ngoại. Đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế thể hiện ở việc
tranh thủ mọi nguồn ngoại lực cho quốc gia. Đây có thể được coi là một nhiệm
vụ mới, rất quan trọng và nặng nề đặt ra đối với ngành đối ngoại Việt Nam.
Mọi hoạt động đối ngoại cần phải nhằm phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế nhanh và vững chắc.
Hoạt động đối ngoại phải không ngừng quảng bá, cải thiện hình ảnh, vị thế của
24
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế
Văn Công Vũ
Việt Nam trên trường quốc tế, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam;
bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động có hiệu quả thiết thực trong các cơ
chế, diễn đàn đa phương và song phương nhằm tìm kiếm đối tác và thị trường
xuất khẩu, làm tốt vai trò trung gian, môi giới và làm cầu nối trong các hoạt
động kinh tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ,
giáo dục. Tìm kiếm và mở rộng thị trường cũng là vấn đề quan trọng, bởi thị
trường quyết định đến việc tiêu thụ sản phẩm cho mọi lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh dịch vụ, từ đó quyết định hướng đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế chung. Để phát triển kinh tế đối ngoại, Việt Nam cần coi trọng
và mở rộng cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
Thứ ba, đa dạng hóa chính sách kinh tế đối ngoại là để phát huy tiềm năng
kinh tế của đất nước.
Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước không phải chỉ nhằm nhận sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế
để bù đắp sự thiếu hụt ở trong nước, mà chính là thông qua sự giúp đỡ đó để
phát huy những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam. Đó là quan điểm thu hút ngoại
lực để phát huy nội lực của Người. Phát triển và vận dụng quan điểm đó, Đảng
ta đã xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến
thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Vì thế, Việt Nam cần tạo lập, hoàn thiện môi trường để tạo những điều
kiện thuận lợi cho việc mở cửa nền kinh tế trên các lĩnh vực và nhanh chóng
hình thành đồng bộ hệ thống huy động vốn từ trong nước, cũng như thu hút và
sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn trong nước tạo ra
25