Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN phương pháp dạy học phân hoá trong môn ngữ văn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.45 KB, 12 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lí luận:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đang được quan tâm và
bàn luận sôi nổi trên lĩnh vực giáo dục trong những năm gần đây. Đội ngũ
đông đảo các nhà nghiên cứu, nhà giáo có tâm huyết đã nỗ lực tìm tòi, sáng
tạo, vận dụng để tìm ra những phương pháp dạy học tối ưu góp phần đưa nền
giáo dục nước nhà ngày càng hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng
cao của nhân dân.
Nghị quyết Trung Ương 2 khoá VIII đã xác định : “Phải đổi mới
phương pháp giáo dục- đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học…”
Luật Giáo dục , điều 24.2 cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp
tự học, tự rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Để thực hiện được những mục tiêu đó, chương trình sách giáo khoa
THCS đã có sự đổi mới tích cực. Trong đó , môn Ngữ Văn là môn học có
nhiều sự thay đổi nhất. Sự thay đổi đó thể hiện ở nguyên tắc tích hợp và tích
cực, góp phần hình thành và rèn luyện bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc viết, tạo cơ
sở, nền tảng cho năng lực phân tích , bình giá và cảm thụ tác phẩm văn học.
Việc sắp xếp nội dung chương trình trên cơ sở trục đồng quy, đồng tâm giúp
học sinh kế thừa và nâng cao hệ thống kĩ năng và tri thức phù hợp với sợ phát
triển tâm sinh lí lứa tuổi, lớp học , bậc học…
2. Cơ sở thực tiễn:

1



Qua thực tế giảng dạy ở các trường THCS tôi nhận thấy giữa học sinh
của một lớp, giữa các lớp trong một khối luôn có sự chênh lệch về trình độ và
khả
năng nhận thức. Có học sinh nhận thức nhanh , tiếp thu tốt lượng kiến thức
của bài học, có khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đó vào làm bài tập.
Song cũng có những học sinh tiếp thu chậm bài học, chưa có nhiều khả năng
vận dụng kiến thức của bài. Vậy làm thế nào để vừa đảm bảo được mục tiêu
chung của bài học , tiết học, vừa tạo điều kiện cho những em có năng lực
được khám phá thêm kiến thức sâu rộng hơn không nhàm chán trong tiết
họcmà những em tiếp thu chậm cũng nắm được kiến thức cơ bản lại không có
cảm giác quá tải. Đây là vấn đề khó mà không chỉ riêng tôi, nhiều đồng
nghiệp khác có tâm huyết với nghề, với học trò không khỏi băn khoăn, trăn
trở.
Vì vậy, tôi xin mạnh dạn đưa ra “Phương pháp dạy học phân hoá trong
môn Ngữ Văn ở trường THCS” để cùng trao đổi với các đồng nghiệp để
cùng thực hiện có hiệu quả chương trình và phương pháp dạy học đổi mới
II. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu , tôi đã sử dụng
một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết .
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thăm dò, phân tích kết quả điều tra.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
III. Đối tượng nghiên cứu:

2


- Do điều kiện thời gian có hạn , tôi chỉ tập trung nghiên cứu 2 khối lớp

8,9.
- Các khối lớp khác cũng có thể áp dụng.

B .GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Dạy học phân hoá xuất phát từ sự thống nhất và phân hoá, từ đảm bảo
thực hiện tốt các mục tiêu dạy học đối với tất cả mọi học sinh, đồng thời
khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân học sinh.
I. Yêu cầu chung
Dạy học phân hoá thực chất là kết hợp giữa giáo dục đại trà với giáo dục
mũi nhọn , giữa “phổ cập” với “nâng cao”. Đây là một yêu cầu sát với điều
kiện thực tế dạy học trong các trường phổ thông . Khi thực hiện cần đảm bảo
được những yêu cầu sau:
1)Phải lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền
tảng:
Nghĩa là việc dạy học phải lấy trình độ phát triển chung của học sinh
trong lớp làm nền tảng . Nội dung và phương pháp dạy học phải đảm bảo phù
hợp với trình độ của học sinh trong lớp. Mục tiêu của tiết học phải được hoàn
thành.
2)Sử dụng biện pháp phân hoá đưa học sinh yếu kém lên trình độ
chung.
Quan tâm, bồi dưỡng những học sinh yếu , kém để các em được thực
hiện những công việc và nhiệm vụ phù hợp với khả năng, từng bước để các
em tiến bộ, theo kịp trình độ của cả lớp.
3)Có nội dung bổ sung để học sinh khá giỏi đạt được yêu cầu nâng
cao mà vẫn đảm bảo thực hiện được những yêu cầu cơ bản.
Từ những yêu cầu cơ bản đó, ta có thể thực hiện dạy học phân hoá theo
hai hướng
Một là: Phân hoá nội tại . Tức là phân hoá trong một lớp học thống nhất,
với cùng một kế hoạch học tập, cùng chương trình sách giáo khoa.
Việc phân hoá nội tại xuất phát từ những cơ sở nhơ sau:

- Yêu cầu xã hội với học sinh về cơ bản là như nhau song yêu cầu đó lại
được thực hiện ở những mức độ khác nhau do mỗi học sinh có trình độ phát
triển, nhận thức khác nhau, không đồng đều. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại
Tác động
Tác động
có những xu hướng phát
triển , những năng khiếu riêng.
Quá trình
Nhóm học sinh
Nhóm
học
sinh
- Các học sinh khác nhau có tác
trình dạy
dạyđộng
học khác nhau đối với quá
tích cực
không tích cực
Ngăn
học (được thể hiện qua
sơ trở
đồ sau).
Phát triển
Tác động

Không ảnh hưởng

Nhóm trung gian
3



Vì thế để có thể thực hiện được tốt hoạt động dạy học trong một lớp, một
khối lớp như vậy đòi hỏi giáo viên cần phải có sự phân hoá nội tại, làm cho
tất cả học sinh trong lớp đều được làm việc, đều được đóng góp khả năng của
bản thân để xây dựng thành công bài học chung . Có như vậy , nhóm học sinh
chưa tích cực không còn mặc cảm bị thừa và không gây cản trở quá trình dạy
học trong lớp.
Hai là: Phân hoá về tổ chức . Nghĩa là hình thành các nhóm học sinh
chuyên, ngoại khoá ,… với những hoạt động nằm ngoài chương trình, kế
hoạch nội khoá như tham quan, câu lạc bộ văn học , báo văn, bút nhóm nói
chuyện ngoại khoá với các nhà văn, nhà thơ …
Việc phân hoá tổ chức sẽ tạo điều kiện để mở mang kiến thức nâng cao
năng lực cho học sinh giỏi, hoạc củng cố, bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho
học sinh yếu kém.
- Dạy học phân hoá về tổ chức giúp học sinh có hứng thú học tập, tạo
điều kiện cho việc áp dụng vào thực tế, giúp học sinh có khả năng làm việc
độc lập hoặc hợp tác tập thể, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
II. Những biện pháp thực hiện dạy học phân hoá có thể thực hiện
dạy học phân hoá có thể thực hiện được trong môn Ngữ Văn.
1 .Phân hoá nội tại:
Dạy học phân hoá nội tại có thể thực hiện ở tất cả các khâu trong tiến
trình bài giảng, ở tất cả các tiết học
a) Phân hoá ngay trong quá trình kiểm tra bài cũ:
Ở khâu này giáo viên cũng có thể căn cứ vào từng đối tượng học
sinh để đưa ra yêu cầu khác nhau, phù hợp với khả năng của từng học sinh.
Ví dụ: Bài “Ông đồ” (Ngữ Văn 8) Giáo viên có thể đưa ra những mức
độ yêu cầu như sau:
* Mức 1:
Yêu cầu 1: Hãy đọc thuộc, diễn cảm bài thơ “Ông đồ” và giới thiệu về
tác giả?

Yêu cầu 2: Qua tìm hiểu bài thơ em cảm nhận được những gì về nội
dung và nghệ thuật?
* Mức 2:
Yêu cầu 1: Trong bài thơ “Ông đồ” tác giả đã sử dụng hành công một số
hình ảnh biểu tượng đạc sắc. Em hãy chứng minh?

4


Yêu cầu 2: Chính tác giả Vũ Đình Liên cũng đã nhận xét : hình ảnh ông
đồ chỉ còn là “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời tàn”. Em hiểu
lời nhận xét đó như thế nào? Hãy giải thích cho cả lớp cùng hiểu?
Yêu cầu 3:Trong bài thơ có những câu thơ, những khổ thơ với những
hình ảnh thơ đạc sắc, hãy lựa chọn một câu, một khổ, hay một đoạn để bình?
Như vậy, ở mức 1, học sinh chỉ cần đáp ứng được yêu cầu cơ bản của tiết
học, đảm bảo mục tieu chung là nắm vững văn bản, nội dung và hình thức
nghệ thuật của bài thơ
Nhưng ở yêu cầu mức 2 đã cao hơn, phức tạp hơn, đòi hỏi học sinh phải
nắm thật vững, sâu, rộng kiến thức của bài học, biết sàng lọc kiến thức và
dùng khả năng lập luận, diễn đạt để giải thích hoặc chứng minh về một vấn
đề, một nhận xét.Không những thế, học sinh còn phải có khả năng cảm thụ và
thẩm bình, biết cách vận dụng ngôn ngữ và khả năng diễn đạt để trình bày
những hiểu biết của mình về bài thơ.
VD2 : Kiểm tra bài cũ : Câu nghi vấn (tiết 2)
Mức 1 : Nêu các chức năng khác của câu nghi vấn? Mỗi chức năng cho 1
ví dụ?
Mức 2 : Cho ví dụ sau :
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa? ”
(Nguyễn Khuyến- Khóc Dương Khuê)
Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng những kiểu câu nào? hãy chỉ ra giá trị
của những kiểu câu đó trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác giả?
Ở mức 1 học sinh chỉ cần nắm được lí thuyết và vận dụng vào đặt được
câu nghi vấn theo yêu cầu của giáo viên .Nhưng yêu cầu mức 2 học sinh đã phải
vận dụng hiểu biết của bản thân về giá trị của câu nghi vấn trong những trường
hợp cụ thể, trong từng tác phẩm cụ thể , nhận ra thái độ, cảm xúc của nhân vật
trữ tình( sự đau xót, ngậm ngùi, tiếc thương vô hạn của Nguyễn Khuyến khi
Dương Khuê qua đời)
VD2 : Bài sự phát triển của từ vựng (tiết 2)
Mức 1 :
a) Thế nào là sự phát triển của từ vựng ? Ví dụ
b) Nêu các cách phát triển từ vựng của tiếng Việt? Nêu ví dụ minh hoạ.
Mức 2 : Cho 2 câu thơ :
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
(Viễn Phương- Viếng lăng Bác)
a) Từ nào được phát triển nghĩa ? Hãy phân tích?
b) Từ đó em hãy chỉ ra ý nghĩa của cách phát triển từ vựng này ?

5


ở mức 1, giáo viên mới chỉ yêu cầu học sinh trình bày lí thuyết về sự
phát triển từ vựng, bước đầu học sinh nhận diện và biết lấy ví dụ minh hoạ.
Yêu cầu này dành cho đối tượng đại trà.
ở mức 2, đã có sự nâng cao hơn về kiến thức, học sinh không chỉ biết
phát hiện ra sự phát triển của từ vựng tiếng Việt trong trường hợp cụ thể phân
tích được giá trị của nó trong việc diễn đạt mà học sinh còn biết đánh giá,

nhận xét khái quát ý nghĩa của nó và được sử dụng như một biện pháp tu từ
nghệ thuật.
c) Phân hoá trong quá trình dạy kiến thức mới :
Trong quá trình dạy học kiến thức mới của bài học. Giáo viên cần phải
quan sát để phát hiện những sai khác giữa các học sinh về tình trạng lĩnh hội
và trình độ phát triển, từ đó có những biện pháp phân hoá nhẹ nhàng, tác động
đến học sinh.
Sự phân hoá đó được cụ thể như sau :
* Ra bài tập phân hoá :
Trong quá trình dạy học, giáo viên luôn phảI đảm bảo được mục tiêu
chung của tiết dạy, bên cạnh đó tránh được nguy cơ đưa ra yêu cầu quá cao
hoặc quá thấp đối với học sinh thì cần có những bài tập phân hoá. Việc đưa ra
bài tập phân hoá nhằm để cho những học sinh khác nhau có thể tiến hành
những hoạt động phù hợp.
VD1: Tiết câu nghi vấn (tiếp). Lớp 8
- Khi cho học sinh tìm hiểu các chức năng khác của câu nghi vấn, giáo
viên có thể đưa ra các hoạt động :
a) Hãy chỉ ra câu nghi vấn và chức năng của nó trong ví dụ sau :
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”
b) Hãy so sánh việc sự dụng câu nghi vấn trong trường hợp đó với kiểu
câu ứng với chức năng tìm được và nêu ý nghĩa của việc dùng câu nghi vấn
trong trường hợp này ?
Với yêu cầu a, mọi học sinh trong lớp đều có thể thực hiện được. Tuy
nhiên với yêu cầu đơn giản như vậy, giáo viên nên dành cơ hội trả lời cho
những học sinh yếu, trong bình.
Còn với yêu cầu b, đòi hỏi học sinh phải có khả năng cảm thụ, so sánh
đối chiếu, khái quát thành những đặc điểm chung. Phần này thường chỉ với

những em khá giỏi mới thực hiện được.
Như vậy, ngay trong cùng một nội dung, bằng cách ra bài tập, yêu cầu
phân hoá, giáo viên đã có thể tác động đến mọi đối tượng học sinh, tất cả đều
được làm việc, đều được góp phần xây dựng bài học.
VD2 : Tiết tổng kết từ vựng (Ngữ văn 9)

6


Khi ôn tập lại kiến thức về các biện pháp tu từ từ vựng giáo viên có thể
đưa ra những hoạt động như sau :
Cho bài thơ sau :
“Những lúc say sưa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa
Hay ưa nên nỗi không chừa được
Chừa được nhưng mà vẫn chẳng chừa”
(Nguyễn Khuyến)
a) Bài thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nào?
b) Qua biện pháp nghệ thuật đó em đã hiểu được điều gì trong tâm sự về
cuộc đời và suy nghĩ của tác giả?
Yêu cầu b đòi hỏi học sinh phải có sự tưởng tượng, liên tưởng để cảm
nhận hơn thế, học sinh phải có một chút ít “vốn” đáng kể về tác giả Nguyễn
Khuyến về cuộc đời thơ văn mới có thể thực hiện được.
Với yêu cầu b, không chỉ giúp học sinh có khả năng cảm thụ mà còn rèn
cho các em kỹ năng tìm tòi, tự học, tự nghiên cứu. Làm như vậy, những học
sinh khá giỏi sẽ tận dụng được thời gia dư thừa trong tiết học và được đào
sâu, nâng cao kiến thức.
Đặc biệt, khi ra bài kiểm tra 45’, giáo viên cũng cần phải đưa ra một câu
hỏi nâng cao nhằm phân hoá học sinh giỏi và học sinh trung bình. Câu hỏi cuối
cùng này thường chiếm từ 1 đến 2 điểm , nội dung khó, đòi hỏi sự sáng tạo, tìm

tòi, đọc và hiểu sâu sắc về nội dung của bài học
* Người điều khiển phân hoá
Đó là vai trò của giáo viên trong quá trình tổ chức tiết học. Sau khi giao
bài tập, giáo viên phải quan sát lớp và nắm bắt từng đối tượng học sinh. Giáo
viên phải quan tâm hướng dẫn, gợi ý cho học sinh yếu kém, hoặc mức độ vừa
phải với học sinh trung bình và ít dần đối với học sinh khá hơn.
* Làm việc theo nhóm, theo cặp.
Khi đưa ra bài tập thảo luận theo nhóm hoặc theo cặp, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh cách thức làm việc, phân công, … để sao cho mọi
học sinh trong nhóm đều được làm việc; phải thường xuyên thay đổi vai trò
của người thực hiện để một học sinh có thể thực hiện được nhiều chức năng
khác nhau, nhiệm vụ khác nhau.
Với hình thức làm việc như vậy, có thể tận dụng được chỗ mạnh của học
sinh này để điều chỉnh cho nhận thức của học sinh khác. Đồng thời, tạo điều
kiện cho mọi thành viên trong cặp, trong nhóm có ý thức và thói quen tự kiểm
tra, rút kinh nghiệm trong hoạt động.
c) Phân hoá bài tập về nhà
Cũng giống như kiểm tra bài cũ và dạy bài mới, phần bài tập về nhà cũng
có thể được phân hoá. Song để làm được điều này, giáo viên cần phải nắm

7


thật vững về trình độ của học sinh trong lớp để giao nhiệm vụ phù hợp với
mọi đối tượng học sinh.
Việc phân hoá này có thể được thực hiện như sau :
* Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại, phù hợp với từng loại đối
tượng để cùng đạt một yêu cầu:
Ví dụ: dạy bài “Liên kết câu và liên kết đoạn văn”(Ngữ văn9) thì có
các yêu cầu sau:

- Chung với mọi học sinh: học thuộc lí thuyết; làm lại bài tập trong sách
giáo khoa phần luyện tập vào vở; nhận biết về liên kết hình thức trong các văn
bản đã học ở tiết trước
- Với học sinh khá giỏi: Làm thêm các bài tập trong sách bài tập Tiếng
Việt nâng cao 9 bài 1,4,5 trang 85
*Phân hoá về nội dung bài tập:
- Với học sinh trung bình : chỉ cần nắm được lí thuyết, bước đầu biết vận
dụng vào làm bài tập theo yêu cầu sách giáo khoa
- Với học sinh khá giỏi: yêu cầu nội dung cao hơn, sau khi nhận diện, thì
các em phải phân tích được giá trị, tác dụng, điều kiện vận dụng… của phần lí
thuyết đã cung cấp
Ví dụ: Dạy bài “câu nghi vấn” tiết 2- Ngữ Văn 8 . Sau khi tìm hiểu các
chức năng khác của câu nghi vấn thì về nhà các em phảI thực hiện các nội
dung sau:
+ Học thuộc phần lí thuyết của bài
+ Phát hiện các câu nghi vấn dùng với các chức năng khác
+ Phải phân tích được các giá trị của nó trong việc thể hiện nội
dung tư tưởng của tác giả:
Chẳng hạn : “Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà ? ”
( Hồ Chí Minh _ Vọng Nguyệt)
Thì câu nghi vấn đó có giá trị gì trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng
của Bác khi đặt trong sự so sánh đối chiếu với câu khẳng định trong bản dịch
thơ của Nam Trân
Từ những yêu cầu như vậy, học sinh khá giỏi khi làm bài tập về nhà sẽ
có điều kiện khai thác sâu hơn nội dung của bài học, rèn cho các em thói quen
tư duy, khám phá kiến thức, rèn luyện kĩ năng so sánh đối chiếu, liên hệ …
giữa bài học này với bài học khác hoặc giữa bài học với thực tế cuộc sống. Từ
đó, rèn cho các em có tư duy sáng tạo, tính tích cực, tự giác trong học tập.
* Ra riêng những bài tập nâng cao cho học sinh giỏi. Với những học sinh

giỏi, ngoài nhiệm vụ chung như đã nêu trên, cần phải thực hiện thêm một số
bài tập mở rộng, nâng cao hơn mang tính chất nghiên cứu chuyên sâu ứng với
mỗi bài học.
VD : Khi dạy Truyện Kiều (Ngữ Văn 9)

8


- Ngoài việc tìm hiểu các đoạn trích trong sách giáo khoa học sinh giỏi
phải đọc thêm, nghiên cứu thêm để đánh giá được về :
+ Giá trị của các biện pháp nghệ thuật được Nguyễn Du sử dụng (như :
tả cảnh, ngụ tình, cách xây dựng nhân vật, thủ pháp ước lệ tượng trưng, sử
dụng điển tích cổ điển…)
+ Chiều sâu tư tưởng của tác giả qua tác phẩm muốn hiểu được, học sinh
phải tìm hiểu kỹ tác giả, tác phẩm, đọc thêm các sách phê bình…
- Cung cấp thêm một số đề thi học sinh giỏi có liên quan đến bài học đó
để học sinh làm việc ra thêm các bài tập nâng cao cho học sinh giỏi giúp cho
các em không cảm thấy quá dư thừa thời gian, nhàn chán trong học tập.
2. Phân hoá tổ chức :
2.1:Với học sinh giỏi: Giáo viên có thể thực hiện hình thức bồi dưỡng riêng
thành một nhóm. Giáo viên có thể lựa chọn những học sinh cùng lớp hoặc
cùng khối, có khả năng học Ngữ văn, yêu thích môn Ngữ văn và tự nguyện
xin vào đội tuyển Ngữ văn.
Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn là nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ
văn, đào sâu, mở rộng kiến thức trong chương trình Ngữ văn THCS, bồi
dưỡng cho các em phương pháp học Ngữ văn có hiệu quả, giúp các em thấy
được vai trò tích cực của môn học trong đời sống của con người.
Để việc bồi dưỡng có hiệu quả, giáo viên cần tập trung vào những nội
dung như sau:
+ Cung cấp thêm những nội dung bổ sung cho chương trình chính khoá.

VD1: Khi dạy “Vọng Nguyệt” Ngữ Văn 8
Giáo viên cần cung cấp thêm thông tin, kiến thức về :
. Cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Hồ Chí Minh
. Những sáng tác tiêu biểu (nhất là tập thơ Nhật kí trong tù)
. Giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật trong những sáng tác của
tác giả đó…
VD2: Khi dạy “Con cò” (Chế Lan Viên – Ngữ Văn 9)
Giáo viên cần cung cấp thêm những thông tin về nhà thơ, sự nghiệp sáng
tác, tư tưởng chung của thơ Chế Lan Viên;một số sáng tác của ông hoạc của
một số tác giả cùng thời , cùng viết về một đề tài để học sinh có thể liên tưởng
so sánh, đối chiếu…. mở rộng kiến thức cần thiết để làm một số đề thi học
sinh giỏi.
Luyện cho học sinh làm các đề thi học sinh giỏi. Mục đích để cho học
sinh làm quen với các dạng đề khác nhau, rèn luyện kỹ năng phân tích để xác
định yêu cầu của đề và tập sử dụng kiến thức dẫn chứng có hiệu quả trong
mỗi đề bài.
Muốn vậy, giáo viên cần phải sưu tầm các đề, và sắp xếp thành các dạng
đề chung, hoặc giáo viên tự ra đề cho học sinh thực hiện.
VD : Các dạng đề cảm thụ
Các dạng đề tập làm văn( văn học trung đại, văn học hiện đại…)

9


+ Tổ chức cho học sinh đi thực tế : đi tham quan ở các khu di tích, …
trong khu vực địa phương hoặc vùng lân cận để các em trực tiếp được cảm
nhận quan sát và thu thập thông tin, dữ liệu cho bài viết.
+ Tổ chức các cuộc thi sáng tác, ra báo học tập. Những cuộc thi sáng tác
đó sẽ ứng với những mốc thời gian trọng đại trong năm, lấy đề tài cho các em
tập viết bài.

VD : Chủ đề : + Thày cô giáo, nhà trường
+ Mùa xuân
+ Hè về…
2.2: Với học sinh yếu kém : Đây là những đối tượng học sinh có kết quả học
tập môn Ngữ văn thấp. Với đối tượng học sinh này thường có chung những
đặc điểm :
- Tiếp thu, lĩnh hội kiến thức chậm.
- Kỹ năng nói, viết kém.
- Phương pháp học tập môn Ngữ văn chưa phù hợp.
Từ những đặc điểm đó, giáo viên có những phương pháp tác động linh
hoạt để giúp các em tiến bộ dần.
+ Trong tiết học, giáo viên cần ưu tiên cho các em những câu hỏi đơn
giản, gợi mở dần để các em có thể trả lời được. Từ trả lời được một phần kiến
thức, các em sẽ đợc cuốn hút vào hoạt động học tập, có hứng thú trong khi
làm bài tập. Tránh tình trạng giáo viên sợ mất thời gian cho tiết học, chỉ gọi
những em khá, giỏi thì những học sinh yếu sẽ bị “lãng quên” không có vai trò
gì trong việc xây dựng bài. Khi đã trở thành “người thừa” các em sẽ chán nản
và quậy phá lớp.
+ Trong quá trình làm bài tập, giáo viên sẽ dành cho đối tượng này bài
tập từ đơn giản đến phức tập dần lên, từ từ theo từng mức, nếu khó đột ngột
thì học sinh không thực hiện được và nản chí:
Ví dụ: Khi dạy nhóm bài về câu nghi vấn, câu cảm thán, câu trần
thuật… giáo viên cung cấp cho học sinh yếu các bài tập:
Loại bài mức 1: Nhận diện câu(căn cứ vào hình thức).
Loại bài mức2: Chức năng chính của các kiểu câu đó (căn cứ vào phần lí
thuyết chức năng).
Loại bài mức 3: Đặt một hoạc hai câu theo kiểu đó, hoạc với các chức
năng khác nhau (yêu cầu cao hơn, đòi hỏi học sinh phảI nắm thật chắc nội
dung lí thuyết rồi vận dụng vào đặt câu).
Giáo viên cũng cần kết hợp quan sát, động viên hướng dẫn gợi mở

thường xuyên, giúp các em thực hiện được bài tập.
+ Trong khi chữa bài hoặc chấm bài : Giáo viên cần chỉ rõ lỗi sai và đưa
ra cách sửa chữa khắc phục trong bài làm của học sinh yếu kém:
Ví dụ: Khi chữa chấm bài giáo viên cần chỉ ra lỗi sai về:

10


* Nội dung: Về nghĩa của câu, nghĩa của đoạn đã thống nhất theo yêu
cầu của bài tập chưa. Nừu sai thì sửa như thế nào, nếu thiếu thì bổ sung thêm
như thế nào, những ý gì cho phù hợp và đầy đủ
* Hình thức: Sai chính tả, sai ngữ pháp câu, trật tự các từ trong câu, sai
về cách sắp xếp các câu trong đoạn, các đoạn trong một văn bản; sai về liên
kết… Sau đó giáo viên đưa ra cách sửa cho đúng
+ Giúp các em rèn luyện kỹ năng học tập môn Ngữ văn yếu về kỹ năng
học tập. Vì vậy giáo viên cũng cần bồi dưỡng cho các em ngay cả kỹ năng,
phương pháp học tập như : học thuộc các bài thơ, thuộc phần lý thuyết rồi
mới vận dụng làm bài tập, khi viết phải rõ ràng, sạch sẽ, đúng chính tả, khi
làm bài phải đọc kỹ đề bài, hiểu được đề bài yêu cầu gì…
Ngoài ra, giáo viên cũng cần phối hợp các hình thức dạy học phân hoá
khác : dạy học tự chọn, dạy học ngoại khóa…giúp đỡ học sinh yếu, kém, bồi
dưỡng học sinh khá, giỏi, để giờ học Ngữ văn đạt kết quả cao hơn.
III. Những vấn đề còn bỏ ngỏ:
Vì điều kiện về thời gian hạn hẹp, nên khi viết kinh nghiệm này tôI
mới chỉ dẫn ra những ví vụ cụ thể cho một số tiết học tiêu biểu của chương
trình Ngữ Văn 8,9 chứ chưa phảI là tất cả các trường hợp của tất cả các tiết
học trong chương trình .Rất mong sự đóng góp , bổ sung thêm của cấc đồng
nghiệp.
IV. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Có thể áp dụng cho tất cả các lớp , các khối kớp của trường phổ thông

cơ sở.
Để có thể áp dụng thực hiện được cách làm như trên, giáo viên dạy bộ
môn Ngữ văn phải thực sự có tâm huyết với nghề, nhiệt tình và có trách
nhiệm cao với học sinh, với nhà trường và với sự nghiệp giáo dục nói chung
Đồng thời giáo viên phảI tích cựcnghiên cứu, trau dồi vốn kiến thức
của bản thân, tích cực sưu tầm và kiếm tìm tài liệu, quan tâm sát sao tới mọi
đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách, nắm được trình độ học tập của
từng em để đề ra những phương pháp dạy học có hiệu quả, kích thích được
tính tích cực, tự giác của học sinh trong quá trình học tập

11


C. KẾT LUẬN
Trong thực tế, hầu hết các nhà trường THCS , Tiểu học, THPT…trình độ
của học sinh không đồng loạt ngang nhau. Trong một lớp có học sinh giỏi, có
học sinh khá, trung bình và yếu nên giáo viên khó có thể dạy học đồng loạt.
Một số giáo viên khi giảng dạy thường chỉ tập trung chú ý đến đối tượng học
sinh khá giỏi mà ít khi chú ý tới học sinh yếu kém vì sợ mất thời gian, thậm
chí bị ức chế. Chính vì thế mà một số đối tượng học sinh yếu kém đã chán
nản trong học tập, lại bị “lãng quên” nên các em chưa nhận thức được vai trò
của mình trong học tập, các em quậy phá, gây mất trật tự trong giờ học.
Ngược lại, có một số học sinh giỏi lại cảm thấy tiết học quá nhàn chán,
tẻ nhạt vì yêu cầu của thày cô đưa ra là quá dễ không cần động não suy nghĩ
đã trả lời được rồi. Điều đó làm nảy sinh tâm tí coi thường, không chú ý và
cuối cùng là năng lực của học sinh đó không được phát triển thậm trí còn mai
một đi.
Để có thể khắc phục phần nào những hạn chế đó, tôi xin mạnh dạn đề
xuất một cách làm mà tôi cũng đã thực hiện có hiệu quả như trên .Kính mong
sự đóng góp của Hội đồng khoa học và các bạn đồng nhiệp

Tôi xin chân thành cảm ơn!

12



×