Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng của thâm hụt NSNN đến tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.12 KB, 17 trang )

1:

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH

1.1.

Tổng quan nghiên cứu

Thâm hụt ngân sách là hiện tượng phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới
hiện nay. Bội chi ngân sách có tác động lớn đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô cả theo
chiều hướng tích cực và tiêu cực trong cả ngắn hạn và dài hạn, trong đó có các biến số
đo lường sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy tác động kinh tế của thâm hụt ngân sách trở
thành chủ đề được nhiều học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là sau
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008. Về mặt thực tiễn, mối quan hệ
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế rất cần được phân tích trong bối cảnh
thực tế là các quốc gia trên thế giới đang có sự chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế đặc
biệt là các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng
nhanh về kinh tế, quy mô của thâm hụt ngân sách cũng tăng dần do nhu cầu ngày càng
nhiều về các hàng hóa công cộng như y tế, giáo dục, … và nhu cầu đầu tư để phát triển
cơ sở hạ tầng nhằm phát triển nền kinh tế - xã hội của quốc gia.

Hình 1: Diễn biến nợ công của một số quốc gia trên thế giới giai đoạn 1990 – 2014

Nguồn: IMF


Các quốc gia trên đều có nền kinh tế tương đối phát triển, có thu nhập quốc dân cao,
song có tỷ lệ nợ công trên GDP đạt ngưỡng rất cao, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới năm 2008 (Nhật Bản đã chạm mức trên 200% năm 2014).
Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm: Stella Osoro (2016), Aslam (2016), … cho


thấy kết quả kiểm định tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế là tích
cực. Điều này phù hợp với quan điểm của trường phái Keynes mà chúng tôi sẽ trình
bày ở phần sau của bài viết.
Trong khi đó, các nghiên cứu thực nghiệm của Fatima và cộng sự (2012), Mencinger
Jernej và cộng sự (2014), Đặng Văn Cường, Phạm Lê Trúc Quỳnh (2015), Nkrumah
và cộng sự (2016), Molefe, Maredza (2017), Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú
(2018), … tại khu vực các quốc gia phát triển và đang phát triển, các quốc gia khu vực
châu Á, Nam Phi, Liên minh Châu Âu hay một số nước như Ghana, Pakistan, …cho ra
kết quả tác động của bội chi ngân sách đến tăng trưởng kinh tế là tiêu cực, theo đúng lí
thuyết của trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Tuy nhiên, kết quả không chỉ dừng lại ở tác động là tích cực hay tiêu cực. Một số
nghiên cứu chỉ ra tác động hai chiều của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế: .
Các kết quả đều cho ra một ảnh hưởng phi tuyến tính giữa chúng và chỉ ra ngưỡng nợ
công / GDP mà tại đó thâm hụt ngân sách chuyển từ tác động tích cực sang tác động
tiêu cực.
Một số nghiên cứu mới, chỉ ra tác động không rõ ràng giữa thâm hụt ngân sách và tăng
trưởng kinh tế. Tiêu biểu cho nhóm các nhà nghiên cứu với kết quả này là Cinar và
cộng sự (2012), Rahman (2012), Huỳnh Thế Nguyễn, Nguyễn Lê Hà Thanh Na
(2015), … tạị một số nền kinh tế tiêu biểu ở châu Âu, các quốc gia khu vực Đông Nam
Á như Malaysia, Việt Nam,… và đều đưa ra kết luận là không có tác động lẫn nhau
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Do tính phức tạp khi nghiên cứu tác động của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh
tế, đồng thời do phụ thuộc vào không gian, thời gian và nhiều biến số vĩ mô khác cũng
như những hạn chế về số liệu sử dụng trong quá trình nghiên cứu dẫn đến những kết
quả phân tích khác nhau và không mang tính hệ thống. Trong phạm vi bài tiểu luận
2


này, ở phần sau, chúng tôi sẽ trình bày các cơ sở lý thuyết và tóm lược các kết quả đã
nghiên cứu trước đó.

1.2.

Cơ sở lý thuyết

1.2.1.

Một số vấn đề về thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế

1.2.1.1. Thâm hụt ngân sách
Ngân sách Nhà nước là một khâu trong hệ thống tài chính quốc gia, nó phản ánh quan
hệ tài chính phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước, trên cơ sở luật định.
Đặc điểm của NSNN thể hiện ở việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với
quyền lực Nhà nước và được tiến hành trên cơ sở luật định. NSNN cũng gắn chặt với
sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng. Đồng thời
hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực
tiếp là chủ yếu.
NSNN đóng vai trò là công cụ tài chính quan trọng nhất đảm bảo hoạt động của bộ
máy Nhà nước. Đây cũng là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện việc điều
tiết nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững.
Đối với một quốc gia, ngân sách có thể thặng dư, thâm hụt, hoặc bằng không. Hầu hết
các quốc gia, bao gồm cả các nước phát triển, đều phải đối mặt với tình trạng thâm hụt
NSNN. Thâm hụt NSNN là tình trạng khi mà trong tổng chi tiêu của NSNN vượt qua
các khoản thu trong cân đối ( không bao gồm các khoản thu vay nợ, viện trợ) của
NSNN.
Để đo lường thâm hụt NSNN, các nhà kinh tế học thường sử dụng hai chỉ số sau đây:
-


Mức độ thâm hụt NSNN = Tổng chi – Tổng thu

Trong đó :
Tổng chi = chi thường xuyên + chi đầu tư + chi vay thuần
3


Tổng thu = thu thường xuyên + thu về vốn
-

Tỉ lệ thâm hụt NSNN = ( Mức thâm hụt/ GDP) * 100%

Thâm hụt NSNN thường được phân chia thành 3 loại cơ bản. Thứ nhất, thâm hụt ngân
sách thực tế là loại thâm hụt xảy ra khi số chi thực tế lớn hơn số thu thực tế. Loại thứ
hai là thâm hụt ngân sách cơ cấu, được tính toán với giả định nền kinh tế hoạt động ở
mức sản lượng tiềm năng. Loại thâm hụt NSNN cuối cùng là thâm hụt chu kỳ, do tình
trạng của chu kỳ kinh doanh gây ra.
Thâm hụt ngân sách xảy ra ở các quốc gia có thể do nhiều nguyên nhân, song, 4
nguyên nhân sau đây là các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tượng này. Thứ nhất,
những vấn đề về thiên tai, bệnh dịch, … có thể là nguyên nhân khiến cho chính phủ
phải tăng chi ngân sách, từ đó dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách. Đồng thời việc
quản lí ngân sách không hiệu quả, chi tiêu lãng phí là tác nhân quan trọng dẫn đến
thâm hụt ngân sách. Thứ hai, do tác động của chu kì kinh doanh hay đất nước rơi vào
thời kì khủng hoảng kinh tế, thu nhập của quốc gia bị thu hẹp dẫn đến các khoản thu
ngân sách giảm đi, cùng với đó nhà nước phải chi một lượng lớn hơn ngân sách nhà
nước để đối phó lại với tình trạng nền kinh tế bị suy thoái. Do đó gây ra thâm hụt ngân
sách. Thứ ba, thâm hụt ngân sách xảy ra có thể là do hiệu quả thấp của nền sản xuất xã
hội, điều này cũng làm cho thu nhập của quốc gia khoongcao, dẫn đến khoản thu ngân
sách không lớn. Đồng thời, chính phủ cũng cần phải tăng chi ngân sách để tăng năng
suất lao động, thúc đẩy nền sản xuất trong nước. tác động đồng thời trên đã dẫn đến

tình trạng thâm hụt ngân sách. Thứ tư, thâm hụt ngân sách xảy ra là do chính phủ thực
hiện những đầu tư lớn để phát triển kinh tế xã hội. Nguyên nhân này xảy ra ở các nước
đang phát triển là chủ yếu, do các quốc gia này có nhu cầu đầu tư xã hội, phát triển cơ
sở hạ tầng rất lớn, họ sẵn sàng chấp nhận việc thâm hụt ngân sách có thể xảy ra trong
ngắn hạn.
Thâm hụt ngân sách gây ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia. Trước tiên,
thâm hụt ngân sách gây ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, đến tiết kiệm và đầu tư, kéo
theo đó là ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Hiện tượng kinh tế “thâm hụt kép” –
hiện tượng thâm hụt cán cân vãng lai (CCVL) và thâm hụt ngân sách nhà nước
(NSNN) diễn ra đồng thời tại một thời điểm đối với một nền kinh tế. Khi xảy ra thâm
4


hụt, Chính phủ có xu hướng đi vay làm cầu tiền tăng, dẫn đến lãi suất thị trường trong
nước tăng cao. Lãi suất thị trường trong nước cao sẽ khiến cho dòng ngoại tệ đổ vào
trong nước lớn. Khi đó đồng ngoại tệ sẽ giảm giá một cách tương đối và đồng nội tệ sẽ
tăng giá một cách tương đối dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng làm hạn chế xuất khẩu. Kết
quả dẫn tới thâm hụt cán cân thương mại. Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách còn tác
động đến sự ổn định của tiền tệ cũng như GDP và tỉ lệ thất nghiệp của quốc gia.
1.2.1.2. Tăng trưởng kinh tế
Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng quy của mức sản
lượng tiềm năng của nền kinh tế một quốc gia. Ở đây, cần phân biệt khái niệm tăng
trưởng kinh tế và phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế xét đến sự gia tăng quy mô,
tập trung vào sự thay đổi của lượng. Còn phát triển kinh tế là một khá niệm rộng bao
gồm cả khái niệm tăng trưởng . Phát triển kinh tế xét đến sự thay đổi trong nền kinh tế
cả về chất và về lượng.
Để đo lường tăng trưởng, các nhà kinh tế học sử dụng 2 cách tính cơ bản sau đây:
-

Tăng trưởng được tính bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế


Để loại sự biến động của giá cả, ở đây, chúng ta xét GDP thực tế chứ không phải GDP
danh nghĩa
-

Tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế bình

quân đầu người: cách tính này được nhiều nhà kinh tế cho là phù hợp hơn khi đo sự
tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện thay đổi dân số

Có sự khác biệt trong định nghĩa và công thức đo lường tăng trưởng. Nếu ở định nghĩa
đối tượng được xét đến là sự gia tăng quy mô của sản lượng tiềm năng thì công thức
tính lại sử dung GDP thực tế và GDP thực tế bình quân đầu người để đo lường. Tuy
nhiên, việc sử dụng GDP thực tế không làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu về tăng
trưởng do trong ngắn hạn GDP thực tế có thể khác mức sản lượng tiềm năng nhưng
trong dài hạn nó có xu hướng trở về mức sản lượng tiềm năng
5


Tăng trưởng kinh tế đem lại những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực cho quốc gia. Tác
động tích cực của tăng trưởng kinh tế thể hiện ở việc tăng trưởng kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế, sự phát triển phồn thịnh và là mục tiêu của mọi
quốc gia. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia nâng cao cơ sở vật chất
của mình, nâng cao mức sống của người dân về mọi mặt, tạo điều kiện để chi tiêu cho
quốc phòng nhiều hơn, tạo động lực thúc đẩy sản xuất… Bên cạnh đó, mặt trái của
tăng trưởng kinh tế là sự đe dọa về ô nhiễm môi trường. Do đó, các quốc gia cần phải
quan tâm đến vấn đề tăng trưởng bền vững gắn liền với việc bảo vệ và sử dụng hợp lí
các nguồn tài nguyên.
Có 4 nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhân tố đầu tiên là vốn nhân lực (tư
bản con người) thể hiện ở chất lượng đầu vào của nguồn lao động như kiến thức, kĩ

năng, kỉ luật của đội ngũ lao động. Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tăng
trưởng kinh tế. Các yếu tố khác như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công nghệ sản
xuất chỉ phát huy tối đa hiệu quả của mình nếu có một đội ngũ lao động có sức khỏe,
trình độ chuyên môn và tính kỉ luật tốt. Nhân tố thứ hai là nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển. Những tài
nguyên quan trọng nhất của một quốc gia là đất đai, khoáng sản, rừng và nguồn nước.
Tài nguyên thiên nhiên là một nguồn lực quan trọng song không phải là yếu tố quyết
định tăng trưởng (điển hình là Nhật Bản). Nguồn lực tiếp theo của sự tăng trưởng kinh
tế là tích lũy tư bản. Đây là một nhân tố quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế, trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho quốc gia. Tỉ lệ tư bản trên
mỗi lao động càng cao thì sản xuất càng phát triển. Tuy nhiên, để có được tư bản cần
phải đầu tư hay nói cách khác là phải tiết kiệm, hi sinh tiêu dùng hiện tại cho tương lai.
Nhân tố cuối cùng tác động đến sự tăng trưởng kinh tế là tri thức công nghệ. Công
nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao
hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ càng phát triển, hiệu quả
sản xuất càng cao, thu nhập quốc gia từ đó cũng tăng lên.

6


1.2.2.

Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng
kinh tế

Tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế là một vấn đề nhận được
nhiều sự quan tâm và tranh luận của các nhà nghiên cứu kinh tế học trong nhiều thập
kỉ qua. Liên quan tới vấn đề này, các trường phái kinh tế khác nhau cũng có những
quan điểm rất khác nhau. Tổng hợp lại, có 4 lý thuyết cơ bản sau đây: quan điểm của
trường phái cổ điển, quan điểm của trường phái tân cổ điển, quan điểm của trường

phái Ricardo và quan điểm của trường phái Keynes.
Theo trường phái cổ điển, thâm hụt ngân sách sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng
trưởng của nền kinh tế, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Khi xảy ra bội chi ngân sách thì
tiết kiệm của quốc gia sẽ giảm. Giả sử nhu cầu đầu tư không đổi, xét nền kinh tế đóng,
Chính phủ không thể đi vay nợ nước ngoài, do đó lãi suất thị trường trong nước phải
tăng để cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư. Lãi suất tăng thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài, làm dòng ngoại tệ đổ vào trong nước, đồng nội tệ lên giá, hàng hóa nhập khẩu
trở nên rẻ tương đối, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng. Từ đó, làm giảm thu nhập
(GDP) của quốc gia dẫn đến sự tăng trưởng kém của nền kinh tế. Nếu đó là nền kinh tế
mở, theo quan điểm của trường phái này, Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt ngân sách
bằng việc vay nợ từ nước ngoài tuy nhiên áp lực trả nợ là không thể tránh khỏi. Họ cho
rằng thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến nhiều thế hệ, thế hệ tương lai sẽ có ít tư bản
hơn để đầu tư, do đó làm giảm khả năng tăng trưởng của nền kinh tế trong dài hạn.
Theo quan điểm của trường phái tân cổ điển, việc thâm hụt ngân sách nhà nước kéo
dài sẽ gây ra gánh nặng thuế trong tương lai. Người tiêu dùng có xu hướng tăng tiêu
dùng trong hiện tại dẫn đến tiết kiệm quốc gia giảm xuống. Khi tiết kiệm của dân cư
giảm xuống sẽ đẩy lãi suất thị trường lên cao, kéo theo đó là đầu tư giảm và hiện
tượng thoái lui đầu tư. Ngoài ra, việc Chính phủ vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách
gây áp lực làm tăng lãi suất trong nền kinh tế, do đó cầu về vốn của khu vực đầu tư tư
nhân giảm xuống làm giảm sản lượng sản xuất ra trong nền kinh tế, đồng thời hạn chế
sự mở rộng sản xuất của khu vực tư nhân.
Trong khi đó, quan điểm của trường phái Ricardo cho rằng thâm hụt ngân sách không
có tác động đến các biến số vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Trường phái này cho
rằng bội chi do cắt giảm thuế sẽ dẫn tới kết quả là một mức thuế cao hơn trong tương
7


lai. Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái này quan niệm Chính phủ sẽ luôn duy trì
một kế hoạch thu, chi để đảm bảo mức cân bằng cho ngân sách Nhà nước. Do đó, khi
thâm hụt ngân sách xảy ra do cắt giảm thuế cũng đồng nghĩa với việc sẽ phải tăng thuế

lên trong tương lai để khi quy về giá trị hiện tại, ngân sách sẽ cân bằng. Điều này đồng
nghĩa với việc kỳ vọng về thuế của tư nhân sẽ không thay đổi trong khi nhu cầu tiêu
dùng của tư nhân lại phụ thuộc vào kỳ vọng về thuế và thu nhập trong tương lai, do đó
cũng sẽ không có sự thay đổi nào về tiêu dùng. Cũng theo trường phái này, vì tiết kiệm
quốc gia không thay đổi, nên cũng sẽ không có sự thay đổi về lãi suất và đầu tư. Trong
nền kinh tế mở, do tiết kiệm tư nhân sẽ tăng lên để cân bằng với tiết kiệm chính phủ,
nên cũng sẽ không có sự chuyển dịch tài sản từ trong nước ra ngoài nước. Cho nên,
trong cả ngắn hạn và dài hạn, thâm hụt ngân sách không làm ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, quan điểm của trường phái này cũng vấp phải một số hạn
chế do giả định rằng thị trường không có thất nghiệp, thị trường tín dụng tư nhân là
hoàn hảo trong khi chi phí giao dịch có thể làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn của
nhiều người,…
Khác với các quan điểm trên, trường phái của Keynes lại cho rằng thâm hụt ngân sách
có tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế. Mô hình của Keynes dựa trên giả định
sẵn có rằng các nhà đầu tư sẽ lạc quan hơn về triển vọng của nền kinh tế khi Chính
phủ tăng chi tiêu. Khi Chính phủ tăng chi ngân sách từ nguồn thâm hụt thì tổng cầu
trong nền kinh tế sẽ tăng lên, do đó làm tăng đầu tư từ các nhà đầu tư tư nhân. Ở một
trường hợp khác, nếu Chính phủ chấp nhận việc có thâm hụt ngân sách bằng cách cắt
giảm thuế, trong khi chi tiêu công không đổi, điều này tác động trực tiếp đến hành vi
tiêu dùng của người dân, làm tăng mức tổng cầu hàng hóa và dịch vụ dẫn đến việc
tăng sản lượng và việc làm trong ngắn hạn. Trường phái này cũng cho rằng, mặc dù
việc thâm hụt ngân sách có thể làm gia tăng mức lãi suất trên thị trường, tuy nhiên, nó
lại làm tăng mức tiết kiệm và đầu tư của quốc gia, do đó, nó có ảnh hưởng tích cực đến
sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà kinh tế học theo quan điểm này
cũng cho rằng tác động tích cực của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế cũng
chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn, đồng thời, nó chỉ mang lại hiệu quả khi nền kinh tế bị
suy thoái (tổng cầu bị sụt giảm), còn trong trường hợp nền kinh tế đạt toàn dụng nhân
công, việc tăng bội chi ngân sách thậm chí còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho
nền kinh tế.
8



1.2.3.

Các nghiên cứu về tác động của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh
tế



Các nghiên cứu cho kết quả tác động cùng chiều

Aslam (2016) [4], trong một bài nghiên cứu của mình đã phân tích và chỉ ra rằng thâm
hụt ngân sách có ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế Sri Lanka, sử dụng
chuỗi số liệu trong giai đoạn từ 1959 – 2013. Bằng cách sử dụng mô hình hồi quy kinh
tế, sử dụng các biến số: thâm hụt ngân sách, giá trị xuất nhập khẩu, tỷ giá hôi đoái, tỷ
lệ lạm phát và tổng sản phẩm quốc nội trong đó GDP được coi là biến phụ thuộc và
thâm hụt ngân sách được coi là biến độc lập chính, sau đó dùng kiểm định Phillip–
Person (PP) và kiểm định Dickey và Fuller mở rộng (ADF) để kiểm tra tính dừng của
chuỗi thời gian, tác giả mô tả phương trình phân tích như sau:

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong dài hạn, thâm hụt ngân sách sẽ tác động tích cực
đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế của Sri Lanka, cụ thể nếu thâm hụt ngân sách tăng
thêm 1 đơn vị thì tăng trưởng kinh tế sẽ tăng thêm 0.4275 đơn vị, tuy nhiên trong ngắn
hạn lại không tìm thấy mối quan hệ giữa chúng. Do đó, tác giả cho rằng, các nhà
hoạch định chính sách của Sri Lanka khi xây dựng các chính sách phải chấp nhận việc
thâm hụt ngân sách vì nó đang thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững của quốc gia
này.
Stella Osoro (2016) [10] trong bài nghiên cứu “Effects Of Budget Deficit On
Economic Growth In Kenya”, đã xem xét và đưa ra kết quả phân tích về tác động của
thâm hụt ngân sách đối với sự tăng trưởng kinh tế của Kenya. Chuỗi dữ liệu được tác

giả sử dụng trong bài nghiên cứu là của nền kinh tế Kenya trong giai đoạn từ 1980 –
2014 với phương pháp nghiên cứu là áp dụng mô hình Fatima, Ahmed and Rehman
(2012) để phân tích. Mô hình được mô tả như sau:
GDPt = β0Ln DEt + β1Ln REt + β2Ln BDt + β3Ln TDt + β4Ln Inftt + β5Ln Tott +
β6Ln CAt + μt

9


Kết quả nghiên cứu cho thấy một mối quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và
thâm hụt ngân sách, cụ thể cứ 1% tăng lên của thâm hụt ngân sách thì GDP tăng lên
khoảng 0.102%. Kết quả này phù hợp với xu hướng lập luận của các nhà kinh tế theo
trường phái Keynes, cho rằng sự thâm hụt ngân sách do tăng chi tiêu Chính phủ dẫn
đến tổng cầu tăng làm tăng mức sản lượng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, Osoro cũng chỉ
ra rằng, mặc dù Chính phủ Kenya không cần quá quan ngại vấn đề thâm hụt ngân
sách, song cũng cần duy trì mức độ bội chi ngân sách ở mức 3.696% bởi vượt quá mức
này ích lợi bắt đầu giảm và dần dần ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Hạn chế của bài nghiên cứu được tác giả đưa ra là các biến số được sử dụng
trong mô hình nghiên cứu chỉ giải thích được 50% sự thay đổi GDP, 50% còn lại lại
phụ thuộc vào các biến số vĩ mô khác.


Các nghiên cứu cho kết quả tác động ngược chiều

Goher Fatima, Mehboob Ahmed và Wali ur Rehman (2012) [6] đã chỉ ra mối quan hệ
ngược chiều giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan trong giai đoạn
từ 1978 – 2009. Tác giả đã áp dụng mô hình nghiên cứu Shojai (1999) và phương pháp
bình phương nhỏ nhất (OLS) để phân tích tác động giữa chúng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy thâm hụt ngân sách có tác động tiêu cực và đáng kể đến sự tăng trưởng kinh
tế của Pakistan, theo đó, cứ có sự gia tăng 1% trong mức thâm hụt ngân sách làm GDP

giảm 0.11 lần. Lý giải cho sự ảnh hưởng tiêu cực trên, tác giả cho rằng nguyên nhân là
do Chính phủ đã thiếu nguồn lực để đáp ứng chi phí của họ trong thời gian dài, trong
khi tiết kiệm cũng như thu nhập quốc gia không đủ để trang trải và các dự án đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất các giải
pháp giúp Chính phủ sử dụng các nguồn lực chưa được tận dụng trong việc kiểm soát
và khắc phục các vấn đề do thâm hụt ngân sách gây ra.
Trong bài viết “Ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng kinh tế” [2] đăng ngày
24/3/2018 trên tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, hai tác giả Hoàng Khắc
Lịch, Dương Cẩm Tú đã nghiên cứu và chỉ ra tác động của nợ công lên tăng trưởng
kinh tế với mẫu nghiên cứu là 20 quốc gia phát triển có thu nhập cao và 44 quốc gia
đang phát triển với thu nhập thấp và trung bình. Số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu
nằm trong giai đoạn 1993-2014, được lấy từ các nguồn đáng tin cậy như: IMF, World
Developing Indicators, The Database of Political Institutions, … Nhằm phân tích tác
10


động của nợ công cùng với các yếu tố vĩ mô khác lên tăng trưởng kinh tế, tác giả thực
hiện mô hình hồi quy với dữ liệu mảng chia theo nhóm thu nhập để phân tích và mô
hình tác động cố định (FEM) để kết luận và đánh giá. Phương trình hồi quy mẫu có
dạng như sau:
GRit = þˆO + þˆ1GR_lag1it + þˆ2DEBTit + þˆ3EXP_DEBTit +
þˆ4DEBT_GRit + þˆ5UNEMPit + þˆ6EXPit + þˆ7EXP_GRit + þˆ8INFit +
þˆ9OPENit + þˆ1OINVit + þˆ11TFPit
+ þˆ12Presidentialit + þˆ13Parliamentaryit + þˆ14 timet + αi + sit
Kết quả bài nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn 1993-2014, tốc độ nợ công tăng lên
qua các năm làm giảm tốc độ tăng trưởng của tất cả các quốc gia trong phạm vi nghiên
cứu, cụ thể, ở các quốc gia có thu nhập cao, nợ công tăng lên 1% khiến cho tốc độ tăng
trưởng giảm 0.032% trong khi ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, con số
này là 0.00805%. Theo đó, kết luận của bài nghiên cứu cho rằng nợ công gây ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Nghiên cứu của Mencinger Jernej và cộng sự (2014) [7], “The Impact of Growing
Public Debt on Economic Growth in the European Union”, đã sử dụng nguồn dữ liệu
từ 25 quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu EU (trong đó bao gồm 15 quốc gia
thành viên cũ và 10 quốc gia thành viên mới) trong giai đoạn từ 1995-2010 để chỉ ra
tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế tại các nền kinh tế này. Bài nghiên cứu
sử dụng 2 mô hình để phân tích. Trước hết, tác giả sử dụng mô hình hồi quy có tác
động cố định (FE) để kiểm soát các yếu tố bất biến theo thời gian cho dù có quan sát
được hay không, tiếp đến, để giải quyết vấn đề về tính đồng nhất, Mencinger Jernej đã
sử dụng mô hình hồi quy của biến công cụ biến thiên (IV) cụ thể là kỹ thuật ước lượng
biến (IV) do Checherita và Rother đề xuất (2010). Phương trình hồi quy có dạng như
sau:
(FE):

11


(IV):

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nợ công có tác động phi tuyến tính đến tăng trưởng
kinh tế. Cụ thể, điểm mà nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kịnh tế đối với
các quốc gia thành viên cũ là ở mức 80-94%/GDP, con số đó ở các quốc gia thành viên
mới là 53-54%/GDP. Tuy nhiên, Mencinger Jernej cũng chỉ ra những hạn chế trong bài
nghiên cứu của mình khi cho rằng mô hình nghiên cứu không kiểm tra được tính hợp
lệ của kết quả, cũng như việc không xem xét đến các ngoại lệ trong dữ liệu và điều này
có thể làm sai lệch kết quả.
Đặng Văn Cường và Phạm Lê Trúc Quỳnh (2015) [1] trong một bài nghiên cứu đã sử
dụng bộ dữ liệu của một số quốc gia tại Đông Nam Á bao gồm: Brunei, Indonesia,
Cambodia, Malaysia, Phillipines, Singapore, Thailand, Vietnam trong giai đoạn từ
2001 – 2013 để phân tích tác động của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế tại
các nền kinh tế này. Sử dụng mô hình bình phương tối thiểu dạng gộp ((Pooled Least

Square Model - POLS), mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model – FEM), mô
hình tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model – REM, sau đó sử dụng Kiểm định
Hausman để xem xét yếu tố ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến các biến phụ thuộc của mô
hình hay không, phương trình được các tác giả miêu tả có dạng:
GDPit = αi + β1iBd + β2iInf + β3iInv + β4iDc + εit
Kết quả thực nghiệm của tác giả chỉ ra rằng, với mức ý nghĩa 1%, thâm hụt ngân sách
có mối quan hệ ngược chiều với tăng trưởng kinh tế và điều này là hoàn toàn phù hợp
với nền kinh tế hoạt động sôi nổi như ở Đông Nam Á, việc chi ngân sách ra đầu tư cho
nhiều dự án là việc thường xuyên xảy ra. Từ đó, theo tác giả, để giảm thâm hụt ngân
sách, Nhà nước nên cắt giảm chi tiêu công một cách hợp lý và có quy trình, đồng thời,
cũng cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài để cải thiện cơ sở vật chất – kĩ thuật, cơ sở hạ
tầng trong nước…

12


Kojo Oppong Nkrumah, Emmanuel Orkoh, Augustine Mensah Owusu (2016) [9],
trong một bài nghiên cứu của mình đã chỉ ra tác động tiêu cực của thâm hụt ngân sách
lên tăng trưởng kinh tế ở Ghana với chuỗi số liệu được phân tích trong giai đoạn 2000
– 2015. Bài nghiên cứu sử dụng 3 mô hình, trong đó có 2 mô hình mà hầu hết các nhà
nghiên cứu kinh tế khác đều sử dụng là mô hình hồi quy véc tơ VAR và mô hình véc tơ
hiệu chỉnh sai số VECM, ngoài ra bài viết còn sử dụng thêm mô hình tự hồi quy phân
phối trễ ARDL. Kết quả cho thấy thâm hụt ngân sách có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế của Ghana trong dài hạn, cụ thể, một sự gia tăng 100% mức thâm hụt
ngân sách sẽ làm giảm 3% GDP, phù hợp với quan điểm của các nhà kinh tế học theo
trường phái tân cổ điển. Từ đó, nhóm tác giả khuyến cao Chính phủ rằng phải đảm bảo
kỷ luật tài chính mạnh mẽ và phân bổ chi tiêu NSNN cho hợp lí.
Kagiso Molefe, Andrew Maredza (2017) [8], khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và thâm hụt ngân sách đã sử dụng bộ số liệu trong giai đoạn 1985 –
2015 của các quốc gia Nam Phi. Bài viết sử dụng mô hình hiệu véc tơ hiệu chỉnh sai

số VECM trong phân tích và các kĩ thuật ADF, PP để kiểm tra tính dừng cũng như thứ
tự tích hợp trên các biến. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa
thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Nam Phi, phù hợp với quan
điểm của trường phái tân cổ điển, đồng thời tỷ lệ thâm hụt ngân sách thích hợp tính
trên GDP hàng năm được đưa ra là 29%. Từ đó, các khuyến nghị được tác giả đưa ra
đối với Chính phủ là phải củng cố hệ thống tài chính, thực hiện các biện pháp chi tiêu
“thắt lưng buộc bụng”, áp dụng trần chi tiêu cũng như cải thiên hệ thống thuế để có thể
tạo ra sự cân bằng giữa thu và chi ngân sách.


Các nghiên cứu cho kết quả không có mối liên hệ trong dài hạn

Rahman (2012) [10] đã sử dụng bộ số liệu của Malaysia trong giai đoạn 2000 – 2011
để phân tích mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở quốc gia
này. Tác giả sử dụng phương pháp ARDL trong phân tích mối quan hệ giữa chúng, vì
phương pháp này phù hợp với các mẫu có kích thước nhỏ và cho ra kết quả là không
có mối liên hệ dài hạn nào giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của
Malaysia, phù hợp với quan điểm trung lập của trường phái Ricardo. Nguyên nhân
được tác giả đưa ra là do mức thâm hụt ngân sách của Malaysia tương đối nhỏ so với
GDP, do đó vẫn nằm trong sự kiểm soát và quản lý của Nhà nước. Vì vậy, mức thâm
13


hụt ngân sách hiện tại của quốc gia này là không đáng lo ngại, đồng thời tác giả cũng
cho rằng nếu có một cú sốc khiến cho nền kinh tế rơi vào suy thoái thì thâm hụt ngân
sách sẽ không có tác dụng đưa quốc gia này trở về trạng thái cân bằng.
Cinar và cộng sự (2014) [5], trong bài nghiên cứu “Examining the Role of Budget
Deficit Policies in Economic Growth from A Keynesian Perspective” đã sử dụng bộ dữ
liệu trong giai đoạn từ 2001-2011 của 5 quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất
(Luxembourg, Ireland, Slovakia, Slovenia và Phần Lan) và 5 quốc gia có nền kinh tế

kém phát triển nhất (Áo, Bỉ, Ý, Bồ Đào Nha và Hy Lạp ) ở Châu Âu theo mức nợ của
họ để phân tích tác động của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế. Nhóm tác giả
đã sử dụng mô hình ARDL để nghiên cứu mối liên hệ giữa chúng với phương trình
được mô tả dưới dạng:

Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy trong ngắn hạn tác động của thâm hụt
ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế là tích cực, song, tham số này không có ý nghĩa
đối với 5 nước phát triển và có ý nghĩa thống kê đáng kể ở mức 1% đối với 5 nước
đứng cuối. Do đó, sự thâm hụt ngân sách sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia kém phát triển hơn. Đồng thời, kết quả phân tích cho thấy, có mối quan hệ
đáng kể 10% theo chiều hướng âm giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở cả hai nhóm
nước nghiên cứu. Tuy nhiên, trong dài hạn Cinar cho rằng không tồn tại mối quan hệ
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia trong phạm vi nghiên
cứu.
Huỳnh Thế Nguyễn, Nguyễn Lê Hà Thanh Na (2015) cũng đã nghiên cứu về mối quan
hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam với chuỗi dữ liệu nằm
trong giai đoạn 1990 – 2012. Tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu của Shojai (1999),
Fatima và cộng sự (2012) để kiểm định thực nghiệm. Mô hình phân tích có dạng thức
Tự hồi quy theo vectơ VAR như sau:

14


Trong đó:
-

Yt là véc tơ 6 x 1 biến nội sinh (đã lấy logarit tự nhiên) gồm GDP (Gross
Domestic Product): tổng sản phẩm quốc nội thực; BD (Budget Deficit): thâm
hụt ngân sách; GI (Gross Investment): tổng đầu tư; RIR (Real Interest Rate): lãi
suất thực; REX (Real Exchange Rate): tỉ giá hối đoái thực; CPI (Consumer


-

Price Index): chỉ số giá tiêu dùng; RIR (Real Interest): tỷ lệ lãi suất thực (%).
Ai ma trận cấp 6x6 tham số;
ut: véc tơ nhiễu trắng
st: véc tơ hằng số.

Kết quả nghiên cứu cho thấy GDP chịu tác động của tổng đầu tư ở các mức ý nghĩa
(10%5, 5%, 1%) trong khi tổng đầu tư chịu tác động của thâm hụt ngân sách ở mức ý
nghĩa 10%. Do đó, GDP bị tác động bởi thâm hụt ngân sách gián tiếp qua tổng đầu tư.
Nói cách khác, thâm hụt ngân sách không có quan hệ nhân quả với GDP, do đó cũng
không trực tiếp làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc thâm hụt ngân
sách cao và kéo dài làm giảm niềm tin của dân chúng vào năng lực điều hành vĩ mô
của Chính phủ, do đó, theo như đề xuất của tác giả, cần phải nâng cao năng lực quản
lý và điều hành ngân sách quốc gia của Chính phủ hơn nữa.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo trong nước
[1] Đặng Văn Cường, Phạm Lê Trúc Quỳnh (2015), “Tác dộng của thâm hụt ngân

sách đến tăng trưởng

kinh tế: Bằng chứng ở các nước Đông Nam Á”,

/>[2] Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú (2018), “Ảnh hưởng của nợ công tới tăng
trưởng kinh tế”, />[3] Huỳnh Thế Nguyễn, Nguyễn Lê Hà Thanh Na (2015), “Mối quan hệ giữa thâm

hụt

ngân

sách



tăng

trưởng

kinh

tế



Việt

Nam”,

/>
Tài liệu tham khảo nước ngoài
[4] Aslam (2016), “Budget Deficit and Economic Growth in Sri Lanka: An

Econometric

Dynamic


Analysis”,

/>55921_Budget_Deficit_and_Economic_Growth_in_Sri_Lanka_An_Econometri
c_Dynamic_Analysis/links/5714fead08ae071a51cffd43/Budget-Deficit-andEconomic-Growth-in-Sri-Lanka-An-Econometric-Dynamic-Analysis.pdf
[5] Cinar và cộng sự (2014), “Examining the Role of Budget Deficit Policies in
Economic

Growth

from

A

Keynesian

Perspective”,

/>[6] Fatima, Ahmed và Rehman (2012), “Consequential Effects of Budget Deficit on
Economic

Growth

of

Pakistan”,

/>_Budget_Deficit_on_Economic_Growth_of_Pakistan
[7] Jernej và cộng sự (2014), “The Impact of Growing Public Debt on Economic
Growth


in

the

European

Union”,

-

muenchen.de/53243/1/MPRA_paper_53243.pdf
[8] Molefe, Maredza (2017), “Budget Deficits and Economic Growth: A Vector
Error

Correction

Modelling
16

of

South

Africa”,


/>onomic_Growth_A_Vector_Error_Correction_Modelling_of_South_Africa
[9] Nkrumah, Orkoh, Owusu (2016), “Exploring the Budget deficit - Economic
growth


nexus:

New

evidence

from

Ghana”,

/>[10]
Osoro (2016), “Effects Of Budget Deficit On Economic Growth In
Kenya”,

/>
Effects%20Of%20Budget%20Deficit%20On%20Economic%20Growth%20In
%20Kenya.pdf?sequence=1&isAllowed=y
[11]
Rahman (2012), “The Relationship between Budget Deficit and
Economic Growth from Malaysia’s Perspective: An ARDL Approach”,
/>n_Budget_Deficit_and_Economic_Growth_from_Malaysia's_Perspective_An_
ARDL_Approach

17



×