Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản đọc văn tiết 2 hạnh phúc của 1 tang gia trích số đỏ vũ trọng phụng từ gọc nhìn văn hóa và bài học ứng xử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.18 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU................................................................................................................................................... 2
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................................... 2
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................................... 3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.............................................................................. 4
1. Cơ sở lí luận:...................................................................................................................................... 4
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn:......................................................... 4
1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT:................................................................... 5
1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học:...................................................................... 5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..................................................................... 7
3.1. Khái niệm, giá trị và tiêu chí xác định Văn hóa ứng xử, đạo đức con người
trong cách nhìn khoa học.............................................................................................................. 8
3.2 Rèn luyện và xây dựng ý thức ứng xử văn hóa và đạo đức cho người học
trong một bài đọc văn cụ thể: Hạnh phúc của một tang gia- trích Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng....................................................................................................................................... 8
3.3 . Kết quả chung của hình thức tổ chức tiếp cận bài học “Hạnh phúc của một tang
gia” từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người theo phương pháp thảo luận.
14
3. 4. Bồi dưỡng nhận thức về những giá trị văn hóa, lối sống văn hóa, cách ứng xử
văn hóa và giữ vững những giá trị đạo đức tốt đẹp............................................................... 15
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường............................................................................................................. 15
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ............................................................................................................ 17
I. Kết luận:............................................................................................................................................. 17
2. Kiến nghị:......................................................................................................................................... 18
2.1. Với giáo viên:......................................................................................................................... 18
2.2. Với các cấp quản lí giáo dục:................................................................................................ 18

1




I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng
đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh
nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật
chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hoá ít nhiều lung lay
lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ
thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của
người thầy.
Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng,
khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình yêu và việc tôn vinh những giá trị của đời
sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu
hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của
học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt
nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn
ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà công nghệ bùng nổ, con người khát khao
vượt thoát những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành
động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân
mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Bên cạnh đó, nếu
không giữ lấy nền tảng đạo đức, không giữ lấy những giá trị căn cốt, con người
sẽ không còn là con người. Một bài học ngữ văn không chỉ đem đến cho các em
tri thức, nhận thức về thiên nhiên, xã hội, con người mà chức năng cơ bản của
nó là bồi đắp cho học sinh những vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm
xúc. Chúng ta có thể đem đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở
việc cảm nhận, mà còn có thể khám phá và giúp các em khám phá con người
bên trong của chính mình, đáp ứng nhu cầu thời đại mới.
Thực tế cuộc sống cho tôi nhận thấy một vấn đề cũng khá nhức nhối: Con
người hiện đại hình như không ít chạy theo lối sống thực dụng và xem nhẹ phần

con người bên trong. Những giá trị chuẩn mực của cái đẹp truyền thống có nguy
cơ bị bào mòn, thay đổi. Con người hiện đại cũng dễ hoài nghi hơn về cuộc
sống, về con người. Giới trẻ có xu hướng kiếm tìm những cái mới mẻ, bề nổi, xu
hướng đám đông… Thực tế này cần được nhìn nhận và điều chỉnh ngay từ khi
các công dân tương lai còn ngồi trên ghế nhà trường.
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy một thực tế, ở nhà trường, môn ngữ
văn vẫn được xem như môn học mà người dạy phải mang đến cho các em hệ
thống kiến thức hàn lâm, các thầy cô về cơ bản vẫn yêu cầu các em phải bắt
buộc thuộc những kiến thức cơ bản, hiểu theo ý nghĩa sao cho chung nhất, để
khi thi cử, không đi lệch với đáp án. Nghĩa là học để thi. Tất nhiên, đề thi những
năm gần đây đã là dạng đề mở, có sự thay đổi linh hoạt, hướng đến sự phát triển
năng lực của người học, nhưng tôi vẫn thấy, học sinh vẫn rơi vào tình trạng học
công thức. Đối với việc thi cử, và nhất là với đối tượng học sinh ít có sự tìm tòi,
sáng tạo, việc dạy như thế, học như thế là “an toàn”. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn,
bên cạnh việc đảm bảo cho các em về vấn đề học – thi – lấy điểm, chúng ta, mỗi
2


thầy cô giáo phải biết khai thác tối đa những ưu thế của môn mình, để không chỉ
đáp ứng nhu cầu mang tính chất “thời vụ”, mà còn “trồng người” bằng cách
khơi dậy những vẻ đẹp đáp ứng với nhu cầu của tương lai, vực dậy những giá trị
có thể mai một đi trong cuộc sống hiện đại.
Từ thực trạng cuộc sống hiện đại với những giá trị đạo đức có nguy cơ bị
đảo lộn hoặc rơi vào tình trạng bị bào mòn, mai một, tôi mạnh dạn đề xuất một
khía cạnh liên quan tới việc giáo dục đạo đức và tư duy tích cực từ người học từ
một tiết giảng văn cụ thể, tôi nghĩ, đây là một việc làm cần thiết.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin trình bày quan điểm của mình về việc
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN VĂN BẢN ĐỌC VĂN (TIẾT 2) HẠNH
PHÚC CỦA MỘT TANG GIA – TRÍCH SỐ ĐỎ - VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ
GÓC NHÌN VĂN HÓA VÀ BÀI HỌC ỨNG XỬ

2. Mục đích nghiên cứu
Học văn, muốn đem đến bất cứ một điều gì, đầu tiên cũng là giải mã văn
bản. Phải tìm con đường giải mã văn bản đơn giản, khoa học, hiệu quả, để đem
lại hứng thú, rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn thơ trữ tình, văn xuôi, kịch,
văn bản nghị luận, chính luận… Khi đọc văn, các em không chỉ chiếm lĩnh tri
thức, mà còn tự bồi đắp tâm hồn, có thể vận dụng tri thức, đem các bài học nhân
sinh rút ra từ văn bản để làm giàu cho cuộc sống. Mục đích của bài đọc này là
đem đến cho học sinh những cái nhìn và tư duy về cách ứng xử, cách sống có
văn hóa, bảo tồn cái đẹp trong con người từ những biểu hiện “lệch chuẩn” người
trong bài học cụ thể: “Hạnh phúc của một tang gia.”
3. Đối tượng nghiên cứu
Từ một bài đọc văn cụ thể, từ kinh nghiệm trong quá trình giáo dục, đề tài
này nghiên cứu và tổng kết về việc cần thiết biết vận dụng những hiểu biết về
văn chương để sống đẹp – sống có đạo đức và văn hóa trong đời thực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp chính: Nghiên cứu, thực nghiệm:
+ Sưu tầm, tập hợp các tư liệu về mục tiêu giáo dục, các bài viết về thực trạng
lối sống thực dụng của con người, về nhu cầu đổi mới con người hiện đại, các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực; Tổng hợp các tài liệu sau khi đọc, vận
dụng vào việc xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài.
+ Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin sau khi đã vận dụng vào bài đọc
văn các cách thức để khơi dậy nhận thức về lối sống và biểu hiện văn hóa ở các
lớp đề án, lớp đại trà…tại trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn – Thanh
Hóa.
+ Thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp và đưa ra kết luận trên cơ sở các thông tin
và số liệu đã có.
- Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn dịch;
Quy nạp.
3



Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát niệm về lẽ sống, lí tưởng, cách ứng xử của học sinh
qua các tình huống thực tế tại trường học.
Bước 2: Dạy thể nghiệm theo bài học theo góc nhìn văn hóa ở một số lớp.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn:
Dạy học văn phải bắm sát đặc trưng thể loại văn bản. Nghiên cứu đặc
trưng thể loại văn học là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học của
thi pháp học.Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( PGS. Lê Bá Hán, GS. TS Trần
Đình Sử, GS Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên): “ Thể loại văn học là dạng thức
của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá
trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ
chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về
tính chất của mối quan hệ, của nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy”
Là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học, thể loại văn học
chính là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản,
một phương thức chiếm lĩnh đời sống. Đây là một trong những phạm trù cơ bản
nhất của sáng tác, nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Người sáng tác
muốn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình trước đời sống phải lựa chọn, một
cách thức tổ chức nào đó phù hợp. Người tiếp nhận muốn giải mã được tầng
hàm nghĩa, thông điệp tư tưởng của nhà văn cũng không thể không xuất phát từ
đặc trưng của thể loại.
Môn Văn là môn học đặc biệt và đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể
thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có

những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có
những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều
cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí. Vì vậy trong học
văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh
là những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho
vấn đề. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con
người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc và phải có nền tảng đạo
đức và văn hóa vững chắc thì việc khơi dậy những thức nhận và ứng xử văn hóa
cho học sinh là vô cùng cần thiết.

4


1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT: Dự thảo chương trình giáo dục
phổ thông nêu rõ:
Mục tiêu của bậc THPT là “giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất,
năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả
năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp
với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học
lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với
những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”.
- Hướng tới hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực chủ yếu của người học:
+ Những phẩm chất chủ yếu : yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách
nhiệm.
+ Những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các môn học
và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự
học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
-

1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học:

- Phương tiện dạy học, phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, cách thức dạy
học là những yếu tố căn bản quyết định đến chất lượng giờ dạy, đến hiệu quả tác
động với học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếp…
Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức
đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Phương tiện cần thiết và phù hợp: SGK, TLTK, SGV, máy chiếu, giáo án điện
tử, bảng…
- “Phương pháp – theo giáo sư Trần Đình Sử - nói chung là cách thức tác động
vào một đối tượng nào đó để đạt đến mục đích. Phương pháp dạy học là một yếu
tố trong quá trình dạy học phụ thuộc vào bản chất của hoạt động dạy học.
Phương pháp được (…) hình dung như một hệ thống các nguyên tắc, cách thức,
biện pháp được sử dụng trong quá trình dạy học. Trong quan niệm dạy học hiện
đại theo mô hình lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể, nhóm hoạt
động thực hành có vị trí chủ đạo, nhóm lời nói và trực quan là phụ trợ”. Việc tổ
chức các bước lên lớp, vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phải sáng tạo,
phù hợp với yêu cầu của bài học, không thể máy móc áp dụng theo một thứ tiêu
chuẩn cứng nhắc, hướng học sinh tới mục tiêu giáo dục hiện đại: Phẩm chất và
năng lực của con người.
1.4. Xuất phát từ nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay:
Nhu cầu bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát
huy tiềm năng học tập, khả năng phản biện vấn đề. Học sinh ngày nay luôn có
nhu cầu tự bộc lộ mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích
lệ, có hứng thú. Các em không thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người
khác. Cũng không muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích
5


tìm lí lẽ của riêng mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách
cảm, cách nghĩ táo bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền
thống, lạc hậu nên nhiều khi vô tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Cũng

có thể, lối suy nghĩ của các em chịu ảnh hưởng và tác động của thực tế cuộc
sống hiện đại, nhiều khi rất thực dụng. Nhiệm vụ của người dạy văn là dẫn dắt,
định hướng, thuyết phục để học sinh hiểu, chấp nhận và tự tìm giải pháp đúng
đắn, hành động đúng đắn
Với đặc thù của bộ môn ngữ văn, với yêu cầu của thực tiễn khách quan,
yêu cầu về con người, yêu cầu về mục tiếu giáo dục…mỗi thầy cô giáo cần phải
phát huy những điểm mạnh của bộ môn mình và hướng tới mục đích giáo dục
toàn diện.
2. Thực trạng vấn đề
- Từ quá trình khảo sát tài liệu sách giáo khoa, từ quá trình giảng dạy các ở
cả ba khối, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Trong chương trình ngữ văn THPT, các bài đọc văn thuộc đủ thể loại và các
kiểu dạng: văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi, kịch); văn bản chính luận, văn bản
nhật dụng, văn bản phê bình…Khi dạy học các bài đọc văn, các thầy cô giáo chủ
yếu hướng học sinh đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, từ đó mà hướng
tới mục tiêu giáo dục nhận thức, ý thức ở người học là chính.
+ Nhiều thầy cô giáo chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức, hướng học sinh
đến việc hiểu văn bản, thể hiện việc học tập, vận dụng kiến thức đã học để viết
bài kiểm tra, thể hiện lại việc nắm kiến thức, hiểu bài…chứ chưa có mấy thầy cô
chú ý đặc biệt tới việc rèn luyện các kĩ năng khác như đọc, giao tiếp, làm việc
nhóm, thể hiện suy nghĩ cá nhân khác với những gì quen nhìn, quen hiểu, thành
ra, tính sáng tạo ở người học, sự phát hiện riêng ở mỗi cá nhân chưa được khai
thác đầy đủ, các em bị nghĩ theo một lối tư duy, ép phải “thấy” như “người ta
thấy”, mà thực sự không thoải mái, không hài lòng, vì các em chưa được đi tìm,
chỉ là công nhận kết quả. Cái này một phần ở hệ thống kiến thức phải tiếp nhận
còn nặng nề, tâm lí học để thi cử, một phần do lối mòn dạy học tạo nên.
+ Việc dạy học ngữ văn còn vấp phải những rào cản lớn không thể không kể
đến, đó là thói quen thụ động trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của học sinh,
đặc biệt, sự lép vế của các môn xã hội trong xu hướng chọn ngành nghề dấn đến
không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, đam mê môn Văn.

+ Trong khi đó, tư duy độc lập, góc nhìn con người cá nhân, ý kiến riêng của
người viết lại vô cùng cần thiết, trước hết là ở ngay trong chính những bài thi, đề
thi, đáp ứng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong những năm gần đây, Bộ
GD&ĐT yêu cầu toàn ngành phải có những đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh.
Theo đó, hướng kiểm tra, đánh giá, ra đề thi của môn Ngữ văn có mấy điểm tích
cực sau đây :
* Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong
suy nghĩ, luận giải của học sinh. Không có một đáp án duy nhất, chỉ cần học
sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ của
mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao.
6


* Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới, với yêu cầu chống việc
học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học sinh có kiến thức cũng chưa
chắc đã làm tốt được mà đòi hỏi phải có khả năng vận dụng kiến thức một cách
linh hoạt sáng tạo.
+ Thực tế cuộc sống cũng cho chúng ta thấy một điều, học sinh dám nghĩ, dám
nói những điều mà các em thấy, các em hiểu, thậm chí có thể thấy và hiểu sai
lệch, vẫn dám thẳng thắn ra ý kiến, lập luận cho bằng thuyết phục điều mà các
em cho là đúng. Nhiều khi, nó đi ngược lai với những giá trị truyền thống.
Nhiệm vụ của chúng ta là phát huy suy nghĩ độc lập của các em, nhưng dẫn dắt
và định hướng để các em nghĩ theo chiều hướng tích cực nhất, bảo vệ những giá
trị cơ bản của cuộc sống được phản ánh trong văn chương và cũng từ những
hiểu biết trong tác phẩm, các em bước ra ngoài cuộc sống tốt hơn, tích cực hơn.
- Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn trăn trở, kiếm tìm những giải pháp cho
mỗi giờ học, nhằm kéo học sinh trở về với niềm yêu thích môn văn, truyền cho
các em hứng thú tìm hiểu các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của một văn bản văn học,
gắn văn chương với đời sống, không chỉ học để thi, không biến giờ học chỉ để
“tải đạo”, “ngôn chí” mà để sống trong đời thực sao cho vừa hiện đại, vừa gìn

giữ được những tiêu chí căn cốt của con người trên cơ sở những giá trị đạo đức
tốt đẹp. Ở phạm vi của đề tài, tôi cố gắng chuyển hoá ý tưởng bằng việc lồng
ghép mục tiêu dạy học, hình thành cho học sinh những năng lực tư duy độc lập
bồi đắp ở học sinh những quan điểm, tư tưởng tích cực, góp phần hình thành
phẩm chất người học hiện đại trong một thiết kế giờ dạy đọc văn. Tôi vận dụng
kết hợp các phương pháp, phương tiện, kĩ thuật, kiến thức liên môn trong từng
phần của thiết kế. Tôi chú trọng khai thác tư duy độc lập của học sinh và hướng
các em tới những giá trị văn hóa ứng xử trong một vài điểm nhấn của bài đọc
văn. Bước đầu, tôi đã thu nhận được những kết quả đáng ghi nhận từ đối tương
là học sinh của trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
- Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện, Tạo
không khí đối thoại tự do, dân chủ.
- Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện: Vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực trong tiết đọc văn cụ, hướng tới các mục tiêu khác nhau, trong đó
có mục tiêu rèn luyện tư duy phản biện, khả năng phản biện của học sinh. Các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: nêu vấn đề, nêu câu hỏi, kĩ thuật
mảnh ghép, khăn phủ bàn, động não (hay công não), bể cá, hay tia chớp…
Trong giới hạn của đề tài này, tôi muốn đi sâu vào khai thác bài học Hạnh phúc
của một tang gia nhìn từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người.
- Bồi dưỡng ý thức học văn là học đời sống, học cách ứng xử văn hóa, học đạo
đức làm người hiện đại bên cạnh những năng lực khác mà con người hướng tới.
- Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển con người văn hóa, con
người đạo đức phẩm chất tốt đẹp trong mỗi học sinh.

7


3.1. Khái niệm, giá trị và tiêu chí xác định Văn hóa ứng xử, đạo đức con
người trong cách nhìn khoa học

- Văn hóa ứng xử là hành vi ứng xử, cách ứng xử của con người đạt giá trị
chuẩn mực văn hóa chân - thiện - mỹ của một cộng đồng xã hội, tức là ứng xử
có văn hóa.
- Đối với mỗi cá nhân con người, văn hóa giao tiếp, ứng xử không chỉ ảnh
hưởng đến cuộc sống đời thường hàng ngày, mà còn quyết định đến hiệu quả
làm việc ở cơ quan và xã hội cũng như mức độ thành công trong sự nghiệp của
người đó. Kỹ năng giao tiếp - văn hóa ứng xử thể hiện rõ rệt về năng lực trí tuệ,
khả năng tư duy và ứng xử văn hóa của con người, bộc lộ khả năng của người
đó trong thực tiễn cuộc sống công tác ở cơ quan, công sở cũng như trong gia
đình, ngoài xã hội.
- Qua cách ứng xử của một con người, ta hiểu được bản chất của con người đó.
Đây chính là mối quan hệ giữa nội dung (bên trong) và hình thức (bên ngoài)
của một người.
- Ngày nay, con người Việt Nam giao tiếp trong môi trường giao lưu hội nhập
quốc tế, cần phải phát triển văn hóa ngoại giao, văn hóa đối ngoại, ứng xử văn
hóa trong các quan hệ quốc tế, phát triển sức mạnh mềm của văn hóa dân tộc.
- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống các
quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình cho phù họp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”Ngày nay, sự phát triển
của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các quy tắc, chuẩn mực của đạo
đức dần biến đổi. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa là các giá trị đạo đức
cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các giá trị đạo đức mới. Các giá trị đạo đức ở
Việt Nam hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù, sáng
tạo, yêu lao động; tình yêu quê hương, đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội;
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống văn minh, lành mạnh;
có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả.
=> Hướng đến xây dựng con người mới nhất thiết không thể không chú trọng
giá trị văn hóa và đạo đức con người.

3.2 Rèn luyện và xây dựng ý thức ứng xử văn hóa và đạo đức cho người học
trong một bài đọc văn cụ thể: Hạnh phúc của một tang gia- trích Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng.
- Tiến hành bài học theo giáo án đã soạn với các bước của một giáo án hướng tới
sự phát triển năng lực của người học ( Phụ lục đính kèm)
- Tiến hành thảo luận Socratic trong tình huống sau:
3.2.1 Phân tích mâu thuẫn trào phúng trong tác phẩm: Tình huống ông cụ già
chết và cách thức tổ chức cũng như tâm trạng của đám con cháu.

8


Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc và tự tìm lời giải đáp cho câu
hỏi tình huống của mình. Mỗi câu hỏi đặt ra, đều có những gợi ý trong quá trình
học sinh trình bày.
GV đặt câu hỏi:
Nhóm 1 : Phân tích và bình luận câu văn mở đầu đoạn trích “ Ba hôm sau ông
cụ già chết thật”. Em nhận thấy thái độ và giọng điệu của nhà văn như thế nào?
Em hình dung điều gì về đạo đức của “tang gia” ấy?
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
? Có bạn nào nhận thấy ở câu mở đoạn có điều gì bất thường không? sao lại
chết thật, thế là có giả đúng không? Hiểu câu văn đó là lời của ai?
+ Với câu gợi ý này, học sinh có thể nhìn nhận ra ngay vấn đề: Hẳn là người ta
mong đợi cái chết này lâu rồi, mãi đến nay “ ông cụ già” mới chịu chết cho. Học
sinh cũng có thể nhìn ra, nhà văn đã thấy rõ sự “hiếu thảo” của đám con cháu
nên câu văn bật thốt như một tiếng thở phào nhẹ nhõm, vui mừng khôn xiết.
+ Với câu hỏi này, học sinh đã phát hiện được câu văn viết ra là của nhà văn,
nhưng lại mô phỏng giọng điệu và thái độ của người thân ông cụ già.Giọng điệu
khách quan bên ngoài, lạnh lùng ghi chép, nhưng thực chất là một câu mai mỉa,

chua chát, cay đắng khi nhận ra bộ mặt thật của lũ con cháu bất hiếu.
Các em đã có một cuộc thảo luận sôi nổi về cách đối xử với người thân đã
mất, thái độ nên có, cần có khi có tang gia, cách ứng xử của bản thân với hình
thức thái độ của chính mình, cách biểu hiện tình cảm với người quá cố…Trong
cuộc thảo luận, các em đã sôi nổi bàn về cái các em thấy ở một đám tang người
cao tuổi đã ốm bệnh lâu rồi, đám tang của người trung tuổi mất đột ngột…để
thấy cuộc sống cũng lắm kiểu người, và biểu hiện cũng muôn vàn cách biểu
hiện.
(Khi các em thảo luận, cắt nghĩa, giáo viên gợi ý cách ứng xử và thái độ cần có
của mỗi chúng ta khi gia đình hoặc xung quanh có việc hệ trọng. Đám tang dù
người quá cố văn số hay thọ trường, thái độ cần thiết là trang nghiêm, thành
kính hoặc ít nhất là sự nghiêm túc trong nét mặt, cử chỉ, lời nói.)
Mỗi học sinh trong nhóm đều tích cực đưa ra các kiến giải của mình, lắng nghe
bạn học trình bày ý kiến, ghi chép phân tích và đi đến kết luận về thái độ của
đám con cháu, chân dung đạo đức của đám con cháu nhà có người quá cố.
GV củng cố lại bằng cách hỏi một vài học sinh những kết luận cơ bản về
Đây là kết quả của một phiếu học tập của học sinh sau quá trình thảo luận

9


Nhóm 1: Phân tích và bình luận câu văn mở đầu đoạn trích “ Ba hôm sau ông cụ già chết
thật”. Em nhận thấy thái độ và giọng điệu của nhà văn như thế nào? Em hình dung điều gì
về đạo đức của “tang gia” ấy?
- Chết thật:
+ Ngôn từ lạ, thật, gợi người ta nghĩ đến cái giả
+ Chết thật (rồi): tiếng reo, tiếng thở phào => thể hiện sự mong chờ
Châm biếm, chua chát. Nhà văn miêu tả với ngòi bút kí sự, vẻ ngoài khách quan, lạnh
lùng, nhưng ẩn đằng sau là thái độ lên án, đả kích.
-Đạo đức của tang gia sơ bộ hiên ra qua câu văn đầy chất kí: Không xót thương, không

lưu luyến mà thực sự vui mừng.
=> Trái lẽ thường, đáng phê phán. Biểu hiện của đạo đức xuống cấp, của sự vô cảm.

Nhóm 2
- Truy tìm lí do tại sao cái chết của ông cụ già lại được mong chờ đến thế? Em
suy nghĩ gì về những “giá trị” đích thực trong cuộc sống? Lí do ông cụ già chết
cho em những suy ngẫm gì về nền tảng văn hóa phải tạo dựng ở con người?
+ Khai thác hai câu sau:
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
* Nguyên do của niềm mong chờ là tiền tài, gia sản mà ông cụ để lại
* Có bạn học sinh đã nghĩ rằng đó là biểu hiện không lạ, vì tiền ai chẳng thích,
ông cụ thì đã già rồi. Ý kiến của em như thế nào?
- Các em học sinh lí trả lời câu hỏi của cô giáo, các học sinh khác bày tỏ băn
khoăn bằng câu hỏi, tìm cách lí giải. Vấn đề dần được làm sáng tỏ.
- Sau khi thảo luận, học sinh rút ra kết luận và tập trung đến cách hiểu câu hỏi
tình huống.
- Kết quả thảo luận mà học trò tự rút ra trên phiếu học tập

10


Nhóm 2
-Truy tìm lí do tại sao cái chết của ông cụ già lại được mong chờ đến thế? Em suy nghĩ gì về những “giá trị”
đích thực mà con người phải trân trọng trong cuộc sống? Lí do ông cụ già chết cho em những suy ngẫm gì về
nền tảng văn hóa phải tạo dựng ở con người?
- Lí do cái chết được mong chờ:
+ Tờ di chúc đã tới lúc được thực hiện
+ Cơ hội lớn lao để thân quyến diễn trò, trục lợi.
- Giá trị của cuộc sống mà gia đinh ấy tôn thờ là đồng tiền, trái với giá trị mà truyền thống người Việt nâng

niu là tình thân, tình thương, tình người, là nhân cách người. Cái quan trọng ở cuộc sống mỗi người chính là
đạo đức, nhân cách, là cách ứng xử, đối đãi với nhau đầy tình nghĩa.
- Con người cần phải xây dựng một nền tảng văn hóa: đó là nhận thức về giá trị trong cuộc sống cần theo
đuổi; đó là những tiêu chí ứng xử quan trọng, đó là những tình cảm tốt đẹp: tình yêu thương, sự quan tâm, sẻ
chia, đồng cảm, tình thân, tình người.

Nhóm 3: Tìm những từ ngữ miêu tả thái độ của đám con cháu và nhận xét về
thái độ đó. Cách ứng xử của những con người đó nói gì về đạo đức và lối sống
thực của một bộ phận người?
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
- Có ý kiến cho rằng, người chết thì cũng đã chết rồi, buồn cũng không sống
lại, vậy thì phải chấp nhận sự thật? Ý kiến của anh chị?
Hs đã thảo luận bày tỏ quan điểm, đi tìm chân lí bằng cách lắng nghe,
sàng lọc, phân tích và rút ra kết luận chung
GV gọi học sinh trình bày kết luận. Kết quả trên phếu học tập của một
học sinh:
Nhóm 3
- Tìm những từ ngữ miêu tả thái độ của đám con cháu và nhận xét về thái độ đó. Cách ứng xử của những con
người đó nói gì về đạo đức và lối sống thực của một bộ phận người?
– Thái độ, cảm xúc của đám con cháu “chí hiếu”:
+ “vui vẻ cả”, “sung sướng lắm”, “vui sướng thỏa thích”, “sung sướng cực điểm”, “tưng bừng vui vẻ”…
- Niềm vui không cần che đậy, nó bộc lộ trong trạng thái, hành động, xúc cảm. Thực ra thời điểm hiện giờ,
thái độ này vẫn tồn tại đâu đó. Người ta vì mải mê với lợi ích vật chất nên quên hẳn người chết, chỉ nghĩ đến
cái lợi của mình.
+ Hiện tượng anh chị em bàn nhau chia chác tiền phúng điếu gây ra mâu thuẫn
+ Hiện tượng anh em, người thân lôi nhau ra tòa vì tài sản của người đã khuất
+ Hiện tượng con cái đối xử bất hiếu với bố mẹ già khi họ còn sống, chiếm hữu tài sản của đấng sinh thành…
=> Không thể chấp nhận

Nhóm 4: Nhận xét về ý nghĩa của việc giới thiệu tình huống cái chết của ông cụ

già? Việc giới thiệu một tình huống như thế cho thấy có phản ánh cái nhìn tiêu
cực bi quan về cuộc sống hay không?
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
- Có bạn cho rằng, Vũ Trọng Phụng là nhà văn có cái nhìn tiêu cực, nhìn như
thế dễ khiến cho người đọc bi quan về con người. Ý kiến của anh chị.
11


thế nào trong thời đại hôm nay?
- Với bài kiểm tra nhỏ này, các em có thể trình bày lập luận phản biện, trình
bày quan điểm, ý kiến riêng, có thể đồng tình với khía cạnh nào đó, có thể bổ
sung cho ý tưởng thêm rõ ràng, có thể phát triển thêm những khía cạnh mới.
- Kết quả bài tập của học sinh
Nhóm 4 : Nhận xét về ý nghĩa của việc giới thiệu tình huống cái chết của ông cụ già?
Việc giới thiệu một tình huống như thế cho thấy có phản ánh cái nhìn tiêu cực bi quan về
cuộc sống hay không?
- Làm bộc lộ các mâu thuẫn trào phúng và làm đậm nét hàng loạt chân dung hài hước.
- Cái nhìn hiện thực, rất thực. Có thể đó là điều không đem đến niềm vui, nhưng nó đưa
đến cho độc giả cái nhìn thực tế. Phản ánh một hiện tượng xấu để người đọc nhìn vào mà
thay đổi, mà hướng tới cái thiện, cái đẹp. Tình huống truyện khiến tư tưởng của tác giả
đến với bạn đọc mãnh liệt hơn, ấn tượng hơn.
- Giá trị của văn chương là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Phê phán cái xấu là để nhận
thức về thực tế đáng buồn mà hướng tới cái đẹp, xây dựng cái tốt.

=> GV sơ đồ hóa tình huống đầy kịch tính trong chương trích để học sinh rút ra

những nhận xét quan trọng và ghi vào vở mục thứ nhất của bài học.

Bình thường
(Bên ngoài)

Cụ cố tổ chết

Bất bình thường
(Bên trong)
“Chết thật”

Cụ cố tổ được đem

Người ta tưng bừng,

đi chôn

vui vẻ đi đưa giấy

Tổ chức đám tang

cáo phó
Con cháu vui mừng
khôn xiết

3.2.1 Phân tích Hạnh phúc của tang gia - Những chân dung trào
phúng theo hệ thống câu hỏi thảo luận sau đây

12


Hãy tìm hiểu các chân dung cụ thể theo sơ đồ sau:
Nhân vật

Bình thường

(Bên ngoài – hợp với nhà
có tang)

Bất bình thường
(Bên trong – trái quy luật, trái
lẽ thường)

Nhận xét

Nhóm 1: Cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh và ông TYPN. Nhà văn nói gì qua những chân dung ấy? Bài học em thức
nhận được là gì?
Nhóm 2: Cô Tuyết, cậu Tú Tân, ông Phán mọc sừng. Những nhân vật này cho em thấy gì về sự thực của một kiểu
người trong xã hội hiện đại? Thông điệp em nhận được từ việc tìm hiểu những bức chân dung lố bịch này? Nhóm 3:
Xuân tóc đỏ, cảnh sát, bạn bè cụ cố Hồng. Đám đông cho em bài học gì về văn hóa ứng xử nơi công cộng trước những
việc đau buồn? Nhóm 4 : Sư cụ Tăng Phú, hàng phố, đám “giai thanh gái lịch” . Đám đông cho em bài học gì về văn
hóa ứng xử nơi công cộng trước những việc đau buồn?

Với hệ thống câu hỏi cho các nhóm như trên, giáo viên cho các em thực hiện
vào phiếu bài tập, sau đó gọi một hai học sinh của mỗi nhóm trình bày, gọi
học sinh nhóm khác nhận xét, cùng các nhóm khác thảo luận, rút ra những kết
luận cơ bản.
Nhóm 1, kết quả của một phiếu học tập như sau:
Nhóm 1: Những điều nhà văn nói qua những chân dung
- Đám con cháu, mỗi người mỗi kiểu, mỗi vẻ, bề ngoài buồn rầu, cau có, đăm chiêu, gắt gỏng, bên trong lo lắng, băn
khoăn, sốt ruột vì cái cớ hoàn toàn khác, khác hẳn với thái độ và tình cảm của một nhà có tang thông thường
- Sự xuống cấp về đạo đức là một sự thật không thể phủ nhận được, cần phải nhận thức điều này trong xã hội hiện đại,
khi tư tưởng thực dụng lấn án những tình cảm đạo đức tốt đẹp trong mỗi con người.
Bài học em thức nhận được là:
- Phải đặt con người trong các tình huống cụ thể
- Phải đối xử với người thân cho xứng đáng cụm từ người thân

- Phải có trách nhiệm với người đã gắn bó và yêu thương mình.

Nhóm 2, kết quả của một phiếu học tập như sau:
Nhóm 2: Những nhân vật này cho em thấy gì về sự thực của một kiểu người trong xã hội hiện đại?
Thông điệp em nhận được từ việc tìm hiểu những bức chân dung lố bịch này?
* Kiểu người:
- Kiểu người bất chấp hoàn cảnh, lo thú vui của bản thân
-Kiểu người trục lợi ngay cả lúc đau buồn, tang thương nhất. * Thông điệp:
-Phải chế ngự lòng tham, tiêu diệt lòng tham lợi lộc vật chất, nếu không nó sẽ phá hủy những biểu hiện
và cái đẹp nơi con người
- Những kẻ trục lợi từ mọi hoàn ảnh kể cả tình huống đáng lẽ phải đau buồn nhất không phải là hiếm
trong xã hội kim tiền, cần nhìn thẳng vào để có cách sống cho phù hợp
- Nhân cách người không phải là thứ có được trong một sơm một chiều, nhưng lòng tham sẽ đè bẹp tất
cả có thể trong một khoảnh khắc. Vật chất không thể đem đánh đổi nhân cách…

13


GV cho học sinh nhóm 3, nhóm 4 trình bày những phát hiện về chân dung của
các nhân vật theo bài tập đã giao. Sau khi hs trình bày xong, gv đặt câu hỏi
cho cả lớp:
Nhận xét chung về điểm giống nhau của các nhân vật trong và ngoài
tang quyến?
Hs sẽ trử lời và gv hướng đến kết luận sau.
– Tất cả đều sung sướng và hạnh phúc không kém gì những người trong tang gia.

– Sự xuống cấp trong giá trị đạo đức của con người khi cái chết của người này lại
trở thành hạnh phúc của người kia. Và giây phút đau thương ấy đã trở thành một
ngày hội tưng bừng.


GV Tổng hợp kết luận của Nhóm 3, nhóm 4 ở nửa sau của bài tập đã giao
chung:
Câu hỏi chung cho nhóm 3, 4: Đám đông cho em bài học gì về văn hóa
ứng xử nơi công cộng trước những việc đau buồn?
Các em trình bày riêng, gv lắng nghe và thực hiện thao tác tóm tắt ý ngay
trên máy tính, dùng bảng chiếu trình chiếu PowerPoint cho học sinh thảo luận,
bổ sung.
Nhóm 3, 4: Đám đông cho em bài học gì về văn hóa ứng xử nơi công cộng trước những việc
đau buồn?
- Tò mò, hiếu kì thái quá sẽ dẫn đến ứng xử thiếu chuẩn mực, sự thích thú và tính hiếu kì sẽ
trở thành sự kì quái và lố bịch nếu ta không chú ý đến hoàn cảnh.
- Chỉ chú ý đến mục đích cá nhân sẽ lãng quên hoàn cảnh, dẫn đến cách ứng xử thiếu văn
hóa.
- Trong các hoàn cảnh khác nhau, phải biết cách điều chỉnh mình cho phù hợp, từ cách ăn
mặc, cách nói, lời nói, thái độ cử chỉ…Những chuẩn mực đạo đức, những quan niệm về văn
hóa, những giá trị tốt đẹp của cuộc sống được cộng đồng tôn trọng thì cá nhân phải thực
hiện.
- Đời người có nhiều cái khiến ta tự hào, hãnh diện, nhưng không phải lúc nào cũng đem đi
khoe, đi trưng bày mới là cách thể hiện hay khẳng định mình…

3.3 . Kết quả chung của hình thức tổ chức tiếp cận bài học “Hạnh phúc của một
tang gia” từ góc nhìn văn hóa ứng xử và đạo đức con người theo phương pháp
thảo luận.
- Học sinh làm việc sôi nổi, tích cực, giờ học sinh động, thoải mái, cởi mở.
- Mỗi học sinh đều cố gắng đưa quan điểm của cá nhân, chất vấn, đối thoại, lí
giải, phân tích để cùng tìm kiếm những giá trị của văn bản
14


- Những học sinh nhút nhát, ít bộc lộ cũng tích cực tham gia. Việc bày tỏ quan

điểm riêng, nhìn nhận lại vấn đề trở thành nhiệm vụ của người học.
- Các em nhận ra mình có quyền được nhìn nhận khác biệt và quan trọng là dám
đưa ra những suy ngẫm của bản thân, chia sẻ để được lắng nghe và rút ra kết
luận trên cơ sở tôn trọng và khai thác ý kiến của những người xung quanh.
3. 4. Bồi dưỡng nhận thức về những giá trị văn hóa, lối sống văn hóa, cách
ứng xử văn hóa và giữ vững những giá trị đạo đức tốt đẹp.
- Khi kết thúc tiết học, ngoài hướng dẫn củng cố, giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh hiểu, việc nhận thức văn bản, đọc hiểu văn bản rất cần tư duy, vốn
sống, năng lực của cá nhân. Cần phải đặt văn bản vào những tình huống có vấn
đề, đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy. Quá trình chất vấn, lập luận, phân
tích sẽ giúp mỗi chúng ta tự ngộ ra chân lí và không có cảm giác phải hiểu văn
bản một cách khiên cưỡng, ép buộc. Có cái nhìn khác biệt, biết cách đặt ngược
lại vấn đề chính là nhìn đối tượng đa chiều, điều này vừa giúp các em chính xác
trong nhận thức, vừa giúp các em rèn luyên các năng lực giao tiếp, năng lực
làm việc nhóm, năng lực tổ chức…Khi tiếp cận với các văn bản, các em cần
phải nhìn ra được những bài học đạo đức, những giá trị tốt đẹp để phát huy, rèn
rũa, biết dùng tiếng nói cá nhân của mình để mạnh mẽ lên án cái xấu, cái ác,
cái bất công tàn nhẫn.
- Khi kết thúc tiết đọc văn, cũng không nên quên hỏi học trò những câu hỏi bên
lề như: giờ học hôm nay các em có thấy thoải mái không? Có còn điều gì, chỗ
nào khiến em băn khoăn và cần phải làm sáng tỏ hơn nữa? Cần nghĩ thêm để
vào thời điểm khác chúng ta sẽ cùng quay lại? Đặc biệt nhấn mạnh để các em
quan tâm đến cánh ứng xử có văn hóa từ những cái “hỏng” cái “ thủng”của
các nhân vật được đề cập đến trong Hạnh Phúc của một tang gia.
- Khi dạy học các giờ đọc văn khác, có thể gợi ý và tổ chức để các em quay lại
những tình huống có vấn đề liên quan đến bài học mới để so sánh, liên hệ, cắt
nghĩa làm sáng tỏ.
- Trong các giờ làm văn,cần đưa ra tình huống có vấn đề, để các em được
quyền bày tỏ cái nhìn và nhận thức riêng, chú ý hướng dẫn các em cách tổ chức
lập luận để trình bày góc nhìn khác biệt, thậm chí đối lập với cái nhìn “phổ

thông” của số đông, số nhiều. Luôn nhớ đến việc hướng học sinh đến những
mục tiêu giáo dục nhân cách và quan tâm đặc biệt đến lối sống, lối ứng xử văn
hóa được gợi ra trong bài học này.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát với học sinh 3 lớp 11 B2,
11 B3, 11B4, năm học 2019 - 2020 sau khi các em học chương trích Hạnh
Phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng. Lớp 11 B4 dạy học thông
thường; lớp 11 B2, B3 dạy học tiếp cận văn bản nhìn từ góc độ văn hóa và đạo
đức.

15


+ Với lớp 11 B4, lớp đại trà, khối C, sĩ số 37 khi học văn bản, các em tiếp nhận
với thái độ dò xét, rất chăm chú lắng nghe, ghi chép, học tốt nội dung kiến thức
nhưng ít sôi nổi vì tạp trung vào tiếp nhận và phân tích kiến thức trọng tâm cơ
bản.
+ Với lớp 11 B2, 11B3 học sinh được tạo một không khí cởi mở, giờ học mang
tính trao đổi, tranh biện, các em rất hứng thú lắng nghe, hứng thú bày tỏ, hứng
thú phân tích và tổng hợp từ các ý kiến để rút ra kết luận.
Kết quả:
Lớp
Lắng
nghe
Hỏi, tranh
luận.
Thống
nhất


hài lòng
với
kết
quả

11B2(24 hs)
100%

11B (36 học sinh)
100%

11B4 (37 học sinh)
96%

(73%)

(67,6%)

(11%)

100%

78%

71%

Trên đây là những việc tôi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình trong một
tiết học văn. Qua thực tế thao giảng lớp 11 B2, giờ dạy lớp 11 B3, 11 B4 cũng
trong năm học 2018 -2019, tôi nhận thấy kết quả giờ học đã đổi thay rõ rệt. Cụ
thể, những câu hỏi tôi đặt ra khi chưa thực hiện đề tài và khi thực hiện đề tài

(như thống kê ở phần đầu SKKN) đã có kết quả là câu trả lời khác biệt. Sự thay
đổi thể hiện rõ trong quá trình theo dõi giờ học khi thực hiện giáo án thử
nghiệm:
- Về tâm lí, thái độ: Học sinh từ ít hứng thú với giờ văn ... sang háo hức,
thích thú
- Về nhận thức: Từ chưa thấy được giá trị của việc học giờ văn, chỉ quan
tâm đến điểm số, chỉ chú ý các bài học để kiểm tra... sang quan tâm đến những
giá trị khác ngoài văn bản, thấy được cái hay cái đẹp trong thế giới của sự sống.
Học sinh thấy rõ việc học một tác phẩm không chỉ học để biết, mà học để sống,
để rèn luyện.
- Hành vi: Từ ngần ngại chờ đợi thầy cô giảng giải, phân tích, không vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp sang tích cực tham gia các hoạt động
xây dựng giờ học, chủ động thể hiện năng lực cá nhân qua việc bàn luận, nhận
xét, đánh giá, sáng tạo, các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức, viết bài.
Kết quả kiểm tra bài văn được tổ chức dạy học tích cực cũng thay đổi rõ
rệt. Có thể so sánh kết quả của 11 B3, 11 B4 - các lớp khối C với chất lượng mặt
bằng tương đối đồng đều ( khi chưa thực hiện giáo án thử nghiệm) - với lớp 11
B2 (khi thực hiện giờ dạy với giáo án thử nghiệm – tiết thao giảng)
Lớp

Sĩ số Kết quả bài kiểm tra bài những bài học văn hóa ứng

16


xử mà anh chị rút ra từ học chương trích Hạnh Phúc
của một tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Điểm giỏi
2
( 5,5%)


Điểm khá Điểm tr.b
14
16
(38,8%) (44,5%)

Điểm yếu, kém
4
(11%)

11 B4
Đối chứng

36

11 B3
Đối chứng

37

1
(2,7%)

17
(45,9%)

10
(27%)

9

(24,3%)

11 B22
Thực

24

5
(20,1%)

14
(58,8%)

5
(20,1%)

0

nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Với những suy nghĩ và định hướng về cách dạy học từ một bài đọc cụ
thể như đã trình bày ở trên, tôi nhận thấy việc học văn với các em không quá
khó, quá nhọc nhằn. Việc dạy văn, “học văn trở thành niềm vui chiếm lĩnh sự
sống chứ không phải gánh nặng trau dồi tri thức”.Tiếp cận văn bản từ các góc
nhìn văn hóa, đạo đức để dạy cho học trò không chỉ hiểu biết mà còn nuôi
dưỡng trưởng thành, vận dụng trong cuộc sống là nhiệm vụ rất đặc biệt của dạy
học văn. Tất nhiên, phải biết vận dụng tốt các phương pháp dạy học. Ở bài học
này, tôi đã vận dụng tốt các phương pháp dạy học, các thiết bị cần thiết, các kiến
thức liên môn vừa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới, đảm bảo nguyên lí học đi

đôi với hành, vừa phát triển được năng lực cá nhân theo hướng bồi dưỡng trí tuệ
cảm xúc và rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp một cách linh hoạt. Dạy đọc – hiểu
một văn bản theo đặc trưng thể loại, vận dụng tích hợp các kiến thức, ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học, đặc biệt là hình thức tổ chức thảo luận
Socratic phát huy tư duy phản biện đem lại hứng thú khám phá cho người học
là nỗi niềm trăn trở của đại đa số những ai đã sống với nghiệp văn chương,
không chỉ là tôi. Tôi tin, các thầy cô giáo đứng trước mỗi bài học đều có cách
thức, phương pháp để đem đến sức hấp dẫn và hiệu quả cao nhất cho bài dạy mà
mục đích là đem đến cho học sinh những giá trị tích cực nhất để sống, để làm
người đúng nghĩa. Đề tài của tôi không phải là bước đột phá hay độc đáo, nhưng
nó là kinh nghiệm dạy học mà tôi rút ra cho chính mình, với mong muốn đem
đến những thay đổi trong cảm xúc và nhận thức của học sinh ở giờ học văn
trong bối cảnh hiện nay.
2. Kiến nghị:
2.1. Với giáo viên:
Với mỗi văn bản, giáo viên có thể linh hoạt trong cách tổ chức giờ đọc
hiểu và sáng tạo trong thiết kế giáo án, không nên áp dụng máy móc, cứng nhắc
17


các phương pháp tránh gây ra sự phản cảm cho việc tiếp nhận tri thức thẩm mĩ ở
học sinh. Giáo viên cần khuyến khích, đồng hành để học sinh tự tin hơn, biết
phản biện các vấn đề học tập và trong cuộc sống. Để cách làm này được thành
công, giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn cần có một lộ trình cụ thể và kiên trì
thực hiện. Có làm được như thế thì học sinh mới có đủ tự tin và mạnh dạn phản
biện để bộ môn Ngữ văn ngày càng thu hút hơn, thực sự là phương tiện ngôn
ngữ để học sinh tự tin và biết phản biện cho tất cả các môn học khác.
2.2. Với các cấp quản lí giáo dục:
- Trường học nên mua thêm các sách tham khảo về đổi mới phương pháp dạy
học, các tài liệu chuyên ngành chuyên sâu để phục vụ tốt công tác dạy và học

- Cần sớm thay đổi chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn theo hướng thiết
thực, hiệu quả hơn, hướng đến phát triển năng lực người học và phẩm chất
người học
- Nhà trường cần quan tâm hơn đến công tác này.
Trên đây là một số đề xuất của chúng tôi. Đề tài còn nhiều hạn chế, mong
nhận được sự góp ý, xây dựng của đồng nghiệp để được phát triển khoa học hơn, có
tính khả thi cao hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 6 năm
2020
TÔI XIN CAM KẾT KHÔNG COPY

Nguyễn Thị Hằng

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất
bản Giáo dục
2.

Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất bản

Giáo dục
3.


Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 11,

Nxb Giáo dục.
4. Tài liệu Skkn phát huy khả năng phản biện của học sinh thpt trong dạy
học văn ( Nguồn Internet)
5. Phan Trọng Luận ( chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1, Nxb
Giáo Dục Việt Nam.
6.

Trần Đình Sử, Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn,

7.

Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ

Văn học, Nxb Giáo dục.
8.

Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Quốc gia Hà Nội

9. Phát triển tư duy phản biện trong dạy học văn qua hình thức thảo luận
Socratic ( Nguồn Internet)
10.

Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn THPT

Nguyễn Thúy Hồng Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục 2008
11.

Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường Nguyễn


Huy Quát - Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo Dục- 2001.
12.

Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa- Lê Nguyên Cẩn – Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia

Phụ lục đính kèm Giáo án điện tử Hạnh Phúc của một tang gia

19


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: TPCM, giáo viên giảng dạy.

SÁNGTrườngKIẾNTHPTKINHLêHồngNGHIỆMPhong.

TT

1.


Cấp đánh giá xếp
loại

Tên đề tài SKKN

(Ngành GD cấp

Kết quả
đánh giá
xếp loại

huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Ứng dụng CNTT, tích hợpNgành GD Tỉnh

C

Năm học
đánh giá
xếp loại

2014-2015

TÊN ĐỀ TÀI

KTLM vào dạy đọc hiểu một


HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN VĂN BẢN ĐỌC VĂN
văn bản văn học nước ngoài:

TIẾT 2 HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA – TRÍCH SỐ

Tại lầu oàng Hạc tiến
Mnahj Hạo Nhiên đi Quảng

ĐỎ - VŨ TRỌNG PHỤNG TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA VÀ

Lăng.

BÀI HỌC ỨNG XỬ

2.

Rèn luyện một số kĩ năng Ngành GD Tỉnh C
thực hành về biện pháp tu từ
Tiếng Việt: Thực hành một số
phép tu từ ngữ âm
3. Tích hợp kiên thức Địa lí Lịch
Ngành GD Tỉnh
sử Công dân và văn hóa địa
phương vào đọc hiểu văn bản
Tuyên Ngôn Độc lập. số
1112QĐ/ SGD&ĐT

2016-2017

B


2016-2017

C

2018-2019

Ngườ i thực hiện: Nguyễn Thi Hằng

4.

Chức vụ: TPCM, Giáo viên giảng dạy

Vận dụng kĩ thuật dạy học

Ngành GD Tỉnh

tích cực để khai SKKNthácvà rènthuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

luyện tư duy, kĩ năng phản
biện của người học trong một
bài đọc văn: “ Tỏ lòng” Phạm Ngũ lão

THANH HOÁ NĂM 2019 -2020

20


21




×