Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Ket hop bien chung cac mat doi lap va ap dung thuc te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.29 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC:
VẤN ĐỀ KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT
ĐỐI LẬP VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO HOẠT
ĐỘNG CHUYÊN MÔN

TP. HỒ CHÍ MINH- THÁNG 1/2019


MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN..................................................................................................................2
TÓM TẮT........................................................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG MÁC XÍT VỀ SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP........3
1.1 Sự đấu tranh và kết hợp các mặt đối lập...........................................................................................3
1.1.1Khái niệm các mặt đối lập............................................................................................................3
1.1.2Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập...............................................................................................3
1.1.3 Sự thống nhất giữa các mặt đối lập.............................................................................................4
1.2 Mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.............................................................6
1.3 Mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập.........................................................................................................6
1.4 Tính chất của mâu thuẫn.....................................................................................................................7
1.4.1 Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn...........................................................................7
1.4.2 Qúa trình vận động của mâu thuẫn............................................................................................7
1.5 Kết hợp các mặt đối lập.......................................................................................................................8
1.5.1 Tầm quan trọng của kết hợp các mặt đối lập............................................................................8
1.5.2 Các loại kết hợp các mặt đối lập.................................................................................................9
1.6 Ý nghĩa của phương pháp luận........................................................................................................10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO HOẠT ĐỘNG
CHUYÊN MÔN............................................................................................................................................10
2.1 Kết hợp các mặt đối lập trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội


chủ nghĩa...................................................................................................................................................10
2.2 Kết hợp các mặt đối lập trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực...........................................11
2.3 Những giải pháp định hướng đối với việc kết hợp các mặt đối lập ở Việt Nam hiện nay.........11
2.4 Sự vận dụng vào doanh nghiệp.........................................................................................................12
2.4.1 Nền tảng cuộc việc ứng dụng các mặt đối lập trong hoạt động doanh nghiệp....................12
2.4.2 Ứng dụng các mặt đối lập trong việc lập kế hoạch kinh doanh............................................12
2.4.3 Ứng dụng các mặt đối lập vào rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp..................................13
2.4.5 Ý nghĩa của việc kết hợp các mặt đối lập.................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................................15

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………….
TÓM TẮT
Tư tưởng biện chứng về các mặt đối lập đã sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Trước khi
phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng đó đã đạt được đỉnh cao nhất trong những học thuyết
biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, như I.Cantơ và đặc biệt là G.V.Hêgen. Hêgen đã
sớm nhận ra tính phổ biến của mâu thuẫn và vai trò của nó trong quá trình vận động và phát
triển của thế giới. Đứng trên lập trường duy vật, kế thừa một cách có phê phán tất cả những
thành tựu có giá trị trong toàn bộ lịch sử triết học hơn 2000 năm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
phát triển học thuyết về mâu thuẫn lên một tầm cao mới - học thuyết mâu thuẫn trên cơ sở quan
niệm duy vật biện chứng, khoa học, V.I.Lênin đã coi học thuyết đó là hạt nhân của phép biện
chứng.

Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển đó là quan điểm lý luận cơ bản, là điều sơ đẳng nhất mà bất cứ người nào đã từng nghiên cứu,
học tập triết học Mácxít cũng đều lĩnh hội được. Trong bài tiểu luận này sẽ làm rõ hơn vấn đề
“Sự kết hợp các mặt đối lập như với tư cách một sách lược” bằng việc phân tích rõ các mặt đối
lập và sự kết hợp như thế nào? Sau đó, từ việc hiểu biết sự kết hợp của các mặt đối lập để vận
dụng vào các hoạt động chuyên môn. Ban đầu đó là hiểu được sự vận dụng vào nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa, sự đổi mới trong chính sách kinh tế, quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu của
Việt Nam. Và chi tiết hơn nữa đó là hiểu được sự kết hợp các mặt đối lập vào một chủ thể kinh
tế nhỏ điển hình đó là doanh nghiệp, một thành phần cấu thành nên nền kinh tế của một quốc
gia.
Trong bài có trích dẫn và tham khảo từ sách ” Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam hiện nay” của Tiến sĩ Triết học Trần Nguyên Ký, tái bản lần
2


thứ 6, Nhà xuất bản thanh niên. Xin chân thành cám ơn tác giả, cuốn sách là kim chỉ nam để tôi
hoàn thành bài tiểu luận của mình.

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG MÁC XÍT VỀ SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI
LẬP
Trong lý luận biện chứng Mácxít, vấn đề mâu thuẫn nói chung, vấn đề kết hợp biện chứng các
mặt đối lập nói riêng luôn được chú ý xem xét giải quyết. Kế thừa tư tưởng biện chứng của
Hêghen, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin luôn khẳng định mâu thuẫn sự vật, biểu
hiện ở cuộc đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển sự
vật đó. Giải quyết vấn đề này, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin một mặt khẳng định vai trò cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập, mặt khác cũng khẳng định vai trò của sự thống nhất giữa chúng.
Từ cơ sở đó các ông đã đi đến tư tưởng biện chứng về sự kết hợp các mặt đối lập trong thực
tiễn. Nói một cách khác, trong tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn, các ông luôn chú trọng giải
quyết những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn, đó là các vấn đề thống nhất, vấn đề đấu tranh và
vấn đề kết hợp các mặt đối lập. Trong đó vấn đề kết hợp các mặt đối lập được các ông xem xét
với tính cách là một biểu hiện hoạt động của chủ thể con người trong việc giải quyết một số

mâu thuẫn xã hội cụ thể nhất định, trên cơ sở đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập.
1.1
1.1.1

Sự đấu tranh và kết hợp các mặt đối lập
Khái niệm các mặt đối lập

Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những
khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện
tượng đó. Không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng hình thành nên mâu thuẫn. Bởi chính bên
trong sự vật đã có rất nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào thống nhất với nhau như
một chỉnh thể mới tạo thành mâu thuẫn.
1.1.2

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập

Đề cập đến “vấn đề đấu tranh” giữa các mặt đối lập, C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng, sở dĩ các
mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau vì bắt nguồn từ bản chất của các mặt đối lập. Chính sự đối
lập, trái ngược căn bản giữa những mặt, những yếu tố, những khuynh hướng vận động trong
một sự vật, hiện tượng đã tạo nên sự đấu tranh giữa chúng.
3


Sự đấu tranh của các mặt đối lập, là khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của
các mặt đối lập. Sự đấu tranh là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.
Theo chủ nghĩa Mac-Lênin, vai trò của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn đối
với sự phát triển sự vật được đánh giá rất cao. Chính cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập đã dẫn
tới việc giải quyết mâu thuẫn và qua đó làm cho sự vật phát triển. Chính vì thế về mặt phương
pháp luận cần phải tạo điều kiện cho sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nhằm thúc đẩy sự phát
triển của sự vật hiện tượng. Nhưng cũng cần tạo điều kiện cho mặt đối lập đại diện cái tiến bộ,

tích cực chiến thắng mặt đối lập đại diện cho cái lạc hậu tiêu cực. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập là tuyệt đối vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trong
trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập tạo nên tính chất tự thân, liên tục của sự vận động phát triển của sự vật. Cũng vì vậy
muốn thay đổi sự vật thì phải tăng cường sự đấu tranh. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một
quá trình phức tạp diễn ra từ thấp đến cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc
điểm riêng. Chính Lênin khẳng định rằng “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập”.
Có thể thấy rõ những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vai trò của đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, thông qua sự phân tích của hai ông về mâu thuẫn
giữa hai giai cấp: tư sản và vô sản, biểu hiện trong các tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản” và “Tư bản”. Trong các tác phẩm này, các ông đã chỉ rõ chính giai cấp vô sản mới là người
đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chốn tư sản
chính là cuộc đấu tranh vì sự phát triển, tiến bộ xã hội.
1.1.3 Sự thống nhất giữa các mặt đối lập
Trong lý luận biện chứng Mác xít, vấn đề thống nhất giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn
cũng được chú ý xem xét. Với tư cách là một phương diện trong mối quan hệ giữa các mặt đối
lập của mâu thuẫn, sự thống nhất các mặt đối lập thể hiện tính ràng buộc, quy định lẫn nhau,
làm điều kiện cho sự tồn tại của nhau. Sẽ thật sai lầm nếu cho rằng các nhà lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lê nin chỉ coi trọng tới khía cạnh đấu tranh mà không coi trọng sự thống nhất giữa
các mặt đối lập. Trái lại, khi giải quyết vấn đề mâu thuẫn, C.Mác, Ph. Ănghen không dừng lại ở
việc đánh giá mặt đấu tranh của các mặt đối lập mà các ông còn ghi nhận sự thống nhất khăng
khít của chúng.

4


“Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa
vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng, quy định lẫn nhau và gắn kết với nhau. Hai mặt đối lập
là tiền đề tồn tại cho nhau nếu thiếu một trong hai sẽ không còn tồn tại được. Vì thế cho nên sự

thống nhất là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của mọi sự vật. Theo Lênin thì sự thống nhất của
các mặt đối lập, đó là sự thừa nhận (tìm ra) những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau,
đối lập trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên. Mỗi khi đề cập đến phép biện
chứng duy vật, đến vấn đề mâu thuẫn biện chứng với mối quan hệ của các mặt đối lập trong
mâu thuẫn, V.I.Lênin luôn nhắc tới khía cạnh thống nhất trong mối quan hệ đó. Theo V.I.Lênin,
phép biện chứng chẳng qua là: Học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có
thể và thường (trở thành) đồng nhất, bằng cách “chuyển hoá lẫn nhau” và “tại sao lí trí con
người lại không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng dở, mà là sinh động, có điều kiện,
năng động, chuyển hoá lẫn nhau. Có 3 góc độ tiếp cận:
Thứ nhất: Xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, tức sự thống nhất
khách quan vốn có của chúng. Ở đây đó không phải là sự thống nhất tuyệt đối, mà là sự thống
nhất tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối lập.
Thứ hai: Xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận. Điều này rõ
ràng là công việc không đơn giải, không chỉ thuộc vào nhân tố chủ quan, vào chủ thể mà còn
phụ thuộc vào chính bản thân mâu thuẫn. Bởi vì mâu thuẫn không tự bộc lộ ra mà nó tồn tại ẩn
giấu bên trong cái “vỏ bọc” thống nhất với những hình thức cụ thể của nó. Để nhận thức nó,
cần phải tiến hành thao tác như Lênin đã chỉ dẫn: “Phân đôi cái thống nhất” thì mới có thể phát
hiện và nắm bắt được các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Cố nhiên sự phân đôi ở đây không
phải là hoạt động chủ quan, tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở tôn trọng tính khách quan của mâu
thuẫn biện chứng.
Thứ ba: Xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn.Trên cơ sở nhận thức
sự thống nhất (bao hàm cả sự đấu tranh) giữa các mặt đối lập của một mâu thuẫn nhất định, chủ
thể có thể thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập để từ đó tạo điền kiện giải quyết tốt các mâu
thuẫn. Việc kết hợp các mặt đối lập cũng xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Một mặt con
người với tư cách chủ thể tiến hành hoạt động kết hợp các mặt đối lập nhằm giải quyết một
mâu thuẫn xã hội cụ thể theo hướng có lợi cho bản thân, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của bản

5



thân, xong mặt khác nó không phải là hoạt động chủ quan, tùy tiện mà phải dựa trên cơ sở tôn
trọng tính khách quan của mâu thuẫn biện chứng.
Thậm chí, V.I.Lê nin đã khẳng định rõ ràng: Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm.
1.2 Mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt
đối.
Đánh giá vấn đề này cần lưu ý tư tưởng của V.I. Lê nin khi ông so sánh giữa sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập với hai trạng thái đứng im và vận động của sự vật. V.I.Lê nin coi
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối cũng như sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
Điều đó có thể suy ra rằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập, giống như sự đứng im của sự
vật cũng là tương đối, song không phải theo nghĩa đơn thuần về mặt thời gian. Nghĩa là, tương
tự như đối với trạng thái đứng im có tính tương đối của sự vật, được người ta hiểu đó chỉ là
đứng im xét ở từng mối quan hệ xác định cụ thể, sự thống nhất có tính tương đối giữa các mặt
đối lập trong một mâu thuẫn khách quan cũng cần được hiểu ở từng phương diện cụ thể xác
định. Cụ thể là, trong mối quan hệ giữa các mặt đối lập của một mâu thuẫn khách quan, nhìn
tổng thể, giữa chúng luôn có sự đấu tranh với nhau. Tuy nhiên, ở từng phương diện cụ thể, ở
từng phạm vi không gian, thời gian cụ thể, giữa các mặt đối lập đó vẫn có thể biểu hiện thống
nhất với nhau. Điều đó quy định tính tương đối của sự thống nhất của chúng với nhau.
1.3 Mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập
Trong cuộc sống với tất cả những sự vật hiện tượng của nó, mỗi sự vật hiện tượng đều là một
thể thống nhất được tạo thành bởi các mặt, thuộc tính, khuynh hướng khác nhau, đối lập, phát
triển ngược với nhau. Đây là những mâu thuẫn tồn tại trong sự vật hiện tượng đó. Từ khi bắt
đầu tồn tại cho đến khi kết thúc của một sự vật hiện tượng mâu thuẫn luôn cùng song hành.
Trong mỗi cá thể sự vật, hiện tượng không chỉ có một mà có thể nhiều mâu thuẫn khác nhau,
khi mâu thuẫn này kết thúc thì mâu thuẫn khác lại được hình thành. Cứ trên vòng xoay như vậy
thế giới, cuộc sống vận động, biến đổi liên tục.


6


Quan điểm siêu hình: Coi mâu thuẫn là cái đối lập phản lôgic, không có sự thống nhất, không
có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập. Ngược lại, phép biện chứng quan niệm, mâu
thuẫn để chỉ mối liên hệ thống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là “mặt
đối lập.”
1.4 Tính chất của mâu thuẫn
1.4.1 Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến: Khác với quan điểm triết học cũ, phép biện chứng
duy vật khẳng định tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tế đều mang trong mình sự
mâu thuẫn. Đó là do cấu trúc tự thân vốn có. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc bất cứ hiện
tượng siêu nhiên nào và cả ý chí con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa nhiều mâu
thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu
cơ đó lại lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn. Như vậy sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự giải
quyết. Ví như trong lĩnh vực tư duy, ta cũng có sự mâu thuẫn như mâu thuẫn giữa năng lực
nhận thức vô tận ở bên trong con người và sự tồn tại thực tế của năng lực ấy bị hạn chế bởi
những hoàn cảnh bên ngoài. Mâu thuẫn này được giải quyết nối tiếp các thế hệ, đây là sự giải
quyết đi lên trong vô tận.
Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: Mâu thuẫn không những có tính khách quan và phổ
biến mà còn có tính đa dạng và phong phú. Tính đa dạng thể hiện ở chỗ: Mỗi sự vật hiện tượng
quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau, giữ vị trí và
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật. Trong các lĩnh vực khác nhau tồn
tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện
của mâu thuẫn.
1.4.2 Qúa trình vận động của mâu thuẫn
Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức phong phú và đa dạng tùy thuộc tính chất

từng mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể giữa thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng.
7


Theo tinh thần biện chứng Mác xít, khi đề cập đến việc giải quyết mâu thuẫn nói chung, đương
nhiên phải nhận thức được rằng đó là quy trình tự giải quyết. Tuy nhiên, với loại hình mâu
thuẫn biện chứng xã hội lại có những đăc thù riêng để giải quyết mâu thuẫn đó (do xã hội là sự
tồn tại khách quan với ý thức con người, xong xét tới cùng xã hội lại chính do con người tạo ra
thông qua sự tồn tại của bản thân con người hay các hoạt động tự giác của họ). Ở đây thuật ngữ
tự giải quyết có nghĩa là quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể nào đó đã diễn ra một
cách khách quan đối với con người, đối với một lực lượng xã hội nhất định. Phương pháp
giải quyết mâu thuẫn xã hội mà chủ thể tiến hành cũng phải phù hợp bản chất khách quan của
mâu thuẫn đó. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn xã hội, thực chất lại là biểu hiện hoạt động
của chủ thể con người. Do đó quá trình giải quyết mâu thuẫn cũng in dấu ấn của chủ thể. Chính
trong quá trình hoạt động như vậy, trong điều kiện cho phép, chủ thể có thể sử dụng phương
pháp kết hợp các mặt đối lập, coi đó như hình thức cụ thể để các mặt đối lập thực hiện sự đấu
tranh của chúng dẫn tới việc giải quyết mâu thuẫn cụ thể.
Còn đối với loại mâu thuẫn xã hội không đối kháng, các mặt đối lập có lợi ích cơ bản nhất trí
với nhau, chủ thể hoạt động hoàn toàn có thể tiến hành kết hợp các mặt đối lập. Tuy nhiên trong
trường hợp này, nếu chủ thể mắc sai lầm nghiêm trọng và kéo dài hay khi chủ thể không còn đủ
năng lực trí tuệ và bản lĩnh chính trị cần thiết thì khi đó xuất hiện yêu cầu khách quan phải giải
quyết mâu thuẫn bằng phương pháp loại trừ mặt đối lập.
1.5 Kết hợp các mặt đối lập
1.5.1 Tầm quan trọng của kết hợp các mặt đối lập
Trong lý luận biện chứng Mác xít, vấn đề kết hợp các mặt đối lập được đặt ra và giải quyết.
Đây là biểu hiện hoạt động tích cực, chủ động của chủ thể trên cơ sở nhận thức mâu thuẫn
khách quan. Chính xuất phát từ việc nhận thức sự thống nhất khách quan, từ những điểm chung
vốn có của các mặt đối lập, từ những nhu cầu thực tiễn, con người có thể tiến hành kết hợp các
yếu tố, hơn nữa là cả các măt đối lập nhằm giải quyết nhưng mâu thuẫn xã hội…

Việc tiến hành kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn xã hội, rõ ràng không thể là giải
pháp duy nhất và cũng không phải là giải pháp có thể áp dụng đối với mọi trường hợp. Chẳng
hạn, đối với loại mâu thuẫn đối kháng, phương pháp giải quyết nhìn chung là dùng bạo lực,
thực hiện loại trừ một mặt đối lập nào đó. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể, khi giữa hai lực
lượng xã hội cụ thể tồn tại với tư cách là hai mặt đối lập của nhau, mặc dù xét về bản chất vẫn
8


có sự đối kháng về lợi ích với nhau, song lại xuất hiện một số điểm chung nào đó về lợi ích thì
khi đó có thể thực hiện hình thức “kết hợp các mặt đối lập”. Điều đó cho phép việc giải quyết
mâu thuẫn giữa chúng được thực hiện tốt hơn, đem lại lợi ích cho chủ thể nhiều hơn.
Thứ nhất, về mặt khách quan: Việc kết hợp các mặt đối lập chỉ có thể tiến hành trong các
trường hợp cụ thể sau:
Giữa các nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách là những mặt đối lập của nhau phải có
những điểm chung, tương đồng có thể đi tới sự điều hòa, thỏa hiệp trong giới hạn nhất định.
Trong trường hợp các mặt đối lập hoàn toàn không có điểm chung, tương đồng, mâu thuẫn hay
hoàn toàn đối kháng thì việc kết hợp không thể thực hiện một cách đúng dắn và mang lại hiệu
quả mong muốn. Việc kết hợp chỉ có thể thực hiện trong điều kiện hoàn cảnh thuận lợi, cụ thể
là phải có điều kiện hoàn cảnh cho phép chủ thể thực hiện. Hay là điều kiện hoàn cảnh khách
quan buộc chủ thể phải sử dụng phương thức kết hợp này.
Thứ hai, về mặt chủ quan: Đòi hỏi ở chủ thể thực hiện cần có năng lực, bản lĩnh chính trị để
đáp ứng được nhu cầu của sự kết hợp này. Có thể khẳng định trong chừng mực nào đó vai trò
của chủ thể trong việc kết hợp các mặt đối lập là vai trò có ý nghĩa quyết định.
Tóm lại, việc kết hợp các mặt đối lập trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể
chỉ có thể tiến hành được khi có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép.
Tuyệt đối đây không phải là giải pháp có tính phổ biến, có thể thực hiện trong mọi trường hợp
với mọi điều kiện.
1.5.2 Các loại kết hợp các mặt đối lập
Xét về hình thức có thể chia hoạt động kết hợp các mặt đối lập thành ba loại: Thứ nhất là sự
kết hợp khoa học, biện chứng, đúng đắn (kết hợp có nguyên tắc, đảm bảo nguyên tắc đấu tranh

giữa các mặt đối lập).
Thứ hai là sự kết hợp mang tính triết trung (tùy tiện, vô nguyên tắc).
Thứ ba là sự kết hợp mang tính cải lương (không đảm bảo nguyên tắc đấu tranh giữa chúng với
nhau.)
Ta có thể rút ra kết luận sau: “Kết hợp các mặt đối lập là một hoạt động tự giác, tích cực của
chủ thể thực tiễn trong quá trình giải quyết một số mâu thuẫn xã hội cụ thể trong những
điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể nhằm đem lại lợi ích nhất định cho chủ thể. Đó chính
9


là hoạt động kết hợp những nhân tố, lực lượng xã hội tồn tại với tư cách là những mặt đối lập
của nhau, dựa trên cơ sở nhận thức về tính thống nhất vốn có giữa những nhân tố, lực lượng xã
hội này, đồng thời tôn trọng sự đấu tranh khách quan của chúng.
1.6 Ý nghĩa của phương pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển. Do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu
thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự
vận động và phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng và phong phú nên trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn
cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng trường hợp và có
phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phân biệt
đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định, những đặc
điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết phù hợp.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO HOẠT
ĐỘNG CHUYÊN MÔN
2.1 Kết hợp các mặt đối lập trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta đề ra và lãnh đạo từ
năm 1986. Mục tiêu của công cuộc đổi mới là phải nhanh chóng đưa đất nước thoát khỏi trì trệ,
khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời đẩy mạnh quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Muốn vậy, một trong những nhiệm vụ đặt ra là phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ trước đổi mới, do chịu ảnh hưởng của lối tư duy máy móc, tách rời một cách
cứng nhắc giữa các mặt xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đồng thời coi kinh tế thị trường
là nhân tố thuộc chủ nghĩa tư bản, hoàn toàn xa lạ với xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã không có
thái độ đúng với nền kinh tế này. Đó là sai lầm chủ quan trong thời kỳ trước đổi mới.
Bước vào đổi mới, trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của nhà nước được coi trọng. Tuy nhiên,
khác với trước đây, vai trò của nhà nước được biểu hiện chủ yếu ở tầm vĩ mô, quản lý và điều
10


tiết các hoạt động kinh tế thông qua một hệ thống chính sách kế hoạch, pháp luật tài chính tiền
tệ treenc ơ sở tính tới các quy luật của sản xuất hàng hóa- tiền tệ. Với những chính sách ở tầm
vĩ mô của mình, nhà nước tác động vào cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường để
điều tiết các hoạt động kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa thay vì thực hiện sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước bằng các biện pháp hành chính.
2.2 Kết hợp các mặt đối lập trong hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Bên cạnh việc tiến hành hợp tác với các nước tư bản chủ nghĩa một cách linh hoạt, mềm dẻo và
có nguyên tắc, Đảng ta còn khẳng định rõ, trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
kết hợp giữa nguồn nội lực và ngoại lực, giữa trong nước và quốc tế, phải phát huy cao độ
nguồn nội lực, trong nước. Nguồn nội lực phải được xem là yếu tố quyết định, là cơ sở để khai
thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài. Bởi vì, chỉ có sức mạnh nội lực thực sự thì mới khai thác
tốt từ bên ngoài, làm ảnh hưởng xấu tới định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có được sức mạnh nội
lực thật sự rõ ràng đòi hỏi phải xây dựng một nền kinh tế với iteemf lực kịnh tế đủ mạnh, có
sức cạnh tranh cao trên thế giới. Đồng thời, phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công
nghệ thật sự đủ sức làm chủ được công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của đất
nước. Có như vậy mới có được sự bình đẳng trong quá trình hợp tác, trao đổi về kinh tế cũng
như công nghệ với bên ngoài. Điều đó càng chứng tỏ sự cần thiết phải xây dựng cho được nền
kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

2.3 Những giải pháp định hướng đối với việc kết hợp các mặt đối lập ở Việt Nam hiện nay
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận biện chứng mác xít: Kết hợp các mặt đối lập
trong đời sống xã hội luôn gắn liền với yếu tố con người, là hoạt động tích cực chủ động của
chủ thể. Do đó, việc kết hợp các mặt đối lập như thế nào, hiệu quả ra sao tùy thuộc rất nhiều
vào chủ thể mà trước hết là ở năng lực kết hợp biện chứng các mặt đối lập của chủ thể.
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức của chủ thể cách
mạng: Việc thực hiện kết hợp các mặt đối lập trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay không chỉ phụ thuộc vào năng lực của chủ thể mà còn phụ thuộc vào phẩm
chất đạo đức của chủ thể. Đây là hai yếu tố không thể tách rời trong một chủ thể cách mạng.
nếu năng lức chủ thể biểu hiện ở khả năng nhận thức các mặt đối lập, ở khả năng tiến hành kết
hợp các mặt đối lập thì phẩm chất đạo đức tạo nên sức mạnh chiến đấu, tạo nên bản lĩnh của
11


chủ thể trong quá trình kết hợp, chính sự thống nhất giữa năng lực với bản lĩnh, phẩm chất đạo
đức của chủ thể sẽ tạo ra khả năng thwijc hiện tốt việc kết hợp các mặt đối lập trong quá trình
đổi mới hiện nay.
Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách xã hội nhằm đảo bảo công bằng xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Tăng cường vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn phục vụ cho việc két hợp các mặt đối lập.
2.4 Sự vận dụng vào doanh nghiệp
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, với xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế ngày càng mở rộng và tiếp đến từ năm 2019 về sau là thời gian của công nghệ 4
chấm không, đây là quá trình biến đổi tất yếu do mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập trong quá trình
hoạt động giữa các thành phần tham gia vào kinh tế. Đồng thời với nó là sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế thị trường, những biến đổi không ngừng của các nền kinh tế trên thế giới.
Những cuộc chiến tranh thương mại lớn nổ ra giữa Mỹ và Trung Quốc khiến cho nền kinh tế
thế giới một phen chao đảo, dự kiến cuộc chiến này còn kéo dài dai dẳng về sau. Bên cạnh đó,
những bất ổn chính trị của các nước lớn mạnh tại châu Âu, sự phát triển như vũ bão của cách

mạng khoa học và công nghệ….chính những biến đổi này đã gây tác động to lớn, ảnh hưởng
mạnh mẽ tới sự phát triển và hoạch định chiến lược của các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty
trên thế giới. Sự biến đổi cũng đặt ra cho các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp những yêu cầu
khách quan. Tất cả là điều kiện khách quan cho phép chủ thể hoạt động thực hiện kết hợp các
mặt đối lập trong hoạt động doanh nghiệp.
2.4.1 Nền tảng cuộc việc ứng dụng các mặt đối lập trong hoạt động doanh nghiệp
Theo triết học Mac Lênin trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn cụ thể, tùy vào nội dung,
tính chất của mối quan hệ giữa các mặt đối lập, cũng như tùy thuộc vào hoàn cảnh khách quan,
năng lực của chủ thể hoạt động để nhận biết đúng đắn bản chất của các mặt đối lập từ đó có thể
tiến hành việc kết hợp các mặt đối lập nhằm để giải quyết một mâu thuẫn xã hội một cách tốt
nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4.2 Ứng dụng các mặt đối lập trong việc lập kế hoạch kinh doanh
Kết hợp thị trường và kế hoạch trong hoạt động kinh doanh: Trong đổi mới kinh tế, gắn liền với
việc xây dựng một nền kinh tế đa dạng hóa về sở hữu, đa thành phần kinh tế, là vấn đề xây
12


dựng cơ chế thị trường. Đây là hai mặt của nền kinh tế thị trường: Việc tồn tại một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần tất yếu làm nảy sinh yêu cầu về sự điều tiết cơ chế thị trường. Với
tư cách là cơ chế kinh tế khách quan tồn tại tất yếu trong nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế
thị trường thể hiện những giá trị tích cực của nó. Chúng ta nhận thức được rằng kế hoạch là
điều không thể thiếu đối với một dự án kinh doanh. Tự bản thân công tác kế hoạch hóa không
thể thiếu với hoạt động kinh tế. Do đó sự kết hợp cơ chế thị trường và kế hoạch của doanh
nghiệp nghĩa là xóa bỏ kế hoạch hóa cao độ, tiến hành cơ chế quản lý kinh doanh, thực hiện tự
chủ, độc lập của doanh nghiệp.
Ở đây cần tránh rơi vào nhận thức sai lầm cố hữu trước đây là tuyệt đối hóa sự đối lập giữa cơ
chế thị trường và kế hoạch doanh nghiệp. Cho rằng cơ chế thị trường nghĩa là không có kế
hoạch, còn nếu đề cao kế hoạch ắt sẽ không theo cơ chế thị trường.Tư duy biện chứng ở đây là
mặc dù giữa cơ chế thị trường và kế hoạch có những biểu hiện ngược nhau lên doanh nghiệp,
song không vì thế mà chúng không thống nhất.

Ở thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước cần nắm
bắt rõ mối liên hệ giữa kế hoạch và cơ chế thị trường. Từ đó ứng dụng tư tưởng kết hợp mặt đối
lập vào thực tế để nâng cao khả năng cạnh tranh và quản lý doanh nghiệp. Ví như khi nhu cầu
thị trường thay đổi nhanh chóng khiến cho kế hoạch ban đầu đã trở nên sai lầm. Đây là lúc xảy
ra sự đấu tranh giữa hai mặt đối lặp. Cần có sự kết hợp hoàn hảo giữa hai mặt đối lập. Chủ thể
quyết định ở đây cần có bản lĩnh trính trị và khả năng điều chỉnh hợp lý để qua sự kết hợp này
phát triển doanh nghiệp một cách hợp lý.
2.4.3 Ứng dụng các mặt đối lập vào rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp
Trong kinh doanh lợi nhuận và rủi ro là hai mặt không thể tách rời nhau được. Bất kì một hoạt
động nào của doanh nghiệp đều tồn tại sự rủi ro. Rủi ro càng cao lợi nhuận càng nhiều. Nhưng
hiển nhiên mục tiêu của một doanh nghiệp là lợi nhuận. Như vậy, trong suốt quá trình thành
lập, tồn tại và phát triển rủi ro là cái doanh nghiệp luôn đối mặt. Một doanh nghiệp phát triển
đúng cách là doanh nghiệp kết hợp hoàn hảo giữa hai mặt đối lập rủi ro là lợi nhuận. Tuy nhiên,
tùy vào khẩu vị rủi ro của ban lãnh đạo mà mỗi doanh nghiệp sẽ có một mức rủi ro chấp nhận
khác nhau. Rủi ro được doanh nghiệp đưa vào đo lường các hoạt động của mình bằng chi phí
rủi ro. Một doanh nghiệp hoạt động tối ưu là biết kết hợp để tối đa hóa lợi nhuận tại một mức

13


rủi ro chấp nhận được. Đây là một ví dụ điển hình cho việc kết hợp hai mặt đối lập một cách
thành công.
2.4.4 Ứng dụng các mặt đối lập vào quản lý nhân sự
Trong hoạt động doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty, tập đoàn lớn luôn có xảy ra mẫu thuẫn
giữa lợi ích của cổ đông và lợi ích của các nhà quản lý. Hoặc trong quá trình hoạt động, xảy ra
mẫu thuẫn lợi ích giữa các bộ phận, các cấp cán bộ quản lý. Để nhận biết và giải quyết các mâu
thuẫn, doanh nghiệp đã có nhiều biện pháp để hạn chế các mâu thuẫn không tốt xảy ra gây ảnh
hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp như ban kiểm soát, hội đồng quản trị… Mặt khác, đối với
các loại mâu thuẫn tích cực, đấu tranh nhằm nâng cao giá trị doanh nghiệp, việc đấu tranh giữa
các bộ phận làm gia tăng lợi nhuận, mang về lợi nhuận cho công ty và bản thân của các mặt đối

lập đó. Do đó, một doanh nghiệp luôn muốn duy trì các đấu tranh nhất định, đồng thời kiểm
soát và hạn chế các mâu thuẫn tích cực nhằm tối đa hóa giá trị.
2.4.5 Ý nghĩa của việc kết hợp các mặt đối lập
Hầu hết những sự kết hợp các mặt đối lập trong hoạt động doanh nghiệp là sự kết hợp có tính
khoa học, tích cực, chủ động mang lại lợi ích tối đa cho kinh doanh. Các doanh nghiệp là
những chủ thể có khả năng và nắm bắt phương pháp cách triệt để. Nhờ đó doanh nghiệp có thể
phát triển các bềnh vững lâu dài. Phương pháp luận biện chứng của sự kết hợp các mặt đối lập
ở đây là: Trên cơ sở những điểm chung giữa những mặt, nhân tố xã hội với tư cách là những
mặt đối lập của nhau, việc kết hợp chúng lại trong một chỉnh thể để nhằm mục đích hướng
cuộc đấu tranh của chúng đem lại lợi ích cho chủ thể. Điều đó có nghĩa là: Kết hợp các mặt đối
lập không phải thủ tiêu cuộc đấu tranh của chúng mà là tạo điều kiện cho chúng đấu tranh trong
một hình thức cụ thể. Bởi vì theo Lê-nin: Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Vận dụng vào thực tiễn, khi kết hợp các mặt đối lập trong hoạt động doanh nghiệp phải kết
hợp có nguyên tắc giữa chúng. Do đó, phải luôn thận trọng: Lợi dụng những mặt tích cực của
chủ nghĩa tư bản để xây dựng doanh nghiệp, cũng như hợp tác trong giới hạn, khuôn khổ của
nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Cần phải thực hiện tốt công tác kiểm kê,
kiểm soát mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, cần phải có giải pháp đưa ra đối với tình
trạng trước mắt… Đặc biệt, trong tình hình kinh tế nhiều biến động (cuộc chiến tranh thương
mại), bất ổn chính trị xảy ra khắp nơi, cần phải chú ý để có những giải pháp đúng đắn trước
những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc
14


văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền,
từ đó doanh nghiệp mới thực sự phát triển bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiến sĩ Triết học Trần Nguyên Ký (2018), Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam hiện nay, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
2. Tiến sĩ Trần Thành (2015), Sự kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã hội,

Tạp chí triết học, .
3. Lê Thị Thu Thủy (2015), Phép biện chứng về vấn đề các mặt đối lập và sự vận dụng nó
trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, Tiểu luận triết học, Trường đại học Kinh tế TP
HCM.
4. Nguyễn Hữu Hoàng Lâm (2016), Tư tưởng kết hợp các mặt đối lập và vận dụng tư tưởng
này trong các hoạt động doanh nghiệp, Tiểu luận triết học, Trường đại học Kinh tế TP
HCM.

15



×