DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
LLSX: lực lượng sản xuất
QHSX: quan hệ sản xuất
KTTT: kinh tế thị trường
CNXH: chủ nghĩa xã hội
CNTB: chủ nghĩa tư bản
CNCS: chủ nghĩa cộng sản
XHCN: xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái quát về nội dung của qui luật mâu thuẫn.
1.1. Một số khái niệm cơ bản của qui luật.
1.1.1. Mâu thuẫn:
1.1.2 .Vai trò của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập:
1.2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn
1.2.1. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn
1.2.2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tạo ra nguồn
gốc và nguồn lực cho môi số vấn đề và phát triển.
1.3 Một số loại mâu thuẫn
1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
CHƯƠNG 2: NHỮNG MÂU THUẪN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIÊN NAY
2.1 Khái quát nền kinh tế thị trường của Việt Nam
2.1.1 Khái niệm
2.1.2 Nền kinh tế thị trường theo định hước XHCN ở nước ta
2.2 Một số mâu thuẫn cơ bản trong nền KTTT ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
2.2.2 Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội
2.2.3 Mâu thuần giữa các hình thái kinh tế trước đây trong KTTT.
2.2.4.Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU
Mâu thuẫn không chỉ có trong lĩnh vực xã hội mà nó còn tồn tại trong cả
lĩnh vực tự nhiên và trong chính tư duy của con nguời.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc tồn
tại của mình. Trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có
nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập, mâu thuần
này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong hoạt động kinh tế hiện tượng đó cũng mang tính phổ biến, chẳng
hạn như mâu thuẫn giữa cung- cầu, tích luỹ-tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của
từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá.
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
giành được những thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong
việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong
những chuyển biến đó đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong những
thành công đó luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển
của đất nước, của công cuộc đổi mới đòi hỏi phải được giải quyết nó sẽ thúc đẩy
cao sự phát triển của nền kinh tế.
Sau khi đã được học một số các kiến thức về triết học Mác-Lê Nin và
một số kiến thức xuất phát từ chính thực tế của đất nước, em đã chọn đề tài :
“Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở Việt Nam” làm tiểu luận hết
môn.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Để tiến hành nghiên cứu bất cứ vấn đề nào trong thực tế, ta đều phải có cơ
sở lý luận về vấn đề cần nghiên cứu. Trong thế giới ngày nay, mỗi sự vật hiện
tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được tạo thành với các mặt, các
khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau, chúng
tạo thành các mâu thuẫn tồn tại trong sự vật, hiện tượng.
Vậy ta hãy xem xét cơ sở lý luận của vấn đề mâu thuẫn trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.
I. Khái quát về nội dung của qui luật mâu thuẫn.
1.1. Một số khái niệm cơ bản của qui luật.
1.1.1. Mâu thuẫn:
Thuyết Âm dương - Ngũ Hành của Trung Hoa có đề cập tới các mâu
thuẫn Âm - Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả và Thổ.
Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin, mâu thuẫn là sự thống nhất
của các mặt đối lập. Nhưng không phải mọi cái đối lập đều tạo nên mâu thuẫn
mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới tạo thành
mâu thuẫn. Để xác định một mâu thuẫn biện chứng thì phải đáp ứng hai điều
kiện là các xu hướng đối lập nhau và các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát
triển của nhau.
1.1.2 .Vai trò của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập:
- Mặt đối lập là gì: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng phát triển ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, chúng
luôn có xu hướng loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại của nhau.
- Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là động lực của mọi sự phát triển
và mở rộng ra mà còn là động lực của mọi sự vận động nói chung. Bởi vì sự
biến đổi (vận động) của sự vật được tạo ra bởi nguyên nhân là tác động của các
yếu tố cấu thành sự vật trong đó sự tác động mạnh mẽ nhất là các yếu tố cấu
thành mâu thuẫn của chúng.
1.2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn
1.2.1. Tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan
đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là
do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng qui định. Mâu thuẫn
tồn tại không phụ thuộc vào bất kì một hiện tượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí
của con người. Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống
nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau.
Mâu thuẫn không những là một hiện tượng khách quan mà còn là một
hiện tượng phổ biến.
Tính phổ biến của nó thể hiện ở chỗ nó là một hiện tượng có trong tất cả
các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đặc biệt là trong xã hội
loài người, mâu thuẫn trở nên phức tạp, đó là mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX,
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng .v.v. Như
vậy, các hoạt động kinh tế của con người chắc chắn không thể tránh khỏi những
mâu thuẫn, điều quan trọng là trong thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối
lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận
động, phát triển mà giải quyết cho đúng.
Như vậy, tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn đó được các nhà tư
tưởng lớn khẳng định và chứng minh tính khoa học đúng đắn của nó.
1.2.2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tạo ra
nguồn gốc và nguồn lực cho môi số vấn đề và phát triển.
Trong phép biện chứng duy vật khái niệm là sự khái quát các thuộc tính,
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, tồn taị trong cùng một sự vật hiện
tượng và tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai
mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong, trong các sự vật hiện
tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập.
Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một
chỉnh thể nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định
và chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực đồng
thời quy định các bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối
lập như vậy mới được gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất
của hai mặt đối lập là điều kiện tồn tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt
đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi
vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là diều kiện không thể thiếu được cho sự
tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên.
Ví dụ: Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường
(KTTT) là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh
tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu
hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng vì nó là sự thống nhất tạo nên quá
trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi
lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất (QHSX)
cùng phát triển, hai mặt này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của
phương thức sản xuất. LLSX là yếu tố động, luôn luôn vận động theo hướng
hoàn thiện còn QHSX phải vận động theo để cho kịp với trình độ của LLSX, tạo
động lực phát triển LLSX và có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân khái
niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó. Thống nhất của cái đối lập, trong
thống nhất đã bao hàm trong đó sự đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong cùng
một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên mà
điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự
vật. Sự đấu tranh chuyển hoá và bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong
thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra
gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều
hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách cơ bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường khi mới xuất hiện, mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, người
ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào
cũng được gọi là mâu thuẫn chỉ có những mặt khác nhau, tồn tại trong cùng một
sự vật hiện tượng liên kết hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo
thành động lực bên trong của sự phát triển khi hai măt ấy mới hình thành bước
đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn
xung đột gay gắt nó biến thành độc lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối
lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới xuất hiện. Sau khi mâu
thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng
sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển
hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết sự vật mới hơn xuất hiện
với trình độ cao hơn. Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật
biến đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy Lê Nin khẳng định” sự phát
triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh củacác mặt đối lập Lê
Nin đã chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý
nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta
nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản
thân sự thống nhất chỉ là tương dối tạm thời, đấu tranh giữa các mặt đối lập mới
là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của
sự vật, kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt
về chất của các mặt đối lập, là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự
đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát
triển, sự vận động là tuyệt đối.
1.3 Một số loại mâu thuẫn
1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong chính bản thân sự vật.
Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế vận động
của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong
phương thức sản xuất.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Đó là mâu thuẫn giữa KTTT tư bản chủ nghĩa và định hướng XHCN của nhà
nước ta.
Mâu thuẫn bên ngoài là phổ biến nhưng mâu thuẫn bên trong lại quyết
định mâu thuẫn bên ngoài, vì không thông qua mâu thuẫn bên trong thì mâu
thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình.
Việc phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài là rất cần
thiết. Bởi mỗi loại mâu thuẫn có vị trí và ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển
của sự vật. Nhận thức từ vai trò của từng loại mâu thuẫn, Đảng ta trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, một mặt đó tập trung mọi khả năng nhằm khai
thác tốt nhất tiềm lực hiện có trong nước. Mặt khác, có chính sách đối ngoại
năng động, thu hút và kỹ thuật nước ngoài hỗ trợ tích cực cho sự phát triển kinh
tế trong nước.
1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định từ bản chất, khuynh hướng phát
triển của bản thân các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình thành và chi phối tất
cả các mâu thuẫn khác trong sự vật, trong đó có mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản
chất và khuynh hướng phát triển của sự vật nhưng có vai trò ảnh hưởng nhất
định đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản tồn tại
gắn liền với mâu thuẫn cơ bản trong cùng một sự vật và chịu sự chi phối của
mâu thuẫn cơ bản.
Khi nghiên cứu kết cấu kinh tế của xã hội TBCN ta thấy mâu thuẫn cơ
bản của xã hội ấy là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính chất tư
nhiên của chế độ chiếm hữu. Từ mâu thuẫn này sinh ra một số mâu thuẫn không
cơ bản như: mâu thuẫn giữa tính chất có tổ chức của sản xuất trong từng xí
nghiệp riêng rẽ với tính chất và tổ chức của sản xuất trong toàn xã hội, mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn được nói lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn
nhất định của quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đúng vai trò quyết định đối
với quá trình phát triển của sự vật.
Tuy vậy, sự phân biệt giữa hai mâu thuẫn trên chỉ có tính chất tương đối.
Trong từng điều kiện hoàn cảnh, mâu thuẫn chủ yếu có thể trở thành thứ yếu và
ngược lại. Ta xem xét lại mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, nói chung thì LLSX
có vai trò quyết định. Song, trong những điều kiện nhất định, QHSX lại có tác
dụng chủ yếu và quyết định, khi mà, nếu không thay đổi QHSX thì LLSX không
thể phát triển, lúc đó sự thay đổi QHSX lại có tác dụng chủ yếu và quyết định.
1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn đặc trưng chỉ có trong lĩnh vực đời
sống xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những tầng lớp xã hội có
lợi ích căn bản đối lập nhau đến mức không thể điều hoà được. Ví dụ như mâu
thuẫn giữa vô sản và tư sản, giữa những tàn dư của kinh tế bao cấp và KTTT
.v.v. và chỉ cú thể giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn xuất hiện giữa những lực
lượng xã hội mà lợi ích về căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ mâu thuẫn giữa
KTTT xã hội chủ nghĩa và KTTT tư bản chủ nghĩa .v.v.
Nhưng hai loại mâu thuẫn trên có thể chuyển hoá cho nhau, ta xem xét
điều đó qua mâu thuẫn giữa kinh tế thành thị và nông thôn. Trong xã hội TBCN,
ở đó thành thị do giai cấp tư sản thống trị, bóc lột tàn khốc nông thôn - đó là một
mâu thuẫn hết sức đối kháng. Nhưng ở xã hội XHCN, mâu thuẫn đối kháng đã
biến thành không đối kháng, mà đến xã hội cộng sản thì mâu thuẫn đó sẽ hết.
Trên đây ta đó nêu và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật mâu
thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc xác
định những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển.
CHƯƠNG 2
NHỮNG MÂU THUẪN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái quát nền kinh tế thị trường của Việt Nam
2.1.1 Khái niệm
Kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị trường hay vận động theo cơ chế
thị trường được gọi là kinh tế thị trường. Hay theo cách khác, kinh tế thị trường
là một nền kinh tế hàng hoá nhưng phát triển ở trình độ cao ở đó mọi yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất cũng như các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ ở đầu ra
đều tồn tại dưới hình thức là hàng hoá, nó đều thông qua thị trường và đều do thị
trường quyết định.
2.1.2 Nền kinh tế thị trường theo định hước XHCN ở nước ta
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng XHCN là một tất yếu lịch
sử, nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi mới
hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cả về kinh tế và chính trị - xã hội, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh, điều
kiện mới.
Từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước XHCN đều thực
hiện kinh tế kế hoạch tập trung. Cơ chế vận hành và quản ký kinh tế này được
duy trì một thời gian khá dài và xem như là một đặc trưng riêng biệt của CNXH,
là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Sự thực thì không phải hoàn toàn
như vậy, nền kinh tế tập trung đã được các nước Tư bản áp dụng từ trước khi
nhiều nước xác lập chế độ XHCN nhưng các nước tư bản đã xoá bỏ cơ chế này
sau khi chiến tranh kết thúc và đã đạt được những thành tựu rất lớn về kinh tế xã hội. Công bằng mà nói, nền kinh tế thị trường cũng chưa phải là cái duy nhất
bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá
là lẽ đương nhiên. Như vậy có thể nói rằng nền kinh tế thị trường cũng như nền
kinh tế tập trung không phải là thuộc tính cố hữu ,đặc thù của một chế độ xã hội
nào đó, vấn đề áp dụng mỗi nền kinh tế đó vào thời điểm, hoàn cảnh lịch sử nào
cho phù hợp để giành laị hiệu quả cao nhất. Chúng ta đang trong giai đoạn quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bởi thế việc phát triển KTTT là một tất yếu khách
quan.
Mới chỉ có hơn 10 năm đổi mới vừa qua với việc chuyển sang KTTT, Việt
Nam đã cho nhân dân thế giới ngỡ ngàng. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội
hội nhập được với nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế
mà chúng ta đạt được khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã nói lên công
cuộc đổi mới ở nước ta là một cuộc cách mạng thật sự.
Ở Việt nam có đặc điểm là bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là mục tiêu, nhiệm vụ không kém
phần quan trọng, làm sáng tỏ thêm ý nghĩa và vai trò cách mạng của công cuộc
đổi mới hiện nay ở nước ta.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng ta một lần nữa khẳng
định những giá trị khoa học bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Nếu nhìn từ góc độ triết học.
Mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô
từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay là một mô hình hợp lý hơn cả.
Mô hình này, về đại thể đáp ứng được những thách thức của sự phát triển.
Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là công cụ, là
phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng XHCN.
Nền kinh tế nước ta hiện nay có thể nói đang trong giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy, những đặc
điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta đương nhiên là một vấn đề
có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu xem xét. Nhận thức được nhữmg đặc điểm
đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm, chủ quan, duy ý chí, nóng vội hoặc
những khuynh hướng cực đoan máy móc.
Vậy, từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ
của nước ta hiện nay là gì? Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp, mọi chức năng kinh tế-xã hội của nền kinh tế đều được triển
khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp nhà nước đối
với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối...khá nặng nề. Ở nước ta
trước đây chế độ hạch toán trên thực tế còn khá nặng nề về mặt hình thức. Lợi
ích kinh tế, đặc biệt là lơị ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của
hoạt động xã hội chưa được quan tâm thích đáng. Vì thế sự vận động của nền
kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đến nay, theo
đường lói đổi mới, đất nước đã từng bước chuyển sang nền KTTT, với định
hướng XHCN và điều đó có nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu hết
sức quan trọng, mhững thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh, bổ sung nhận
thức, làm cho quan niệm CNXH ngày càng cụ thể hơn, đường lối, chủ trương,
chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành
tựu đó trong một chừng mực nhất định cũng gián tiếp thừa nhận khả năng của
KTTT trong việc chuyển hoá nền kinh tế đất nước. Bước sang cơ chế thị trường
đương nhiên không tránh khỏi những tiêu cực của nó, nhưng nó cũng nói lên sức
sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của các
bước chuyển này, dù nền kinh tế thị trường chỉ vừa mới được hình thành ở nước
ta còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có
ý thức theo định hướng XHCN. Xong cũng có tác động khá rõ tới mọi mặt của
đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá. Tác động
quan tâm nhất của cơ chế thị trường là nó đã tạo ra ở nước ta những quan niệm
thị trường không thuần khiết- những quan hệ thị trường. Sự đan xen, chi phối
mành liệt của của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của xã
hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính- bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị
“khúc xạ” theo nhiều hướng khác nhau.
Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về sự đổi mới các quan
hệ sở hữu. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương
đối thuần khiết nhất với hai thành phần sở hữu chủ đạo là: sở hữu nhà nước và
sở hữu tập thể thì hiện nay cùng với thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà
nước còn tồn tại nhiều thành phần sử hữu khác. Những hình thức sở hữu đó
,trong thực tế vận hành của nền kinh tế không hẳn đã đồng bộ, đôi khi chúng có
mâu thuẫn nhau. Xong về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền
kinh tế, có khả năng đáp ứng đòi hỏi đa dạng và năng động của nền KTTT.
Để giải quyết những mâu thuẫn đó thì không thể phủ nhận vai trò của nhà
nước trong nền KTTT. Nhà nước ngoài việc phải trực tiếp quyết định như những
vấn đề của bản thân nền kinh tế và các váan đề xã hội. Nhà nước với chính sách,
luật lệ của mình, một mặt có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng
trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng chính là người phải lo giải quyết các
vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đã tạo ra. Về đại thể, chìa khoá để đáp
ứng những nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội nằm trong tay bộ
máy quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay nhà nước và nền
kinh tế nhà nước có nhiều vấn đề cần được tháo gỡ để có thể đảm bảo được
trọng trách to lớn của mình. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước
đối với nền kinh tế còn kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế nhà
nước đều hoạt động thiếu năng động và có ỷ lại vào Nhà nước. Trong một số
trường hợp thậm chi kinh tế nhà nước còn vô tình hoặc cố tình bỏ rơi trận địa
mà mình chiếm lĩnh tay cho phần tử tham nhũng tiêu cực.
Điều đó có nghĩa đối với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế quá độ
đến thị trường ở nước ta hiện nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hướng chủ yếu
của kinh tế Nhà nước, để kinh tế Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, làm đòn
bẩy và điều chỉnh các hoạt đọng của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đó, giải
quyết ngay các mâu thuẫn xã hội ở tầm vĩ mô, sao cho tăng trưởng kinh tế
không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường của đời sống xã hội.
Đương nhiên đây là những bài toán không phải có thể giải quyết ngay trong một
sớm, một chiều.
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề trên là những vấn đề cơ bản của bản
thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở dạng
hình thành nên không đồng bộ, thiếu hụt, chúng ta chưa thực sự tạo ra môi
trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Cơ chế pháp lý cho các
hoạt động kinh tế còn nhiều bất cập, các hoạt động tài chính, ngân hàng... còn
nhiều điều bất hợp lý. Do vậy, trong một số vụ án kinh tế, cơ chế quản lý đôi khi
vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của KTTT. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác
định cả trên phương diện kinh tế-xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ
biến, đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
2.2 Một số mâu thuẫn cơ bản trong nền KTTT ở Việt Nam hiện
nay
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
Theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì kinh tế quyết định chính trị,” chính trị là
sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người
không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai
cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và Nhà nước xuất hiện
thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là đấu tranh giai
cấp giữa các lực lượng xã hội nhằm giữ chính quyền Nhà nước và sử dụng chính
quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà
nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Khi thể chế
chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì tất yếu sẽ
không mở đường cho kinh tế đi lên. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế là điêù kiện tiên quyết để thúc
đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế chính trị
thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là
phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội xã hội nói chung, nhận
thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng. Không những thế, việc phát triển
kinh tế và ổn định về mặt chính trị cũng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, vai
trò quản lý của Nhà Nước.Chính những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua
đã khẳng định điều đó.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng mâu thuẫn giữa LLSX-QHSX
là một mâu thuẫn hết sức phức tạp và những biểu hiện của nó xét trên phương
diện triết học. Theo quan điểm của triết học Mác-Lê Nin, LLSX là nội dung của
sự vật còn QHSX là hình thức của sự vật, LLSX quyết định QHSX. Nếu QHSX
không phù hợp với sự phát triển của LLSX mới thì bắt buộc phải thay đổi.
Chính QHSX phải vận động để phù hợp với LLSX, QHSX vận động theo đó
thành quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của xã hội.
2.2.2 Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội
Kinh tế xã hội càng phát triển thì sự phân tầng giữa các giai cấp trong xã
hội càng rõ nét hơn.
Trước hết đó là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nước ta đang ở thời
kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, cú nhiều loại hình
sở hữu và kinh doanh, trong đó có cả hình thức kinh doanh có thuê mướn lao
động. Như vậy, ở đây đó xuất hiện một mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa lợi ích của
nhà kinh doanh (bóc lột) và lợi ích của người lao động (bị bóc lột). Nếu không
giải quyết tốt mâu thuẫn này thì có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là lợi ích của
người lao động, hoặc là lợi ích của nhà kinh doanh bị vi phạm, cả hai trường hợp
đều ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân, của Nhà nước.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng. Nguyên
nhân phát sinh mâu thuẫn này là giữa bình đẳng xã hội với tính cách là mục tiêu
của CNXH đó mâu thuẫn với sự bất bình đẳng trong hưởng thụ do sự không
ngang bằng nhau của các cá nhân, nhóm xã hội trong lao động và đóng góp
trong nền KTTT. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thường xuyên và
đúng đắn có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là, do nhận thức không đúng, Nhà
nước can thiệp một cách chủ quan vào tiến trình xã hội, vi phạm những nguyên
tắc của công bằng xã hội dẫn đến kìm hãm sự phát triển kinh tế; hoặc là, do sự
phát triển tự phát của KTTT Nhà nước không có biện pháp điều chỉnh thích hợp
dẫn đến sự bất bình đẳng tích lũy dần, phân cực xã hội sâu sắc, xã hội ngày càng
xa dời mục tiêu XHCN.
2.2.3 Mâu thuần giữa các hình thái kinh tế trước đây trong KTTT.
Trước đây người ta quan niệm rằng hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã
hội là sở hữu CNXH, tồn tại dưới 2 hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công nhân
và nông dân tập thể.
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã
kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường hợp tác
xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực
tiếp của xã viên, phân phối theo hiệu quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên
có quyền như nhau đối với công việc chung, điều này cho thấy kết cấu bên trong
của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
2.2.4.Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người đặc biệt giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của
mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tính thần, trong sáng về đạo đức là sự nghiệp
xây dựng của xã hội mới là mục tiêu của CNXH.
KTTT là một loại hình thái kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa
con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán, trao đổi hàng
hoá tiền tệ. KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là
nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưỏng kinh tế thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy
nhiên KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng,
sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đổi mới nước ta hiện
nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do hậu
quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp .. nền kinh tế của nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với
khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền
kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại.
Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là
những phẩm chất tốt đẹp nhất hình thành con người. Có những lúc, những nơi
KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà
có thể ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô
lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh đồng tiền
và lợi ích cá nhân sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, luân
lý...Bên cạnh những tác động tích cực KTTT cũng có nhiều hạn chế gây ra
những tác động xấu: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống
tôn sư trọng đạo, quan hệ hàng hoá tièn tệ làm sôi động thị trường nhưng cũng
xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người... Thật không sai nếu
hình dung KTTT là con dao hai lưỡi nếu dùng không cẩn thận sẽ bị đứt tay.
Những phân tích trên cho thấy, KTTT là mục tiêu xây dựng con người
XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. KTTT
vừa tạo ra những điều kiện xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra
những độc tố đầu độc, huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn đó là việc
làm không đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn đó được giải quyết bằng vai trò
lãng đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
KẾT LUẬN
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó và đang nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn, đó
là mâu thuẫn giữa các kiểu kinh tế thị trường như là một đặc trưng của CNTB
với việc thực hiện kinh tế thị trường ở nước ta; mâu thuẫn các tầng lớp trong xã
hội với định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; giữa
sự yếu kém của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất; giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội.
Sự thành công trong việc xây dựng CNXH ở Việt Nam phụ thuộc vào việc
giải quyết giữa mâu thuẫn đó. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu những mâu thuẫn
đó và tìm ra phương hướng giải quyết chung. Nghiên cứu mâu thuẫn là phải thấy
được mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là không cơ bản, rồi cuối cùng
tìm ra phương hướng giải quyết mâu thuẫn, từ đó các mâu thuẫn không cơ bản
sẽ được giải quyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học Mác Lênin dùng trong các trường Đại học và cao đẳng khối
kinh tế, tập II, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, trang 58-69, 172,178,241.
2. Triết học Mác Lênin dùng chung cho các trường Đại học, cao đẳng, tập I,
NXB Giáo dục, Hà Nội 2000, trang 141,211.
3. Văn Kiện Đại hội IV, NXB sự thật, Hà Nội, trang 42.
4. Văn kiện đại hội lần thứ 3 ban chấp hành trung ương khoá VIII, NXB
chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, trang 15.
6. Nguyễn Tuấn Hùng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa' mâu
thuẫn và phương hướng giải quyết, nghiên cứu lý luận, số 8-2000, trang 18-21.
Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở nước ta, triết học số 5 (111) - 10/1999, trang 20-23.
7. Kinh tế chính trị Mác Lênnin, tập I NXB giáo dục, Hà Nội 1996, trang
30,31.
8. Kinh tế chính trị Mác Lênin dùng trong các trường Đại học, cao đẳng
khối kinh tế tập II, NXB giáo dục Hà Nội, 1996, trang 104, 191.