Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp quản lí hoạt động dạy học của giáo viên ở trường THCS trần mai ninh thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.15 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN
TRONG TRƯỜNG THCS TRẦN MAI NINH

Người thực hiện: Lê Thị Nga
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Trần Mai Ninh
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HOÁ NĂM 2020


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1

Mở đầu

1


2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2

Thực trạng của việc quản lý hoạt động dạy của giáo
viên trong trường THCS Trần Mai Ninh

4

2.3

Các giải pháp quản lí hoạt động dạy học để nâng cao
chất lượng giáo dục ở trường THCS Trần Mai Ninh

6

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


15

Kết luận, kiến nghị

16

3

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Từ nhiều năm nay, Đảng và nhà nước ta luôn xác định “giáo dục là quốc
sách hàng đầu”. Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) chỉ rõ
“Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng
giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực
và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Báo cáo Chính trị trình tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã xác định
mục tiêu giáo dục nước ta trong những năm hai mươi của thế kỉ XXI là “Phát
triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài […] Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc,
yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (trích văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII).
Cả 3 mục tiêu “Nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài”
đều phải cần đến chất lượng giáo dục đào tạo chung của hệ thống giáo dục quốc

dân trên mọi lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kĩ thuật,
khoa học nhân văn... tạo điều kiện tiếp thu khoa học công nghệ kĩ thuật thế giới,
đồng thời thực hiện “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” nhằm nâng cao
đời sống nhân dân, xây dựng một đất nước giàu mạnh “sánh vai với các cường
quốc năm châu”.
Bước vào thế kỉ XXI, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, khoa học công
nghệ sẽ phát triển rất nhanh, mạnh. Nền kinh tế thế giới đã và đang dịch chuyển
sang nền kinh tế “trí thức”. Trong xu thế mở cửa, trong tình hình khoa học và
công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, thì vấn đề đặt ra có tính cấp thiết
đối với Việt Nam là làm sao đủ sức cạnh tranh và tham gia vào nền kinh tế thị
trường đang toàn cầu hoá. Không có con đường nào khác là phải đẩy nhanh tốc
độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy nhanh, mạnh
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, thì phải bắt đầu từ giáo dục. Và
như vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là một trong những yêu cầu
lớn của giáo dục Việt Nam trong thời kì hội nhập và phát triển hiện nay. Điều đó
đồng nghĩa với việc, các nhà trường đang đứng trước những thử thách và nhiệm
vụ rất nặng nề. Nó đòi hỏi các nhà giáo, đặc biệt là những nhà quản lí phải nỗ
lực không ngừng để hoàn thành sứ mạng “trồng người” trong giai đoạn mới.
Trong nhà trường, nói đến hoạt động dạy và học chủ yếu là nói đến dạy và
học các môn văn hoá. Đây là hoạt động trung tâm của nhà trường, chiếm hầu hết
thời gian của thầy và trò, của những nhà quản lí. Hoạt động dạy và học diễn ra
liên tục trong suốt cả năm học với sự tham gia của thầy và trò, sự hỗ trợ của
nhiều lực lượng khác. Nó đòi hỏi sự chuyên sâu của người dạy, sự hợp tác và
2


sáng tạo của người học. Hoạt động dạy và học chi phối các hoạt động giáo dục
khác trong nhà trường, quyết định sự thành - bại của một năm học, của một nhà
trường. Do dó quản lí HĐ dạy và học chính là nội dung quản lí chủ yếu của

người cán bộ quản lí trong các nhà trường.
Trường THCS Trần Mai Ninh- thành phố Thanh Hoá trong nhiều năm qua
đã không ngừng phấn đấu xây dựng để trở thành trung tâm chất lượng cao của
thành phố và của tỉnh nhà. Ban giám hiệu nhà trường, qua nhiều thế hệ đã không
ngừng cải tiến, đổi mới phương pháp quản lí để nâng cao chất lượng dạy học.
Tuy đã gặt hái được nhiều thành tích, song so với tiềm lực, tiềm năng của nhà
trường, so với yêu cầu bức thiết của cuộc sống thì đội ngũ CBQL và cán bộ giáo
viên của nhà trường cần phải cố gắng nhiều hơn nữa. Là người cán bộ quản lí
trong trường học, tôi nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác quản lí
hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay. Chính vì lẽ đó, cùng với các đồng
chí trong BGH, tôi đã luôn trăn trở suy nghĩ để tìm ra các biện pháp quản lí hoạt
động dạy học có hiệu quả nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện một cách vững chắc.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của cuộc sống đặt ra cho trường học, tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp quản lí hoạt động dạy học của giáo
viên trong trường THCS Trần Mai Ninh” để nghiên cứu thực tế và tìm biện pháp
khả thi trong lĩnh vực này nhằm góp một tiếng nói riêng vào sự nghiệp của nhà
trường, của ngành giáo dục, đưa chất lượng giáo dục lên một tầm cao mới.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm kiếm giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động
dạy học của giáo viên. Từ đó nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường, xây dựng trường THCS Trần Mai Ninh ngày càng phát triển, trở thành
điểm sáng của Ngành giáo dục tỉnh Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý hoạt động dạy học của giáo
viên trong trường THCS Trần Mai Ninh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, phỏng vấn, tổng

kết kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá học
sinh. Đổi mới công tác thao giảng, dự giờ theo chuyên đề: chọn bài, tổ chức cho
tổ/nhóm dự giờ dạy để cùng thảo luận, góp ý giờ dạy. Từ đó rút ra hướng dạy
chung cho một kiểu bài (nhất là những bài khó) nhằm nâng cao chất lượng dạy
học trong nhà trường.
3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Một số khái niệm liên quan đến đề tài:
1. Chức năng của dạy học.
Dạy học là một chức năng xã hội nhằm truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
mà xã hội đã tích luỹ được nhằm biến kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất cá
nhân.
Dạy học là sự tác động qua lại giữa thầy và trò, làm cho trò lĩnh hội một
phần nào đó kinh nghiệm của xã hội.
Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất hoạt động chỉ đạo của thầy với
hoạt động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò nhằm tạo được mục
đích dạy học.
Dạy học có ý nghĩa to lớn trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội: Nhà
trường phổ thông có nhiệm vụ tạo ra cơ sở ban đầu của nhân cách con người
mới kế tục sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để hoàn thành nhiệm vụ đó,
nhà trường phổ thông phải tiến hành các hoạt động giáo dục toàn diện: Đức dục,
trí dục, thể dục, thẩm mỹ và giáo dục lao động. Các mặt giáo dục này được thực
hiện bằng nhiều con đường, nó có mối quan hệ biện chứng với nhau: Dạy học,
lao động, hoạt động xã hội, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, sinh hoạt tập thể.
Trong đó dạy học là con đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:

- Dạy học là con đường thuận lợi nhất giúp học sinh thu được một khối
lượng kiến thức lớn trong một thời gian ngắn nhất.
- Dạy học là con đường quan trọng nhất giúp học sinh phát triển năng lực
trí tuệ một cách có hệ thống, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.
- Dạy học là một trong những con đường chủ yếu giáo dục cho học sinh
thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và phẩm chất của con người
mới xã hội chủ nghĩa.
2. Hoạt động dạy của giáo viên
Hoạt động dạy của giáo viên là hoạt động tổ chức điều khiển của giáo viên
đối với hoạt động nhận thức của học sinh. Hoạt động dạy của giáo viên không
chỉ là truyền thụ tri thức, truyền thụ những sản phẩm có sẵn mà còn cần phẩi tổ
chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh nhằm hình thành cho họ tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, hành vi.
Giờ dạy của người thầy phải chọn lọc kiến thức cơ bản để khắc sâu. Phương
pháp dạy học phải phong phú, linh hoạt, các hình thức tổ chức dạy học phải
phong phú, phù hợp với đối tượng, phục vụ đắc lực cho phương pháp dạy học.
“Dạy tốt” được hiểu là: Thông qua sự truyền đạt nội dung trí dục, thầy chỉ
đạo sự tự phát triển bên trong của trò, thầy làm cho trò biết biến “cái chỉ đạo bên
ngoài” thành “cái tự chỉ đạo bên trong” của bản thân.
3. Hoạt động học của học sinh
Quá trình học tập là quá trình nhận thức dặc biệt để tiến tới nắm vững tri
thức, bảo lưu trong trí nhớ những chân lý sơ đẳng (sự kiện, quy tắc, số liệu,
những đặc trưng, những mối phụ thuộc, mối tương quan, những định nghĩa khác
4


nhau) và từng bước vận dụng trong cuộc sống, biết sử dụng chúng, tìm thấy
chúng trong trí nhớ của mình lúc cần thiết.
Hoạt động học (theo cách hiểu trong phương pháp dạy học mới) là hoạt
động tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. Đây là một quá trình căng thẳng,

đòi hỏi sự nỗ lực thường xuyên.
Học là thừa hưởng những giá trị mà thế hệ trước để lại. Những giá trị đó là
nguyên liệu, người học phải chế biến những giá trị đó theo những quy trình nhất
định, biến nó thành tài sản cá nhân. Trong quá trình chế biến đó, nhân cách con
người được hình thành và phát triển.
Giờ học trên lớp học sinh phải biết cách học theo các hình thức: học cả
lớp, học cá nhân, học theo nhóm....
Ngoài giờ học trên lớp, học sinh phải biết tự học.
Học tập ở học sinh phổ thông không phải là nhồi nhét, phải làm sao việc
học tập trở thành một bộ phận của đời sống tâm hồn phong phú của trẻ, là nhu
cầu của trẻ, có tác dụng thúc đẩy làm cho trí tuệ của trẻ thêm giàu có.
“Học tốt” được hiểu là: Biết tận dụng sự giảng dạy và hướng dẫn của thầy,
coi như một mô hình mẫu của việc xử lý đối tượng nghiên cứu, đồng thời bám
chắc vào nội dung trí dục từ đó mà tự tổ chức việc lĩnh hội của bản thân, như thế
trong việc “học tốt”, mặt khách thể (được dạy, được chỉ đạo) và mặt chủ thể của
học (tự dạy, tự chỉ đạo) được huy động ở mức tối đa trong sự tác động qua lại
thống nhất.
4. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Quá trình dạy học là một quá trình xã hội gắn liền với hoạt động của con
người (hoạt động dạy và hoạt động học). Các hoạt động này có nội dung nhất
định, hoàn thành những nhiệm vụ nhất định. Do các chủ thể thực hiện là thầy và
trò, với những phương pháp và phương tiện nhất định. Sau một chu trình vận
động, các hoạt động dạy và học phải đạt tới những kết quả mong muốn. Vì vậy
quá trình dạy học phải là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản sau: Mục
đích dạy học, nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học; thầy và hoạt động dạy, trò và
hoạt động học; các phương pháp và các phương tiện dạy và học, kết quả dạy
học.
Người CBQL cần thấy sự thống nhất tất yếu của hai hoạt động này trong
hoạt động chung là dạy học, từ đó chỉ đạo hài hoà cả hoạt động dạy và hoạt động
học trong mối quan hệ tổng thể (dạy học).

Tuy nhiên như tôi đã nêu ở phần mở đầu, trong đề tài này, tôi chỉ trình bày
một số kinh nghiệm về công tác quản lí hoạt động dạy của giáo viên ở trường
THCS Trần Mai Ninh.
2.2. Thực trạng của việc quản lý hoạt động dạy học trong trường
THCS Trần Mai Ninh
2.2.1. Tình hình nhà trường
Trường THCS Trần Mai Ninh tiền thân là trường Năng khiếu thành phố
Thanh Hóa, được thành lập từ năm 1994. Hơn hai mươi năm xây dựng và
5


trưởng thành, trường đã thực sự trở thành nơi ươm mầm tài năng cho tuổi thơ
thành phố Thanh Hóa.
Năm học 2019 - 2020, nhà trường có 64 cán bộ giáo viên, nhân viên. Trong
đó CBQL: 04, TPT: 01, CBNV: 03, GV: 56. Trình độ đào tạo: Thạc sĩ: 11, Đại học:
51, Cao đẳng: 02. Toàn trường có 1514 học sinh/34 lớp.
Đội ngũ cán bộ giáo viên, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ,
BGH nhà trường, đã đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực, luôn hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Nhiều năm qua, trường liên tục được công nhận là trường Tiên tiến
cấp Tỉnh, được UBND Tỉnh tặng cờ thi đua “Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua
2 tốt khối THCS”, được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhì…
2.2.2. Thực trạng công tác quản lí hoạt động dạy học của giáo viên
Công tác quản lí hoạt động dạy học của giáo viên ở trường THCS Trần Mai
Ninh những năm vừa qua có những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
Thành ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân TP Thanh Hóa và Phòng
Giáo dục&Đào tạo TP đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo
dục của nhà trường. Phụ huynh học sinh có nhận thức tốt về việc giáo dục con
cái nên luôn ủng hộ, đồng thuận và đồng hành cùng nhà trường.
Ban giám hiệu vừa làm công tác quản lý vừa trực tiếp tham gia giảng dạy

(dạy chính khóa và bồi dưỡng HSG) nên bám sát chuyên môn, hiểu rõ năng lực
của từng giáo viên. Đội ngũ CBGV đoàn kết, trình độ chuyên môn vững vàng,
yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đa số học sinh được
tuyển chọn vào trường đều là học sinh giỏi các cấp, ham học, chăm ngoan. Cơ
sở vật chất ngày càng khang trang, sạch, đẹp. Các phòng học được trang bị máy
chiếu, cơ bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
* Khó khăn:
Đội ngũ giáo viên chưa thật đồng đều, một số ít GV chưa thực sự đáp ứng
được với yêu cầu bồi dưỡng học sinh giỏi. Trường thiếu giáo viên, đặc biệt là
các môn Địa lý, Vật lý, Sinh học, Giáo dục công dân … nên giáo viên dạy nhiều
tiết, nhiều người phải dạy chéo ban. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng tới công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi và chất lượng của một số môn. Tuy CSVC đã được đầu tư
nhưng vẫn chưa có đầy đủ các phòng học chức năng, khu giáo dục thể chất …
Những năm qua công tác quản lý hoạt động dạy học của giáo viên ở trường
THCS Trần Mai Ninh có những ưu điểm và tồn tại như sau:
* Ưu điểm:
Ban chấp hành Đảng bộ, Ban giám hiệu nhà trường nhận thức đúng và sâu
sắc về nhiệm vụ của nhà trường, vừa làm tốt công tác giáo dục toàn diện vừa tập
trung nâng cao chất lượng học sinh giỏi các cấp. Do đó đã tích cực cải tiến cách
thức quản lý, điều hành; chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên “vừa hồng, vừa
chuyên”…
6


* Tồn tại:
Những năm trước đây, việc quản lý hoạt động dạy học còn xuề xòa, chưa
thật khoa học; thời gian hội họp nhiều, nặng về hành chính; chưa có nhiều biện
pháp hữu hiệu để thúc đẩy chuyên môn.
* Nguyên nhân của những tồn tại:
- Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên là do nhận thức

đơn giản, có phần hơi chủ quan của một bộ phận giáo viên và người quản lý:
chất lượng đầu vào của học sinh cao hơn nên thuận lợi trong công tác giảng dạy;
qua các kỳ thi vẫn có nhiều học sinh giỏi vì thế việc đầu tư để đổi mới công tác
quản lý hoạt động dạy học của giáo viên chưa được quan tâm đúng mức…
Việc phân tích đánh giá về thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học
của giáo viên ở trường THCS Trần Mai Ninh TP Thanh Hóa cho thấy rõ những
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Đây chính là cơ sở để nghiên cứu những
giải pháp, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học của
giáo viên ở trường THCS Trần Mai Ninh trong những năm tới. Vấn đề này tác
giả sẽ tập trung làm rõ trong phần 3 của nội dung đề tài.
2.3. Một số biện pháp quản lí hoạt động dạy học để nâng cao chất
lượng giáo dục ở trường THCS Trần Mai Ninh
Nhận thức một cách sâu sắc vai trò của người thầy trong việc giáo dục và
nâng cao chất lượng học tập của học sinh nên chúng tôi đã rất coi trọng việc xây
dựng đội ngũ giáo viên. Đồng thời không ngừng điều chỉnh, đổi mới công tác
quản lí hoạt động dạy học của giáo viên để đạt được hiệu quả tốt nhất trong chu
trình quản lí. Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì quản lí hoạt động dạy học của
thầy là quản lí những nội dung sau:
2.3.1. Quản lí việc thực hiện chương trình
Chương trình dạy học là pháp lệnh của nhà nước. Nắm vững chương trình
dạy học là một đảm bảo đầu tiên để quản lý giáo viên thực hiện tốt chương trình
dạy học.Ngay từ đầu năm học, ban giám hiệu phổ biến những thay đổi (nếu có)
về nội dung, phương pháp giảng dạy bộ môn, những sửa đổi trong chương trình
và sách giáo khoa theo các chỉ thị hướng dẫn giảng dạy bộ môn của Bộ giáo dục
& Đào tạo.
Hàng tuần, hàng tháng, hết học kỳ, Ban giám hiệu nhà trường sẽ kiểm tra,
đánh giá tình hình thực hiện chương trình dạy học từng bộ môn, từng khối, từng
lớp thông qua phân phối chương trình và sổ ghi đầu bài của từng lớp. Từ đó,
nhận xét, phát hiện những vấn đề cần uốn nắn. Nghiêm cấm việc cắt xén, dồn
bài, thêm bớt tiết.

Chỉ có thực hiện đúng, đủ chương trình dạy học thì những cơ sở khoa học,
tính chất giáo dục toàn diện, mục đích đào tạo của chương trình dạy học mới trở
thành hiện thực. Muốn làm tốt việc này Hiệu trưởng cùng với Phó Hiệu trưởng,
các tổ trưởng chuyên môn phân công theo dõi, nắm tình hình thực hiện chương
trình dạy học hàng tuần, hàng tháng. Sử dụng các biểu bảng, lịch kiểm tra học
tập, sổ thăm lớp dự giờ vv… để nắm tình hình có liên quan đến việc thực hiện
7


chương trình dạy học. Ban giám hiệu dùng thời khoá biểu để điều khiển và kiểm
soát tiến độ thực hiện chương trình dạy học của tất cả các môn, các lớp sao cho
đồng đều.
2.3.2. Quản lí việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp của giáo viên
Chúng ta đều biết soạn bài là việc chuẩn bị quan trọng nhất của giáo viên
cho giờ lên lớp. Đồng thời với việc soạn bài là sự chuẩn bị đồ dùng dạy học, thí
nghiệm. Đó là hai loại công việc chủ yếu trước giờ lên lớp của giáo viên. Để
quản lý tốt, BGH đã tiến hành một số công việc sau:
- Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch soạn bài, căn cứ vào phân phối
chương trình và mục tiêu bài học mà đề ra những yêu cầu về nội dung bài soạn.
- Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Hiệu
trưởng cùng với Phó Hiệu trưởng và các tổ trưởng chuyên môn phân công nhau
kiểm tra, theo dõi, nắm tình hình soạn bài của giáo viên như:
+ Hàng tuần kí duyệt giáo án đúng thời gian quy định.
+ Ban giám hiệu trực tiếp dự các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn về trao
đổi bài soạn khó. Tổ chuyên môn sinh hoạt thường xuyên 2 tuần 1 lần.
+ Kiểm tra hồ sơ, giáo án của giáo viên 2 lần/năm.
+ Khi kiểm tra giáo án, chúng tôi lưu ý xem giáo viên có thể hiện sự đổi
mới phương pháp dạy học (PPDH) không.
Sau mỗi đợt kiểm tra, có xếp loại cụ thể, chính xác, công bằng, tuyên
dương hoặc phê bình công khai. Thực tế cho thấy, sau mỗi lần kiểm tra, số lượng

hồ sơ sổ sách được xếp loại A, được tập thể giáo viên tham khảo học tập ngày
càng nhiều.
Khi BGH làm tốt công tác chỉ đạo, quản lí việc soạn bài, chuẩn bị đồ dùng
dạy học trước khi lên lớp của giáo viên, tức là chúng ta đã nâng cao nhận thức
cho người dạy về tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài, rèn cho họ ý thức tự giác
thực hiện đúng quy chế chuyên môn.
2.3.3 Quản lí giờ lên lớp
Những người làm công tác giáo dục đều hiểu rằng giờ lên lớp là hình thức
dạy học chủ yếu ở các trường học, đóng vai trò quan trọng quyết định chất
lượng dạy học. Xcatkin đã nói một cách rất hình ảnh “Mọi mặt của quá trình dạy
học được phản ánh trong giờ lên lớp như hình ảnh mặt trời thu gọn trong giọt
nước”. Vì vậy BGH phải có biện pháp tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện giờ
lên lớp đạt kết quả tốt thực hiện được mục tiêu của bài học .
Tuy nhiên đối với giờ lên lớp, vai trò của BGH là gián tiếp do vậy chúng
ta càng phải quan tâm xây dựng và quản lý tốt giờ lên lớp của giáo viên:
- Xây dựng chuẩn giờ lên lớp: Để quản lý có hiệu quả, BGH phải xây dựng
chuẩn giờ lên lớp. Đó là những chuẩn mực cần thiết để quản lý giờ lên lớp, dựa
trên những quy định chung của ngành và hoàn cảnh riêng của nhà trường.
Mỗi loại bài học đều có chuẩn giờ lên lớp riêng, tất nhiên nó cũng có những
điểm chung mà lý luận dạy học đã khái quát, vì vậy khi quản lý giờ lên lớp
chúng tôi phải chú ý đến những điểm riêng khác biệt của mỗi loại bài học. Mỗi
8


loại bài học, giờ lên lớp sẽ diễn ra khác nhau; bài giảng kiến thức mới phải khác
với bài ôn tập, bài luyện tập và bài thực hành.
Khi xây dựng chuẩn giờ lên lớp cũng phải chú ý đến tình hình riêng của địa
phương mình, của trường mình.
- Xây dựng nền nếp giờ lên lớp: xây dựng nền nếp giờ lên lớp cho người
dạy thông qua việc sử dụng thời khoá biểu và nâng cao ý thức tự giác chấp hành

quy chế chuyên môn cho mỗi giáo viên. Chỉ khi họ nhận thức được trách nhiệm
của người thầy là phải đảm bảo đúng 45 phút vàng ngọc của học sinh trong giờ
dạy thì họ mới không “tham nhũng” thời gian của các con.
2.3.4. Tổ chức dự giờ và rút kinh nghiệm giờ dạy trên lớp
Giờ lên lớp là phần cơ bản của quá trình dạy học. Tổ chức dự giờ trên lớp
chính là một biện pháp không thể thiếu của người Cán bộ quản lý (CBQL); dự
giờ không chỉ tìm ra được những nhược điểm, những thiếu sót cần bổ sung cho
người dạy mà còn phát hiện ra những kinh nghiệm, những sáng tạo của giáo
viên để phổ biến những kinh nghiệm, những sáng tạo đó cho tập thể; cung cấp
cho giáo viên những lời khuyên về giảng dạy, học tập. Qua dự giờ cũng phát
hiện ra những vấn đề cần trao đổi giữa giáo viên với nhau, quan hệ giữa các bộ
phận trong nhà trường phục vụ cho công tác dạy học. Phân tích tình hình giờ lên
lớp sau một thời gian, BGH sẽ có những nhận xét khách quan, trung thực về tình
hình giờ lên lớp để có những quyết định phù hợp cho công tác quản lý giờ lên
lớp của mình.
Trong thực tế, những năm qua, việc tổ chức dự giờ lên lớp ở trường THCS
Trần Mai Ninh có các hình thức sau:
+ Dự giờ tất cả giáo viên nhằm tìm hiểu thái độ học tập của học sinh ở từng
lớp đồng thời để so sánh trình độ của giáo viên, phát hiện những ưu, nhược điểm
chính của mỗi người về kiến thức, phương pháp, phong cách... dạy học của từng
giáo viên.
+ Dự giờ theo chuyên đề nhằm nắm chắc trình độ của một giáo viên, một
lớp học sinh hay một tổ, nhóm bộ môn. Từ việc dự một tiết dạy để tổ/nhóm chuyên
môn thảo luận nhằm tìm ra phương pháp, cách thức dạy tốt nhất kiểu bài đó. Có
như thế mới nâng cao được chất lượng giờ dạy của từng giáo viên. Đây là biện
pháp được nhiều giáo viên tán đồng.
+ Dự giờ có báo trước, dự giờ đột xuất ...
Khi tiến hành dự giờ lên lớp của giáo viên, BGH chúng tôi thực hiện theo
các quy trình sau:
+ Chuẩn bị dự giờ: chuẩn bị là bước lập kế hoạch dự giờ. Người dự giờ phải

biết được vị trí của bài học trong chương trình. Mục tiêu cần đạt của bài học và
những dự kiến công việc tiến hành của người dạy để đạt mục tiêu đó. Trên cơ sở
đó dự định nội dung cần quan sát trong giờ.
+ Dự giờ, quan sát diễn biến của giờ lên lớp: quan sát tình huống của tiến
trình dạy học, quan sát thầy - trò - thiết bị dạy học và các sự kiện trong giờ học.
+ Phân tích, trao đổi: phân tích giờ học về các mặt tổ chức của giờ học, nội
dung của giờ học (tính khoa học, kiến thức trọng tâm), Phương pháp dạy học: sử
9


dụng phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, sự phù hợp giữa nội dung và
phương pháp, cách tổ chức hoạt động để phát huy tính tích cực của học sinh.
Nhiều năm nay, chúng ta chú trọng nhiều đến dạy học lấy học sinh làm trung
tâm. Nghĩa là quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động học tập để học sinh được
hoạt động nhiều hơn, tham gia vào bài học nhiều hơn và tự mình tìm ra những
kiến thức cần thu nhận.
Việc phân tích, trao đổi còn giúp cho giáo viên thấy được những ưu điểm,
nhược điểm của mình để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm.
+ Đánh giá giờ dạy: khi phân tích, đánh giá bài dạy của giáo viên, không
thể tách rời yếu tố cấu thành của bài học: Mục đích, nội dung, phương pháp, kết
quả.
+ Kiến nghị: từ việc kiểm tra dự giờ, BGH đưa ra những đề nghị thích
hợp cho giáo viên, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học.
Để việc kiểm tra trên lớp trở thành một việc làm thường xuyên, tránh tác
động đến tâm lý giáo viên và học sinh, chúng ta cần bình thường hoá việc kiểm
tra. Tạo cho việc dự giờ có nền nếp bằng cách tổ chức việc thăm lớp giữa các
giáo viên với nhau, hoặc nhóm bộ môn, tổ chuyên môn thăm lớp một giáo viên.
Khi việc thăm lớp, dự giờ đã trở thành nền nếp bình thường thì BGH vào kiểm
tra giờ lên lớp sẽ không có gì đặc biệt, xoá đi sự lo lắng, ngần ngại của giáo
viên. Việc giáo viên thường xuyên dự giờ, thăm lớp lẫn nhau cũng sẽ cung cấp

thêm cho người quản lí nhiều thông tin về giờ lên lớp của từng giáo viên, giúp
cho những nhận xét, đánh giá của chúng ta có độ tin cậy hơn.
Qua thực tế của trường, tôi thấy nhờ sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám
hiệu và tổ trưởng chuyên môn mà chất lượng giờ dạy của giáo viên được nâng
lên một cách rõ rệt. Đặc biệt là các tiết tham gia thi giáo viên dạy giỏi cấp Thành
phố, cấp Tỉnh của trường đã được đánh giá cao. Cụ thể năm học 2017 – 2018 và
2019- 2020 trường tôi có 11 đồng chí giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp TP,
trong đó có 3 thủ khoa (cô Bùi Thị Hiền – môn Toán, cô Nguyễn Thị Hằng môn Vật lý, thầy Nguyễn Văn Thịnh – môn Hóa học), có 2 giáo viên trẻ đạt
điểm cao thứ hai và thứ ba môn Ngữ văn; năm học 2019- 2020 có 03 đ/c được
Phòng Giáo dục&Đào tạo chọn cử đi thi GVG cấp Tỉnh thì có 01 người đạt thủ
khoa (cô Nguyễn Thị Hằng - môn Vật lý)
Những gương mặt xuất sắc đó được trưởng thành từ Hội thi GVG cấp
trường diễn ra sôi nổi hàng năm, từ quá trình nỗ lực phấn đấu trong từng giờ dạy
dưới sự chỉ đạo, quản lý của BGH nhà trường.
2.3.5. Quản lí việc đổi mới phương pháp dạy học
2.3.5.1. Công tác chuẩn bị
Những biện pháp quản lí hoạt động dạy học của giáo viên mà chúng tôi
trình bày ở trên là điều tất yếu mà người CBQL trong các trường THCS đều thực
hiện. Nhưng thiết nghĩ, một nội dung quan trọng trong công tác quản lí HĐ dạy
học mà tôi thấy vô cùng hiệu quả và rất cấp thiết trong tình hình giáo dục hiện
nay, đó là quản lí việc đổi mới phương pháp dạy học. Chúng tôi xác định đây là
10


nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, có ý nghĩa quyết định chất lượng học tập
của học sinh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước hết ban giám hiệu nhà trường, thông
qua các cuộc họp hội đồng sư phạm, thông qua cuộc họp tổ, nhóm chuyên môn
nâng cao nhận thức cho giáo viên về hoạt động đổi mới phương pháp dạy học.
Giáo viên phải hiểu rõ bản chất của hoạt động đổi mới phương pháp dạy

học là sự kế thừa, cải tiến hoặc đưa yếu tố mới vào các phương pháp dạy học
truyền thống, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới phương pháp tiến hành dạy học,
các phương tiện dạy học, cách tổ chức triển khai thực hiện quá trình dạy học…
trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và
vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tối đa tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh.
Giáo viên phải nhận thức được mục đích của đổi mới phương pháp dạy
dọc là làm thế nào để học sinh phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn tìm
tòi suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức để phát triển và hoàn
thiện nhân cách của mình.
Người quản lý cũng như giáo viên phải nhận thức được quy luật khách
quan của sự đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới là phát triển, không đổi mới
là tụt hậu và có nguy cơ bị đào thải. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng trong phương
pháp dạy học, không có phương pháp nào là vạn năng, việc phối hợp vận dụng
các phương pháp dạy học mang lại hiệu quả giáo dục cao theo mục tiêu đề ra
chính là đổi mới phương pháp dạy học.
Chất lượng của hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường
gắn liền với sự chỉ đạo, quản lý của ban giám hiệu. Để thực hiện tốt công tác
này, ban giám hiệu đã thực hiện một số việc sau:
- Thành lập Ban chỉ đạo hoạt động đổi mới phương pháp dạy học gồm:
Ban giám hiệu và các tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn.
- Cán bộ quản lý và giáo viên dự các lớp chuyên đề do sở Giáo dục - Đào
tạo và phòng GD - ĐT thành phố tổ chức.
- Ban giám hiệu cung cấp tài liệu về đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra
đánh giá để giáo viên nghiên cứu, vận dụng.
- Mở lớp bồi dưỡng tin học cho cán bộ giáo viên; tổ chức cho giáo viên
học cách soạn giáo án điện tử, soạn bài giảng E-Learning, biết ứng dụng công
nghệ thông tin trong quá trình dạy học, tìm tài liệu tham khảo trên mạng; sử
dụng phần mềm tiện ích trong dạy học, dạy trực tuyến…

- Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phương tiện dạy học phục vụ cho
hoạt động đổi mới PPDH.
- Ban giám hiệu nắm vững thực trạng dạy học của từng bộ môn; hiểu rõ
năng lực giảng dạy và kỹ năng sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học
của giáo viên để có sự chỉ đạo sát và đúng.
2.3.5.2. Chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH
2.3.5.2.1.Chỉ đạo giáo viên:
11


Ban giám hiệu yêu cầu giáo viên :
- Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm tình hình lớp, chất lượng học tập của
học sinh môn mình phụ trách, nắm vững nguyên tắc đổi mới PPDH, nguyên tắc
hướng dẫn học sinh học và tự học.
- Đầu tư thời gian, công sức vào việc soạn giáo án và chấm chữa bài cho
học sinh.
- Sử dụng công nghệ thông tin trong giờ dạy phải phù hợp với đặc trưng
bộ môn, với nội dung bài giảng nhằm hỗ trợ cho PPDH tích cực, khơi nguồn
hứng thú cho học trò. Tuyệt đối không máy móc, rập khuôn, không biến thành
việc trình chiếu giáo án…
- Giáo viên phải chịu khó nghiên cứu tài liệu và tích cực dự giờ đồng
nghiệp để học hỏi, rút kinh nghiệm cho việc đổi mới PPDH của mình.
Trong việc chỉ đạo giáo viên thực hiện đổi mới PPDH, Ban giám hiệu nhà
trường đã tập trung chỉ đạo, quản lý những hoạt động cơ bản, quan trọng như
sau:
a. Chỉ đạo, quản lý việc soạn bài, thông qua kiểm tra giáo án
- Giáo án phải xác định được mục tiêu, kiến thức trọng tâm của bài dạy;
xác định được phương pháp giảng dạy và phương pháp đó được thể hiện qua
cách thiết kế bài giảng, qua hệ thống câu hỏi.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới hệ thống câu hỏi bởi biết hỏi là biết cách

khơi nguồn hứng thú và phát huy tính tích cực của học sinh, biết hỏi là biết dạy
(dĩ nhiên Ban giám hiệu chỉ kiểm tra được với bộ môn mình được đào tạo,
những bộ môn khác phải huy động tổ trưởng, nhóm trưởng kiểm tra theo kế
hoạch của nhà trường)
- Giáo án phải thể hiện được sự đầu tư chuẩn bị cho các hoạt động của trò,
chứ không chỉ chú trọng vào hoạt động của thầy. Đồng thời trong giáo án, giáo
viên phải chuẩn bị thật cẩn thận chu đáo hoạt động hướng dẫn học sinh tự học ở
nhà.
- Khi kiểm tra giáo án, Ban giám hiệu, tổ trưởng so sánh đối chiếu giữa
những giáo viên trong cùng một khối, một bộ môn để thấy được điểm mạnh, yếu
của từng người. Từ đó có sự chỉ đạo chuyên môn sát hơn.
b. Chỉ đạo, quản lý hoạt động đổi mới PPDH qua giờ dạy trên lớp:
Thông qua các tiết dự giờ, Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn cùng các
thành viên khác nhận xét góp ý giờ dạy về một số vấn đề:
* Khâu kiểm tra bài cũ:
+ cách nêu câu hỏi
+ Nội dung KT vừa yêu cầu học sinh thể hiện được hiểu biết về kiến thức
cốt yếu của bài học trước vừa có thể làm cầu nối để dẫn dắt vào bài mới
+ Có thể kiểm tra bài trước (vừaa học xong) nhưng cũng có thể kiểm tra
kiến thức đã học trước đây, có liên quan đến bài mới.
+ Cần linh hoạt tuỳ theo từng đơn vị kiến thức để kiểm tra đầu giờ dạy
hoặc lồng vào trong quá trình dạy bài mới.
* Nội dung và phương pháp của giờ dạy:
12


Người dự chú ý tới:
- Hệ thống câu hỏi, cách dẫn dắt để cuốn HS vào hoạt động học tập; tăng
câu hỏi yêu cầu tư duy sáng tạo để trò phát huy tính tích cực, tự giác trong quá
trình lĩnh hội kiến thức.

- GV chú trọng việc nhận xét sửa chữa các câu trả lời, cách trả lời của học
sinh.
- Cách tổ chức cho HS được làm việc (cá nhân hay nhóm) phải rất linh
hoạt và thực sự có chất lượng.
- Thầy cô phải khuyến khích học sinh sử dụng Bản đồ tư duy như một
công cụ chiếm lĩnh kiến thức tổng hợp về bài học, như một công cụ gợi mở,
kích thích quá trình tìm kiếm kiến thức và như một công cụ để củng cố, khái
quát bài học.
- Phương pháp dạy cần linh hoạt, phù hợp với từng kiểu bài, với từng đối
tượng học sinh.
- Một điều cũng đáng lưu tâm đó là thái độ của GV: Thầy cô giáo phải
thực sự thân thiện, kiên nhẫn, tôn trọng và biết động viên khích lệ HS khi tiến
hành giờ dạy trên lớp. Có như thế mới tạo được bầu không khí sư phạm nhẹ
nhàng cởi mở, thân thiện và HS mới chủ động, tự tin trong giờ học.
* Khâu hướng dẫn HS luyện tập:
- Chú ý các dạng bài tập: Nhận diện
Giải thích
Vận dụng…
- Qua phần luyện tập, phải rèn luyện kĩ năng nói lưu loát; kỹ năng viết
đoạn văn mạch lạc cho học sinh.(đối với môn Ngữ văn)…
* Khâu hướng dẫn HS học bài và chuẩn bị bài:
Thông thường GV còn xem nhẹ việc làm này, nếu có thì cũng chỉ là hình
thức. Trước đây nhiều thầy cô giáo chỉ nhắc trò học và soạn bài tiếp theo mà
không hướng dẫn cụ thể khi học bài cũ cần chú trọng những đơn vị kiến thức
cơ bản nào, khi soạn bài mới cần chuẩn bị thêm những gì ngoài việc trả lời các
câu hỏi trong SGK
Với bộ môn Ngữ văn, có thể yêu cầu các em học thuộc lòng khi soạn bài
nếu đó là thơ. Theo kinh nghiệm nhiều năm đứng lớp, có thể khẳng định rằng
nếu HS thuộc thơ trước khi học trên lớp thì việc chiếm lĩnh tác phẩm sẽ thuận
lợi hơn rất nhiều.

* Tổ chức lấy ý kiến của HS về bài giảng để có sự điều chỉnh thích hợp,
bởi mục đích cuối cùng của đổi mới PPDH là phát huy được tính tích cực và
nâng cao chất lượng học tập của HS.
Điều quan trọng là từ việc dự giờ để rút ra PPDH phù hợp nhất với từng
đối tượng HS.
c. Chỉ đạo, quản lý việc kiểm tra, đánh giá HS
Từ lý luận đến thực tiễn đều cho thấy đổi mới PPDH là điều kiện để đổi
mới kiểm tra đánh giá và đổi mới KTĐG sẽ thúc đẩy đổi mới PPDH. Chính vì
13


mối quan hệ tương tác ấy nên BGH chúng tôi đã chú ý thích đáng đến hoạt
động kiểm tra đánh giá HS của GV trong trường.
- Trước hết là chỉ đạo, quản lý khâu ra đề – lập đáp án, biểu chấm:
Yêu cầu GV phải thống nhất trong nhóm CM về ma trận, về phạm vi kiến
thức… nhưng không trùng đề để tránh hiện tượng quay cóp.
Đề bài phải:
Bám sát mục tiêu môn học
Đảm bảo tính vừa sức và phân hoá HS
Đảm bảo tỷ lệ các mức độ kiến thức kỹ năng: ghi nhớ, nhận
biết, thông hiểu, vận dụng sáng tạo
Có các dạng đề khác nhau
- Tiếp theo là chỉ đạo, quản lý việc chấm chữa bài:
Yêu cầu khi chấm bài, GV phải bám sát thang điểm (đối với bài tự luận
môn Ngữ văn cần trân trọng những bài viết sáng tạo); chấm cẩn thận, chính
xác, công tâm; ghi rõ lời phê, lời phê vừa chỉ ra nhược điểm để HS khắc phục,
vừa nêu được ưu điểm để động viên khích lệ các em tự tin, cố gắng hơn.
Khi trả bài, GV cùng chấm tay đôi với HS một vài bài
GV lưu bài làm tốt của HS trong hồ sơ của mình, HS phải lưu giữ bài
kiểm tra. Khi cần, BGH, tổ trưởng chuyên môn có thể xem bài của học sinh

nhằm kiểm tra cách ra đề, chấm xác xuất để kiểm tra độ chính xác của GV.
2.3.5.2.2. Chỉ đạo tổ chuyên môn
Tích cực đổi mới cách thức và nội dung sinh hoạt tổ để không nặng về
hành chính mà chú trọng tới chuyên môn
Tổ CM phải xác định hoạt động đổi mới PPDH là nhiệm vụ trọng tâm và
trở thành nội dung chính trong sinh hoạt CM.
Sau khi dự các lớp chuyên đề, tổ chức trao đổi thảo luận trong nhóm, tổ
để tháo gỡ những băn khoăn.
Tổ chức giờ thao giảng, dạy mẫu theo từng bộ môn để giáo viên trong tổ
dự giờ, nhận xét, rút ra phương pháp dạy học tốt nhất phù hợp với đặc trưng bộ
môn và đối tượng tiếp nhận.
Các tổ, nhóm thảo luận, xây dựng giáo án và cử người thực hiện dạy các
bài khó, các dạng bài khác nhau. Từ đó thống nhất phương pháp dạy với từng
kiểu bài.
Cán bộ quản lý (các Phó Hiệu trưởng trực tiếp đứng lớp) và các tổ trưởng,
nhóm trưởng phải là những người đi tiên phong trong hoạt động đổi mới
PPDH.
Trường chúng tôi may mắn có những giáo viên cốt cán của các môn Ngữ
văn, Hoá học, Lịch sử, Tiếng Anh do phòng Giáo dục và Sở giáo dục&Đào tạo
chọn cử nên BGH sử dụng lực lượng cốt cán này đi tiên phong trong hoạt động
đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra các bộ môn khác cũng xây dựng được
đội ngũ cốt cán là những giáo viên giỏi của bộ môn đó để các thành viên trong
nhóm, tổ dự giờ học hỏi.
14


Động viên các thành viên trong tổ viết sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới
PPDH.
Để nâng cao chất lượng chuyên môn đồng đều giữa các khối, lớp, trường
đã triển khai tổ chức các chuyên đề cấp trường ở tất cả các bộ môn và giao cho

GV có năng lực C/M phụ trách.
Ban giám hiệu đã có kế hoạch tổ chức các chuyên đề một cách khoa học,
có chất lượng, sắp xếp thời gian để các giáo viên trong trường đi dự, sau đó tổ
chức thảo luận để rút kinh nghiệm đi đến thống nhất về hướng lựa chọn phương
pháp giảng dạy, lựa chọn hình thức tổ chức dạy học …vv
Làm tốt công việc này là một biện pháp hữu hiệu để củng cố và nâng cao
khả năng chuyên môn cho giáo viên, nhất là trong giai đoạn cần tích cực đổi mới
phương pháp dạy học.
Qua việc tổ chức các chuyên đề của trường và dự chuyên đề của Phòng
giáo dục, Ban giám hiệu và các đồng chí giáo viên đã nắm vững hơn về việc đổi
mới phương pháp của từng bộ môn và từ đó có sự chỉ đạo các tiết dạy hiệu quả
hơn.
2.3.6. Quản lý việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học
Quá trình nhận thức là từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, nhất là
đối với học sinh THCS, yếu tố trực quan lại càng cần thiết. Đồ dùng dạy học
góp phần quan trọng tới chất lượng giảng dạy. Chính vì vậy Ban giám hiệu rất
chú ý đến việc sử dụng đồ dùng dạy học. Chúng tôi yêu cầu tổ chuyên môn:
- Thống nhất việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cho các tiết của tuần tới trong
điều kiện nhà trường hiện có, nếu thiếu phải bổ sung làm thêm hoặc mua phục
vụ cho giảng dạy.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với chất lượng bài
dạy nên Ban giám hiệu đã chỉ đạo:
+ Thành lập Ban kiểm tra đồ dùng dạy học, đồng chí Hiệu trưởng-Trưởng
ban, Phó Hiệu trưởng - Phó ban, 2 tổ trưởng là uỷ viên, với các hình thức kiểm
tra: Đột xuất, báo trước, trong đó kiểm tra đột xuất là chính.
+ Đồ dùng được sắp xếp theo môn, theo tuần, theo tháng.
+ GV thông báo việc sử dụng đồ dùng trước một tuần để giáo viên phụ
trách thí nghiệm chuẩn bị sẵn sàng.
Những năm học gần đây, trường chúng tôi đã làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục huy động được các bậc phụ huynh đóng góp mua sắm trang thiết bị dạy

học hiện đại lắp đặt ở 34 phòng học phục vụ cho hoạt động dạy của thầy, hoạt
động học của trò. Năm học 2019 – 2020, trường tiếp nhận 10 phòng học thông
minh, đang hoàn tất việc lắp đặt để đưa vào sử dụng.
Nhờ đồ dùng dạy học phong phú, phương tiện dạy học hiện đại thuận tiện
cho việc sử dụng nên giáo viên có điều kiện đổi mới phương pháp giảng dạy ở
các bộ môn, học sinh hứng thú học tập, chủ động tìm hiểu nội dung bài dưới sự
hướng dẫn của thầy.
2.3.7. Một số biện pháp hỗ trợ khác
15


Muốn đẩy mạnh phong trào dạy tốt thì điều quan trọng nhất là phải xây
dựng được đội ngũ giáo viên. Muốn có giáo viên giỏi, Ban giám hiệu cần
khuyến khích động viên, tạo mọi điều kiện để giáo viên, nhất là giáo viên trẻ
phấn đấu vươn lên, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng để họ trở thành giáo viên
dạy giỏi. Làm tốt 06 giải pháp trên cũng là để xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi
về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ sư phạm.
- Bên cạnh đó, một công việc không kém phần quan trọng để nâng cao chất
lượng giảng dạy là việc Ban giám hiệu khuyến khích tạo điều kiện cho giáo viên
học tập nâng cao trình độ. Hiện nay trường có 02 giáo viên đang học thạc sĩ, 01
nhân viên học Đại học, 02 đảng viên học trung cấp LLCT. Mỗi đồng chí giáo
viên đều coi việc học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề
là quyền lợi và trách nhiệm của mình.
- Có thể nói rằng công tác kiểm tra, đánh giá và thi đua khen thưởng là
một động lực thúc đẩy chất lượng dạy học. Do đó BGH đã chú ý thích đáng đến
công tác này. Nhà trường đã chú trọng thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục
và dành kinh phí để khen thưởng cho CBGV và học sinh có thành tích xuất sắc
trong các hoạt động giáo dục. Những giáo viên có nhiều thành tích trong quá
trình dạy học, nâng cao chất lượng của học sinh và trong việc bồi dưỡng HSG
được vinh danh khen thưởng trước toàn trường, được xét tăng lương trước thời

hạn theo qui định chung, được đề nghị các cấp khen thưởng… Có như vậy mới
tạo được không khí thi đua sôi nổi và lành mạnh giữa các giáo viên, thu hút
được sự đầu tư chăm lo của cha mẹ học sinh cho việc dạy - học nói chung và
công tác bồi dưỡng HSG nói riêng.
- Ban giám hiệu tranh thủ được sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp
lãnh đạo, đặc biệt là Phòng Giáo dục&Đào tạo thành phố Thanh Hóa để nâng
cao chất lượng dạy học. Tổ chức cho CBGV tham quan, giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm giảng dạy với các trường trong và ngoài tỉnh như: Trường THCS Kim
Đồng thành phố Hội An, trường THCS Lê Đình Chinh – Ngọc Lạc, trường
THCS Thị trấn Bến Sung – Như Thanh.
- Quản lí hoạt động học của HS là việc làm quan trọng để hỗ trợ cho hoạt
động dạy của thầy.
- Để quản lý tốt mọi hoạt động trong nhà trường, đặc biệt là hoạt động dạy
học của GV thì Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng cũng cần phải tự học hỏi, hoàn
thiện, nâng mình lên cho xứng tầm với vị trí công tác.
Tóm lại, quản lý công tác giáo dục nói chung và quản lý hoạt động dạy
học của giáo viên nói riêng là trách nhiệm của những nhà quản lý giáo dục
trong nhà trường. Có nhiều giải pháp khác nhau để nâng cao chất lượng dạy
học trong trường THCS . Trong đề tài này, người viết đề xuất 7 giải pháp thực
hiện. 7 giải pháp đó có mối quan hệ qua lại với nhau, tác động hỗ trợ cho nhau
cùng tồn tại và phát triển. Theo chúng tôi, thực hiện đồng bộ và có hiệu quả 7
giải pháp trên sẽ tạo ra sự chuyển biến tích cực, sâu sắc trong công tác quản lý
hoạt động dạy học của giáo viên ở các nhà trường.
16


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ thực tiễn của cuộc sống và trường học, với trách nhiệm của người làm
công tác quản lý, tôi đã cùng các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường thực
hiện một số giải pháp nêu trên (mục 2.3). Hiệu quả của các giải pháp được thể

hiện trong bảng thống kê sau:

Giỏi
(%)
2015 - 2016 82,97
2016 - 2017 84,36
2017 - 2018 85,18
2018-2019 85,21
Năm học

Xếp loại văn hóa
Khá
TB
Yếu
(%)
(%)
(%)
16,34 0,62
0,07
14,96 0,68
0
14,15 0,67
0
14,27 0,52
0

Xếp loại đạo đức
Tốt
Khá
TB Yếu

(%)
(%)
(%) (%)
99,52 0,48
0
0
99,44 0,56
0
0
99,53 0,47
0
0
99,48 0,52
0
0

Nhìn vào bảng thống kê với những con số biết nói như trên, có thể thấy
trong nhiều năm qua, trường THCS Trần Mai Ninh đã có sự phát triển ổn định,
vững chắc trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đó là minh chứng
sinh động nhất cho hướng đi đúng đắn của chúng tôi.
Có được kết quả đó là do sự cố gắng không ngừng của đội ngũ giáo viên
và ý thức học tập say sưa của các em học sinh. Bên cạnh đó nhà trường có một
điểm tựa vô cùng vững chắc là phụ huynh học sinh và sự quan tâm của toàn xã
hội. Tuy nhiên không thể không nói tới vai trò quan trọng của việc quản lí, chỉ
đạo hoạt động dạy học của những nhà quản lí - Ban giám hiệu nhà trường.

17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


3.1. Kết luận
Nghị quyết Trung ương II (khoá VIII) nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn năng lực cho tương lai đất nước là
một việc làm có tính cấp bách”. Đảng ta chỉ rõ đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển bền vững của đất nước. Chính vì vậy quan điểm của Đảng ta trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải coi “giáo dục là quốc
sách hàng đầu”. Nhiệm vụ của Ngành giáo dục là phải chú trọng đến việc giáo
dục toàn diện cho học sinh, tập trung đầu tư cho chất lượng đại trà của học sinh,
chất lượng này là nền móng vững chắc cho việc bồi dưỡng và tuyển chọn học
sinh năng khiếu, HSG. Người thầy đóng vai trò tiên quyết trong việc đó.
Vì vậy quản lí hoạt động dạy học của người thầy có vị trí hết sức quan
trọng, là hoạt động không thể thiếu, là nhiệm vụ của người quản lí. Nó không
chỉ quyết định sự thành công của một năm học mà còn có ảnh hưởng to lớn tới
cuộc đời của mỗi học sinh. Đồng thời hoạt động này còn có vai trò thúc đẩy sự
nỗ lực của mọi lực lượng tham gia giáo dục và khẳng định uy tín của người thầy,
vị thế của nhà trường.
Trong đề tài, người viết đã làm rõ một số khái niệm công cụ; trình bày
được tầm quan trọng của việc quản lý hoạt động dạy học của giáo viên trong
trường THCS; lý luận về hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học; các
nội dung quản lý hoạt động dạy học.
Đề tài đã tiến hành nghiên cứu, điều tra, đánh giá được thực trạng công
tác quản lý quản lý hoạt động dạy học của giáo viên ở trường THCS Trần Mai
Ninh Thành phố Thanh Hóa.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, người viết đã mạnh dạn đề xuất 7 giải
pháp quản lý hoạt động dạy học của giáo viên ở trường THCS Trần Mai Ninh,
có thể áp dụng vào các trường THCS trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa như
sau
Giải pháp 1: Quản lí việc thực hiện chương trình
Giải pháp 2: Quản lí việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp của giáo viên

Giải pháp 3: Quản lí giờ lên lớp
Giải pháp 4: Tổ chức dự giờ và rút kinh nghiệm giờ dạy trên lớp
Giải pháp 5: Quản lí việc đổi mới phương pháp dạy học
Giải pháp 6: Quản lý việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học
Giải pháp 7: Một số biện pháp hỗ trợ khác như xây dựng đội ngũ giáo viên;
làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá, thi đua khen thưởng; tăng cường giao lưu,
học hỏi kinh nghiệm; quản lý hoạt động học của học sinh…

18


Đề tài đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các giải pháp và có số liệu
minh chứng cho tính khả thi của các giải pháp quản lý hoạt động dạy học của
giáo viên ở trường THCS.
Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện đề tài và
thực hiện việc quản lý hoạt động dạy học của giáo viên gắn với các phong trào
thi đua, các cuộc vận động của toàn xã hội và của Ngành giáo dục, đặc biệt là
việc thực hiện Nghị quyết 29 của BCH TW Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Đề án đổi mới Ngành
giáo dục của TP Thanh Hóa nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trên
cơ sở đó nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi để xứng tầm với vị thế
của nhà trường và của thành phố Thanh Hóa.
3.2. Kiến nghị
Để công tác quản lí hoạt động dạy học trong các nhà trường đạt hiệu quả
cao, chúng tôi đề nghị Sở Giáo dục&Đào tạo và Phòng Giáo dục&Đào tạomột
số nội dung sau:
- Cần tổ chức Hội nghị trao đổi phổ biến kinh nghiệm của những đơn vị
làm tốt công tác quản lý hoạt động dạy của giáo viên.
- Tổ chức cho CBQL đi tham quan, giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các
đơn vị có thành tích cao trong hoạt động dạy học.

- Có chế độ khen thưởng đúng mức, thoả đáng cho CBQL giỏi, cho giáo
viên có thành tích trong giảng dạy.
- Biên soạn, cung cấp tài liệu về công tác quản lí trong nhà trường.
- Có các chuyên đề hoặc các khoá học dành cho CBQL để cập nhật những
thông tin và kiến thức mới nhất.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

T.P Thanh Hoá, ngày 10 tháng 5 năm 2020
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết đề tài

Lê Thị Nga

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Nga
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng, trường THCS Trần Mai Ninh
Tên Đề tài Sáng kiến
Biện pháp quản lý công tác
giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh qua giờ học bộ môn

và HĐGDNGLL ở trường
THCS Trần Mai Ninh
Một số giải pháp quản lý
công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cho học sinh ở
trường THCS Trần Mai
Ninh, TP Thanh Hóa
Một số giải pháp quản lý
công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cho học sinh ở
trường THCS Trần Mai
Ninh, TP Thanh Hóa (phát
triển thêm)
Một số giải pháp quản lý
công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cho học sinh ở
trường THCS Trần Mai
Ninh, TP Thanh Hóa (phát
triển thêm)

Số, ngày, tháng, năm của quyết định
Năm Xếp
công nhận; cơ quan ban hành quyết
cấp loại
định
A

Số 258/QĐ-HĐKHSK ngày 06 tháng
6 năm 2016; UBND TP Thanh Hoá


C

Số 972/QĐ-SGD&ĐT ngày
28/11/2016; Sở GD&ĐT tỉnh Thanh
Hoá

B

Số 1112 /QĐ-SGD&ĐT ngày
18/10/2017; Sở GD&ĐT tỉnh Thanh
Hoá

A

Số 454a/QĐPGDĐT ngày 28/6/2018;
Phòng GD&ĐT TP Thanh Hoá

C

Số1455/QĐSGD&ĐTngày26/11/2018;
Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá

C

Số2007/QĐSGD&Đtngày08/11/2019;
Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá

2016

2017


2018

2019

20



×