Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.97 KB, 115 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG

NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHƯƠNG THỊ LAN PHƯƠNG

NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao
chép của ai. Các kết quả khảo sát và nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung


thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Khương Thị Lan Phương


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, đã
tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo trong Khoa Ngôn ngữ
học, Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Hà nội, ngày 13 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn

Khương Thị Lan Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT................................................................. 11
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan.........................................11
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa................................................ 14
1.3. Sự phát triển nghĩa của từ..................................................................... 20
1.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ........................................................... 22
1.5. Từ đa nghĩa……………………………………………………………….24
Chương 2. NGỮ NGHĨA CỦA TỪ “ĂN” VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA
NÓ TRONG TIẾNG VIỆT…………………………………………………...26

2.1. Ngữ nghĩa của từ “ăn” trong tiếng Việt.................................................29

2.2. Khả năng kết hợp của từ “ăn” trong tiếng Việt..................................... 33
Chương 3. NGỮ NGHĨA VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA NHÓM TỪ
ĐỒNG NGHĨA VỚI TỪ “ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT............................ 59
3.1. Nhóm từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt.................................59
3.2. Khả năng kết của những từ đồng nghĩa với từ “ăn” trong tiếng Việt……...60

KẾT LUẬN.................................................................................................... 75
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN VĂN……………………………………………………………..79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan niệm của người Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội, và
cuộc sống sinh hoạt luôn gắn liền với bữa cơm gia đình – nơi ẩn chứa nhiều
đạo lý, thể hiện tình cảm, yêu thương gắn kết giữa các thành viên, là linh hồn
của hạnh phúc, và cũng là nơi truyền đạt những tư tưởng, truyền thống, những
đạo lý từ thế hệ này qua thế hệ khác. Từ những phép cư xử tưởng chừng đơn
giản thông qua cách ăn uống: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng đến quan niệm
về cái ăn, cái mặc: Ăn lấy chắc, mặc lấy bền; Một miếng giữa làng bằng một
sàng xó bếp… ông bà ta muốn trao gửi đến thế hệ con cháu những thông điệp
đầy chất nhân văn, một trong những điều đầu tiên, cơ bản nhất mà mỗi người
đều cần phải học đó là “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Như vậy, “ăn”
không còn đơn giản chỉ là câu chuyện của việc duy trì sự sống, mà còn ẩn
chứa trong đó những bài học về nhân cách, là quan niệm về nhân sinh, về
cuộc sống và các đạo lý, các cách hành xử trong xã hội của con người.
Có thể nói hoạt động ăn của con người không chỉ là hoạt động mang
tính sinh học để duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với mỗi cộng

đồng với những thói quen, tập tục. Thông qua thói quen ăn uống, chúng ta có
thể hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý dân tộc, tập quán cũng như cách ứng
xử của con người với môi trường. Bởi vậy, cùng với sự thay đổi và phát triển
không ngừng của xã hội, thì vốn từ vựng trong tiếng Việt nói chung và vốn từ
vựng liên quan đến từ “ăn” nói riêng cũng không ngừng tăng lên, hoạt động
“ăn” của con người dần vượt lên những giá trị duy trì sự sống, vươn tới tầm
nghệ thuật. Điều đó được phản ánh khá sinh động trong ngôn ngữ.

1


Với những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài : Nhóm từ, ngữ nói về
“ăn” trong tiếng Việt. Với mong muốn thông qua sự nỗ lực tìm hiểu, nghiên
cứu sự phát triển của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” cùng với quá trình phát triển
của dân tộc, cũng như sự phát triển của nhóm từ này trong các mặt khác nhau
của cuộc sống dưới góc độ ngôn ngữ học. Thông qua đó có thể góp một phần
nhỏ vào nghiên cứu sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nói chung, và của
nhóm từ liên quan đến từ “ăn” nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của
từ ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển nghĩa của từ trong tiếng Việt,
là một trong những lĩnh vực được khá nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu. Bởi từ vựng là một bộ phận được coi là không ổn định nhất trong
hệ thống ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động và phát triển, sự
biến đổi nghĩa là một sự thực hiển nhiên và không ngừng thay đổi cùng với sự
phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học, được thể hiện
trong một số công trình nghiên cứu về từ vựng học, từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt của các tác giả như Nguyễn Văn Tu, trong cuốn “Từ vựng học tiếng

Việt hiện đại” [40] đã đưa ra được nhiều quan điểm lý thuyết về sự biến đổi
nghĩa. Ông đã trình bày về bản chất và nguyên nhân của biến đổi nghĩa, phân
loại biến đổi nghĩa. Còn tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng sự thay đổi nghĩa của
từ trong tiếng Việt do nguyên nhân đơn giản là nhằm đáp ứng nhu cầu tạo
thêm từ mới của xã hội.[4]
Bên cạnh đó, một số tác giả như Lê Quang Thiêm đã dành nhiều sự
quan tâm đến biến đổi ý nghĩa của các yếu tố từ vựng. Trong ấn bản chuyên
khảo về lịch sử từ vựng (2003), tác giả đã dành một số trang để
2


khảo sát, nghiên cứu sự phát triển nghĩa qua con đường đa nghĩa hóa trong
tiếng Việt hiện đại (1858-1930). Đặc biệt, trong cuốn “Sự phát triển nghĩa từ
vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005” [35]. Đây là công trình Việt ngữ học
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc nhất về sự phát triển nghĩa
của từ vựng tiếng Việt trên quan điểm đồng đại, vận dụng phương pháp lịch
sử so sánh, phân tích cấu trúc – hệ thống… Trên cơ sở đó có thể xác lập được
các tầng nghĩa, kiểu nghĩa để từ đó tìm hiểu sự biến đổi, phát triển nghĩa từ
vựng qua các mốc thời gian gắn liền với các sự kiện lịch sử và những thăng
trầm của đất nước.
Tác giả Nguyễn Đức Tồn trong “Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy” [38] đã trình bày về đặc điểm của quá trình chuyển nghĩa của
trường từ vựng chỉ động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người (so sánh giữa
tiếng Việt và tiếng Nga). Tác giả đã phân tích và thống kê lượng nghĩa
chuyển, các phương thức chuyển nghĩa từ đó rút ra những nhận định về quá
trình chuyển nghĩa của các trường từ vựng này.
Tác giả Phạm Văn Lam (2007) trong “Bước đầu khảo sát sự phát triển
ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng trong tiếng Việt từ năm 1945 đến nay”
[22] đã khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của một số nhóm từ vựng danh từ
thường được sử dụng trong lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn từ năm 1945

đến nay. Nghiên cứu cho thấy, sự mở rộng và phát triển nghĩa của các nhóm
từ gắn liền với sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử của dân tộc qua
quãng thời gian có nhiều biến động và phát triển quan trọng. Trên cơ sở khảo
sát sự phát triển nghĩa theo hướng trí tuệ hóa và biểu trưng hóa, từ đó tác giả
chỉ ra các xu hướng, con đường phát triển nghĩa của tiếng Việt, phân tích và lý
giải các con đường phát triển ấy.
Theo hướng nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ ngôn
ngữ học tri nhận, Lý Toàn Thắng trong “Ngôn ngữ học tri nhận nhìn
3


từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” [31] đã áp dụng những khái
niệm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, đưa ra những
luận giải và các kết luận rất có giá trị đối với sự phát triển ngữ nghĩa của từ
trong tiếng Việt. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong bài viết “Ngữ nghĩa của từ
“Ra”, “Vào” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nghiệm thân”[17] đã dùng lí
thuyết nghiệm thân để lí giải con đường chuyển nghĩa của từ “ra”, “vào” trong
tiếng Việt.
Hay tác giả Nguyễn Thị Hiền (2018) trong “Sự phát triển ngữ nghĩa
của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận”
[15] đã dùng cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận để làm rõ hiện tượng
phát triển ngữ nghĩa. Đặc biệt là thông qua hai phương thức chuyển nghĩa ẩn
dụ và hoán dụ. Tác giả đã nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa của từ dưới
góc độ ngôn ngữ học tri nhận để từ đó tìm ra các giá trị văn hóa và tư duy đặc
thù của dân tộc thông qua việc sử dụng ngôn ngữ.
Thông qua các công trình của một số tác giả trên cho thấy, việc nghiên
cứu sự phát triển nghĩa trong tiếng Việt nói chung, trong thời gian gần đây đã
dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt là các công
trình nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, từ góc độ ngôn ngữ học tri
nhận với những cấu trúc ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ, đa dạng về nghĩa cũng

như cách sử dụng, đã tạo nên những nét mới trong nghiên cứu sự phát triển
nghĩa của từ trong tiếng Việt.
2.2. Tình hình nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ nói
về “ăn” trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, việc nghiên cứu về nhóm từ, ngữ nói về “ăn”, khởi
điểm là Hoàng Tuệ trong bài viết “Câu chuyện tiếp tục về nghĩa của những từ
đơn tiết” [43]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tính đa nghĩa của

4


từ “ăn”, đồng thời chỉ ra gần 40 nghĩa của từ này. Trên cơ sở từ nghĩa gốc của
từ “ăn” đã làm nảy sinh bốn dòng nghĩa phái sinh như sau:
1. Dòng nghĩa tiếp thụ
2. Dòng nghĩa hưởng thụ
3. Dòng nghĩa hài hòa
4. Dòng nghĩa tiêu hao
Từ đó, tác giả đã đưa ra một số nhận xét hết sức thú vị và độc đáo về sự
phát triển nghĩa từ “ăn” trong văn hóa và trong đời sống của người Việt. Theo
tác giả, mỗi dòng nghĩa là một trật tự biện chứng đi từ cụ thể đến khái quát.
Các dòng nghĩa cũng tập hợp lại thành một trật tự cân đối và đẹp đẽ, đầy sức
sống.
Tiếp theo là đề tài nhiên cứu “Một số vấn đề văn hóa ăn, uống trong xã
hội cổ truyền người Việt” [20] do Nguyễn Hải Kế (2004) chủ trì đề tài. Tác
giả cho rằng: từ “ăn” trong tiếng Việt đã mở rộng, phát triển nghĩa bao hàm
nghĩa bóng sang tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội… Qua từ
“ăn” có thể nhìn thấy những nét cơ bản, phổ biến của xã hội Việt Nam ngày
hôm qua.
Cùng quan tâm đến vấn đề cái “ăn” trong văn hóa Việt, tác giả Vũ Ngọc
Khánh trong cuốn sách “Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi” [21] khi viết

về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã dành một chương để nói về đề tài này. Theo
tác giả, trong ngôn ngữ Việt Nam, không có từ nào như từ “ăn” được ghép
thành vô số những từ tố thông dụng trong tiếng nói con người. Có những từ
phải suy nghĩ, phân tích mới thấy là ghép với từ “ăn” cũng là thích hợp.
Nhưng có những từ không dính dáng gì đến chuyện “ăn”, mà vẫn phải dùng
chữ ăn để làm thành phần của từ tố, từ vị. Chuyện ăn của người Việt quả là
một bài học vô cùng đa dạng và tinh tế.

5


Nguyễn Đức Dân trong bài viết “Ăn, một từ kỳ thú” [7] đã khẳng định
từ “ăn” có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc bởi nó là một từ chỉ hoạt động cơ
bản nhất của con người. “Ăn” là hành động gắn liền với con người ngay từ
buổi sơ khai, nghĩa của từ “ăn” được mở rộng dần theo cách lấy khuôn mẫu
con người để nhận thức vũ trụ. Và nó là một từ điển hình có nghĩa được mở
rộng, con đường phát triển ngữ nghĩa của từ “ăn” vô cùng phong phú. “Ăn”
từ nghĩa đen đến nghĩa ẩn dụ, rồi các nghĩa chuyển, nghĩa phái sinh là thiên
biến vạn hóa, nó diễn tả mọi nhận thức của con người về cuộc sống quanh
mình và về vũ trụ một cách rất chân thực nhưng cũng vô cùng tinh tế.
Cùng trong mạch luận bàn về cái ăn, về ẩm thực, luận án “Đặc điểm
trường ngữ nghĩa ẩm thực (trên tư liệu tiếng Hán và tiếng Việt) của Ngô Minh
Nguyệt [23] là công trình chuyên sâu nghiên cứu về các từ ngữ ẩm thực ở Việt
Nam. Tác giả tập trung nghiên cứu các từ, ngữ liên quan đến ăn uống, chỉ ra
đặc điểm cấu trúc, đặc trưng ngữ nghĩa, từ đó nêu ra những hàm ý văn hóa
của các từ ngữ ẩm thực: Đặc điểm con người, đặc trưng văn hóa ẩm thực
trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cùng với sự phát triển của xã
hội, ăn uống dần vượt lên giá trị duy trì sự sống, điều này được phản ánh sinh
động trong ngôn ngữ.
Có thể nói trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đều cho

rằng con đường phát triển nghĩa của từ “ăn” là vô cùng phong phú, nó gắn
liền với đặc trưng tư duy và văn hóa dân tộc.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ
“ăn” trong tiếng Việt kể trên, thì việc nghiên cứu các thành ngữ có chứa thành
tố “ăn” trong tiếng Việt cũng dành được sự quan tâm đặc biệt của một số tác
giả. Trong đó tác giả Nguyễn Hữu Đạt (2010) với bài viết “Con đường tạo
nghĩa của các thành ngữ liên quan đến ‘văn hóa ăn’ và ‘văn hóa
6


mặc’ trong tiếng Việt” [8] đã đi sâu vào phân tích quá trình tạo nên nghĩa biểu
trưng liên quan đến các thành ngữ biểu thị nội hàm “văn hóa ăn và văn hóa
mặc” của người Việt, trên cơ sở đó để tìm ra mối quan hệ gắn bó khăng khít
giữa “văn hóa ăn và văn hóa mặc” trong tiếng Việt. Đây được xem là một
trong các cơ sở hình thành nên nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam.
Tác giả Đào Thị Hồng Quyết trong luận văn thạc sĩ “Đặc điểm của
thành ngữ có chứa thành tố “Ăn” trong tiếng Việt” [29] cũng nghiên cứu trên
khối liệu thành ngữ chứa thành tố “ăn” trong tiếng Việt, làm rõ đặc điểm ngữ
nghĩa và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt, trong đó, tư duy về văn hóa
ăn được thể hiện qua thành ngữ như tính cộng đồng trong bữa ăn, tính phép
tắc xã hội, miếng ăn thể hiện triết lý về đạo sống của người dân Việt Nam.
Tiếp cận theo hướng tri nhận, Nguyễn Thị Bích Hợp trong “Ẩn dụ ý
niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt” [17] đã nghiên cứu về miền ý niệm đồ
ăn, với việc xây dựng mô hình cấu trúc miền đồ ăn gồm 5 nhóm lớn, tương
ứng với 5 điển mẫu. Thông qua việc nghiên cứu các điển mẫu với 5 mô hình
tỏa tia “cơm, ăn, mặn, bát, đói”, tác giả đã chứng minh rằng “ăn” là ý niệm có
sự phát triển nghĩa mạnh nhất, từ một nghĩa gốc phái sinh 04 chùm nghĩa, rồi
phát triển lên tổng số thành tố là 16 nghĩa. Các thành tố nghĩa mới có sự biến
chuyển xa dần nghĩa trung tâm. Thông qua mô hình tỏa tia, cho thấy xu hướng
tư duy ẩn dụ, hoán dụ trong quá trình ý niệm hóa tạo nên các nghĩa mới.

Nguyễn Thị Hương (2017) với đề tài “Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống
trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [18] đã nghiên cứu sự chuyển nghĩa,
tỏa tia nghĩa của những điển mẫu là những từ chỉ phạm trù ăn, uống, từ nghĩa
gốc, nghĩa phái sinh đến các ẩn dụ ý niệm trong hai ngôn ngữ.

7


Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên, cho chúng ta thấy,
việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của từ, ngữ nói về “ăn” tiếng Việt là tương
đối phong phú. Tuy nhiên, việc đi sâu lí giải cơ chế hình thành những nghĩa đó,
cũng như tìm hiểu các từ đồng nghĩa trong nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong Tiếng
Việt, chưa dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của giới Việt ngữ. Điều đó đã
gợi ý cho tôi thực hiện đề tài “Nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là tìm hiểu sự phát triển ngữ nghĩa của
nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần
khẳng định khuynh hướng phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn”
trong tiếng Việt. Thông qua đó, để hiểu rõ hơn về quan niệm sống, nhân sinh
quan của người Việt về văn hóa ăn, mà sâu sắc hơn là cách nhìn nhận, đánh
giá con người được thể hiện qua hoạt động “ăn”.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
- Xây dựng khung lý thuyết về ngữ nghĩa của từ và hiện tượng chuyển
nghĩa của từ.

- Khảo sát sự phát triển nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” được thể
hiện trong ngữ cảnh, qua các kết hợp, thông qua đó, để có thể thấy được sự
phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

8


Trong phạm vi của luận văn này đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là
nghiên cứu các nhóm từ, ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt. Trên cơ sở đó
nghiên cứu ngữ nghĩa và cơ chế tạo nghĩa của từ, xuất phát từ nghĩa gốc của
từ “ăn” trong từ điển.
- Luận văn xác định những từ, ngữ đồng nghĩa chỉ hoạt động “ăn” trong
tiếng Việt và các kết hợp của nhóm từ này trong ngữ cảnh sử dụng, cũng như
giá trị ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh.
- Luận văn xác định các nghĩa chuyển của từ “ăn” trong tiếng Việt theo
hướng xa dần với nghĩa gốc và hoạt động của nhóm này trong hành chức cũng như

ý nghĩa ngữ dụng của chúng trong ngữ cảnh (khảo sát ngôn ngữ báo chí, trong
văn chương và trong các thành ngữ).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát ngữ nghĩa của từ “ăn” và dãy đồng nghĩa của từ “ăn”
trong Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê [25], Từ điển đồng nghĩa tiếng
Việt của tác giả Nguyễn Văn Tu [42]. Để xem xét các kết hợp của “ăn” trong
hành chức, luận văn khảo sát hoạt động của nhóm từ, ngữ nói về “ăn” (bao
gồm cả các từ đồng nghĩa với từ “ăn”) trên ngôn ngữ báo chí (báo điện tử),
trong một số tác phẩm văn học và trong thành ngữ.
4.3. Tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu nghiên cứu chủ yếu của luận văn được lấy trong các cuốn Từ

điển tiếng Việt, Từ điển thành ngữ Việt Nam, một số tác phẩm văn học. Bên cạnh đó
luận văn còn khai thác tư liệu từ các trang Wed về thành ngữ tiếng Việt, một số bài
viết, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu quan tâm đến sự phát triển ngữ nghĩa
của từ “ăn” đã xuất bản. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát ngữ liệu dựa chủ yếu trên
các trang báo điện tử như: báo Thanh niên ( báo Tuổi trẻ
( báo Dân trí ( báo Vietnamnet

9


và một số trang báo điện tử khác được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp phép.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số
phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả: Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm xác
định các nội hàm các khái niệm từ, nghĩa của từ, và các từ đồng nghĩa.
- Phương pháp phân tích nghĩa nghĩa: Phương pháp này được sử dụng
để phân tích nghĩa của từ để tìm ra nghĩa gốc, nghĩa phái sinh của từ.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lí luận: Việc nghiên cứu sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ,
ngữ nói về “ăn” trong tiếng Việt góp phần khẳng định khuynh hướng phát
triển ngữ nghĩa của nhóm từ “ăn” trong giai đoạn thực tế hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể ứng dụng trong
giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ và bản ngữ, cung cấp cơ sở giải thích nghĩa
của từ “ăn” trong giảng dạy tiếng Việt, đặc biệt cho người nước ngoài học tiếng
Việt; thông qua đó, góp phần làm rõ mối liên hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, và Phụ lục, nội dung luận văn gồm có

ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết.
Chương 2. Ngữ nghĩa của từ “ăn” và khả năng kết hợp của nó trong tiếng

Việt
Chương 3. Ngữ nghĩa và khả năng kết hợp của nhóm từ đồng nghĩa với
từ “ăn” trong tiếng Việt

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm từ và những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm từ
Từ là một trong những khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học. Khi nghiên
cứu bất cứ một ngôn ngữ nào người ta cũng không thể bỏ qua việc xác định đơn
vị này. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về từ, bởi ở mỗi loại hình ngôn ngữ
khác nhau, từ cũng có những đặc điểm riêng của mình. Vấn đề “từ” trong tiếng
Việt cũng vậy, nó là vấn đề thuộc về lý luận cơ bản, vì toàn bộ hệ thống miêu tả
ngôn ngữ phụ thuộc vào nó. Từ không chỉ là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn
là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ nói chung. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về từ. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa nào lý tưởng về từ có thể áp
dụng cho mọi ngôn ngữ, bởi mỗi ngôn ngữ có những nét riêng biệt.

Theo định nghĩa của tác giả Nguyễn Thiện Giáp, định nghĩa phổ biến
hiện nay được nhiều nhà ngôn ngữ học cho là phù hợp về từ là: “Từ là đơn vị
nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [12, tr.61]
Đối với tiếng Việt, những tiếng như: hai, ba, ăn, ngủ, tôi nhà, tốt, đẹp,
… và, tuy, nhưng…. đều được mọi người nhất trí coi là từ. Từ là đơn vị cơ bản

của tiếng Việt và là đơn vị có thể đảm nhiệm nhiều chức năng nhất:
- Chức năng cơ bản của từ là chức năng định đanh, nhưng trong dãy ngữ
đoạn, từ còn mang chức năng “phân biệt nghĩa” bộc lộ ý nghĩa này hay ý nghĩ
khác của những từ nhiều nghĩa.
- Từ tham gia vào các mối liên hệ từ vựng trong ngữ đoạn. Chính đặc điểm
này đã biến từ trở thành một loại đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, nằm trên giao
điểm của hai trục tọa độ cơ bản trong tổ chức cấu trúc của ngôn ngữ - trục đối
vị (trục dọc) và trục nối tiếp (trục ngang).

11


- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ rất phức tạp, trong đó có cả nhân tố từ vựng
lẫn nhân tố ngữ pháp.
So với từ của các ngôn ngữ Ấn Âu thì từ của tiếng Việt có những đặc
điểm sau:
- Từ tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Ví dụ: ăn là một từ có
nghĩa, nhưng nếu phân tích ra thành /ă/ /n/ thì đó chỉ là những âm hoàn toàn
không có nghĩa.
- Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm (ví dụ: trời và giời, trăng và
giăng…), biến thể từ vựng - ngữ nghĩa (ví dụ: Các ý nghĩa khác nhau của từ
ăn: ăn giải, xe ăn xăng, ăn ảnh, ăn nằm…) nhưng không có biến thể hình thái
học.
- Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn bó chặt chẽ với nhau ở
trong từ tiếng Việt.
Từ những đặc điểm trên của tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã
rút ra định nghĩa về từ của tiếng Việt như sau: “Từ của tiếng Việt là một chỉnh
thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết,
một khối viết liền” [13, tr.77]
Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số

âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm
trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất
định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [4, tr.16]. Trong đó,
các thành phần bên trong từ (thành phần ngữ âm, thành phần ngữ pháp, thành
phần cấu tạo, thành phần ý nghĩa) không độc lập với nhau mà quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau thành một tập thể gọi là từ. Và các thành phần ấy
có tính đồng loạt chứ không phải chỉ có tính riêng biệt.

12


Chính nhờ tính đồng loạt của các thành phần mà khi gặp một hình thức
ngữ âm nào đó, chúng ta mới có thể quyết định nó là từ nào và sử dụng nó
theo cách nào.
Ví dụ: Khi gặp hình thức ngữ âm “sơn”, dựa vào thành phần ngữ pháp
và ý nghĩa chung với các từ tô, bôi, nhuộm…mà chúng ta quyết định và sử
dụng nó như một động từ.
Theo chúng tôi, mỗi khái niệm đều đề cập đến những khía cạnh khác
nhau của từ tiếng Việt. Ví dụ như đơn vị cấu tạo từ, đặc điểm của từ… Tuy
nhiên để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi lựa chọn khái
niệm về “từ” theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu.
1.1.2. Khái niệm ngữ
Trong quá trình phát triển của dân tộc, một trong những thành tựu quan
trọng nhất là sự mở rộng không ngừng những tư tưởng, những khái niệm mà
con người có thể truyền đạt được. Con người cần thông báo cho nhau không
chỉ cảm xúc, tri thức…mà còn có vô hạn các sự kiện trong đời sống. Hệ thống
các từ trong tiếng Việt không đủ để biểu thị một số lượng lớn như thế các khái
niệm, hiện tượng khác nhau. Từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu là phải cấu tạo
thêm những đơn vị từ vựng mới trên cơ sở những từ đã có sẵn. Những đơn vị
như thế được gọi là ngữ, có giá trị tương đương với từ.

Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp [13, tr. 537]: “Ngữ là những cụm từ
sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm
giống với từ”:
- Chúng có thể tái hiện trong lời nói như các từ.
- Về mặt cú pháp, chúng cũng có thể làm thành phần câu, tức là có
tính độc lập về cú pháp.

13


- Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu hiện những hiện tượng của thực tế
khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người.
Tính cố định và tính thành ngữ là hai đặc trưng cơ bản của ngữ.
1.2. Nghĩa của từ và hiện tượng đồng nghĩa
1.2.1. Khái niệm nghĩa của từ
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người. Xét về mặt lý thuyết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu.
Mỗi tín hiệu là một tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện và cái được biểu
hiện mà thành. Cái biểu hiện trong ngôn ngữ chính là hình thức ngữ âm, còn
cái được biểu hiện là khái niệm (ý nghĩa) hay đối tượng được biểu thị. Hai
mặt này luôn gắn kết với nhau, không tách rời nhau, giống như “hai mặt của
một tờ giấy vậy”. Nghĩa của từ cùng với hình thức ngữ âm được hình thành và
ổn định dần dần trong lịch sử phát triển ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
“Nghĩa của từ” là một trong những khái niệm quan trọng nhất của ngôn
ngữ học. Có rất nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm này.
Một số người cho rằng, nghĩa của từ là sự vật hay hiện tượng do từ biểu thị.
Chẳng hạn, theo quan niệm này, nghĩa của từ cây là bản thân cái cây trong thực tế,
nghĩa của các từ ăn, nói …từ tốt, xấu… là bản thân hành động, tính chất tương ứng.

Trên thực tế, vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên

nghĩa của từ cũng là một hiện tượng phức tạp. Ở Việt Nam, vận dụng những
thành tựu nghiên cứu về nghĩa vào thực tế tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng
đã đưa ra quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ như sau:

Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp sau khi
đã trình bày các quan niệm khác nhau về nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên
thế giới, đã đưa ra nhận định của mình về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ
là một đối tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản như sau:“nghĩa
sở chỉ”, “nghĩa sở biểu”, “nghĩa sở dụng”, “nghĩa cấu trúc” [11, tr.126].
14


Theo tác giả Hoàng Phê, nghĩa của từ là “Một tập hợp những nét nghĩa có
quan hệ quy định lẫn nhau. Mỗi nghĩa của từ là một tổ hợp đặc biệt những thành tố
ngữ nghĩa, gọi là các nét nghĩa”; “Ý nghĩa của từ vừa là cái riêng cho từng từ, vừa
là cái chung cho những từ cùng loại. Nắm được cái chung, cái riêng trong ý nghĩa
thì mới thực sự hiểu từ, thực sự hiểu được những cái tinh tế trong từ và mới hiểu
được những đặc sắc của từng ngôn ngữ ở những phương diện nội dung”. [26]

Quan niệm của Hoàng Phê cho thấy, cấu trúc của nghĩa từ là một cấu
trúc động, trong quá trình đi vào hoạt động, thường chỉ có một số nét nghĩa
của từ có khả năng hiện thực hóa. Khả năng hiện thực hóa ấy là tùy thuộc vào
từng ngữ cảnh mà chúng xuất hiện.
Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ
nghĩa tiếng Việt [4, tr.103], ông cho rằng: Nghĩa của từ là có thể chia thành hai
lớp nghĩa là lớp nghĩa cấu trúc hóa và lớp nghĩa liên hội. Trong lớp nghĩa cấu
trúc bao gồm ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Nếu ý nghĩa ngữ pháp là ý
nghĩa chung cho hàng loạt các từ (ý nghĩa hoạt động của các từ: ăn, uống,
ngủ, cười, khóc…ý nghĩa sự vật của các từ: nhà, cây, sách, bút…) thì ý nghĩa
từ vựng là ý nghĩa riêng của từng từ. Ý nghĩa từ vựng tùy theo các chức năng

mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ bao gồm các thành phần ý
nghĩa sau đây: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ý nghĩa biểu vật của từ là sự phản ánh sự vật, hiện tượng…trong thực tế
khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở nguồn gốc của ý nghĩa
biểu vật. Nó mang tính võ đoán, quy ước của xã hội, đó là những mẩu, những
mảnh trong những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế,
có tính khái quát nên không gắn với hoạt động, tính chất cụ thể của sự vật.

15


Ýnghĩa biểu niệm của từ là thành phần cơ bản của ý nghĩa từ vựng. Sự
vật, hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào ngôn ngữ thành ý
nghĩa biểu vật và từ có ý nghĩa biểu vật thì sẽ có ý nghĩa biểu niệm tương ứng. Ý
nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng được sắp
xếp theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Các từ thuộc các từ loại khác nhau,
có cách tổ chức các nét nghĩa khác nhau. Còn các ý nghĩa biểu niệm của những
từ trong một từ loại lại có tổ chức giống nhau. Giữa các nét nghĩa của chúng lại
có quan hệ với nhau. Ví dụ, các nét nghĩa “đồ dùng” là dùng chung cho các từ
bàn, ghế, giường, tủ… nhưng trong mỗi từ này lại có những nét nghĩa riêng biệt.
Ý nghĩa biểu thái của từ là những nhân tố đánh giá, biểu thị cảm xúc và

thái độ mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Đây thực tế là sự phản ánh
mối quan hệ giữa từ và người sử dụng ngôn ngữ. Ví dụ: Từ “ôm” trong câu
“Bà mẹ ôm con vào lòng” trung hòa về mặt biểu thái. Nhưng câu nói “Cả
ngày chỉ ôm lấy cái điện thoại” thì từ “ôm” ở đây đã thể hiện thái độ chê
trách. Ba thành phần ý nghĩa trên phản ánh việc xem xét, nhìn nhận từ ở các

góc độ khác nhau. Vì từ là một thể thống nhất, sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa
của từ phải là sự hiểu biết thấu đáo từng mặt một nhưng cũng phải là sự hiểu
biết tổng quát về những mối liên hệ quy định lẫn nhau giữa chúng.
1.2.2. Hiện tượng đồng nghĩa
Hiện tượng đồng nghĩa là một vấn đề khá thú vị trong ngôn ngữ học. Theo
Đại từ điển Bách Khoa Xô Viết, tập 23 [114], thuật ngữ chỉ hiện tượng đồng
nghĩa thuật ngữ tiếng Anh là Synonymy có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
Synònymia có nghĩa là “cùng tên” chỉ quan hệ giữa hai biểu thức đẳng nghĩa
nhưng không đồng nhất. Tính chất đẳng nghĩa ở đây được hiểu là tính tương ứng,
hoặc là với cùng một biểu vật (sự kiện, khách thể….), hoặc là cùng một biểu
niệm (cái được biểu hiện thuộc tính ngôn ngữ). [dẫn theo 39, tr.66].

16


1.2.2.1. Phân biệt hiện tượng đồng nghĩa, đơn vị từ vựng đồng nghĩa và
từ đồng nghĩa
a. Hiện tượng đồng nghĩa
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, đồng nghĩa là một trong những khái niệm
có tính chất nền tảng nhất của ngôn ngữ học. Như chúng ta đã biết, trong ngôn
ngữ học, chủ yếu các nhà nghiên cứu chỉ nghiên cứu hiện tượng đồng nghĩa biểu
niệm. Các biểu thức A và B được gọi là đồng nghĩa nếu cái biểu hiện của chúng
không như nhau. Nghĩa là: hình thức (A) ≠ hình thức (B), còn cái được biểu hiện
của chúng là như nhau. Nghĩa là: Nội dung (A) = (B). Người ta thường nói đến
hiện tượng đồng nghĩa khi cái được biểu hiện tương ứng là khá gần gũi với các
khái niệm từ đồng nghĩa hay từ gần nghĩa. Theo Nguyễn Đức Tồn, hiện tượng
đồng nghĩa có nội dung rất rộng, nó có thể xảy ra giữa các hình vị (ví dụ: vôphi- bất), đơn vị từ vựng đồng nghĩa (ví dụ: chết, tử, ngoẻo, toi), các kết hợp cú
pháp (ví dụ: Hương cao hơn Nam- Nam không cao bằng Hương).

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng hiện tượng đồng nghĩa có mặt trong hệ

thống ngôn ngữ - những hiện tượng đồng nghĩa từ vựng và trong các văn bản
- những hiện tượng đồng nghĩa lời nói. Ở cả hai khu vực trên có thể có những
từ và ngữ cố định đồng nghĩa, có những cụm từ và cụm từ (tự do) đồng nghĩa
và cả những câu đồng nghĩa. [4, tr.192]
b. Đơn vị từ vựng đồng nghĩa và từ đồng nghĩa
Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn, các đơn vị từ vựng đồng nghĩa gồm
các từ và các ngữ cố định có chức năng tương đương với từ như: hoa hồng, sân bay,
quần áo, ông bà, chậm như rùa, nghịch như quỷ sứ... Do đó, hiện tượng đồng nghĩa
có thể xảy ra giữa các từ. Ví dụ: nhìn - nhòm - dòm - ngó, mẹ - má- bầm- u, xô- đẩyẩy, …hoặc giữa các ngữ cố định. Ví dụ: Được voi đòi tiên - Được đằng chân lân
đằng đầu; Đói cho sạch, rách cho thơm - Giấy rách giữ lấy lề...

17


Ngoài ra, hiện tượng đồng nghĩa còn xảy ra giữa một từ và một ngữ cố định:

xấu- xấu như ma, đen- đen như củ súng,…
Từ đó, ta có thể thấy rằng từ đồng nghĩa là trường hợp riêng quan trọng nhất
nằm trong cái được gọi là đơn vị từ vựng đồng nghĩa phân việt với đơn vị ngữ pháp
đồng nghĩa và tất cả đều nằm trong hiện tượng đồng nghĩa của ngôn ngữ. [39, tr.70]

1.2.2.2. Quan niệm về từ đồng nghĩa
Cho đến nay, trong lịch sử ngôn ngữ học có rất nhiều các quan niệm khác
nhau về từ đồng nghĩa. Sự bất đồng trước tiên trong khi giải quyết các vấn đề từ
đồng nghĩa là do kết cấu ngữ nghĩa đa dạng, phức tạp của từ gây nên. Mỗi từ không
phải bao giờ cũng chỉ có một nghĩa. Nhiều trường hợp một từ có nhiều nghĩa khác
nhau. Hiện tượng đa nghĩa này dẫn đến các quan niệm khác nhau về từ đồng nghĩa.

Nguyễn Văn Tu trong cuốn “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” đã đưa ra
quan niệm của mình về từ đồng nghĩa như sau: “Từ đồng nghĩa là nhiều từ

khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là
những tên khác nhau của một hiện tượng. Những từ đồng nghĩa có một chỗ
chung là việc định danh”. [39, tr. 153]
Đỗ Hữu Châu quan niệm về từ đồng nghĩa: “Hiện tượng đồng nghĩa là
hiện tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các
từ. Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ chỉ có chung một nét nghĩa đồng
nhất. Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì các từ càng đồng nghĩa
với nhau. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đó có tất cả các nét
nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác ở một hoặc vài
nét nghĩa cụ thể nào đó. [4, tr.199]
Nguyễn Đức Tồn quan niệm rằng: Từ đồng nghĩa phải dựa trên cả hai
thành phần nghĩa biểu vật và nghĩa biểu niệm: Hai đơn vị từ vựng/từ được
gọi là đồng khi chúng có vỏ ngữ âm khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc các
biểm niệm giống nhau:
18


a. Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu “A là B’ và đảo lại
“B là A” mà không cần phải chỉnh lý bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào
một trong hai đơn vị/từ thì đó là những đơn vị từ vựng/ từ cùng nghĩa.
Nếu như để chúng có thể xuất hiện được trong các kết cấu “A là B” và
đảo ngược lại “B là A” cần có một sự chỉnh lý, thêm nét nghĩa nào đó vào một
trong hai đơn vị thì từ đó là những đơn vị từ vựng/ từ gần nghĩa” [39, tr.97]

Từ định nghĩa trên của tác giả Nguyễn Đức Tồn cho thấy, các từ đồng
nghĩa trước hết phải là những thuộc về cùng một từ loại (có như vậy chúng
mới cùng xuất hiện được trong kết cấu đồng nhất “A là B” và “B là A”).
Trong ý nghĩa của chúng có chứa những yếu tố đồng nhất. Các yếu tố khác
nhau của các ý nghĩa này bị trung hòa hóa trong những ngữ cảnh nhất định.
Một số từ cực kì gần gũi về ý nghĩa được gọi là những từ cùng nghĩa. Đối với

trường hợp đặc biệt của các từ cùng nghĩa là các từ đồng nghĩa tuyệt đối.
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu
Châu và các nhà ngôn ngữ học đi trước, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã chia các
từ đồng nghĩa ra thành ba tiểu loại như sau:
a. Các từ đồng nghĩa ý niệm
Các từ đồng nghĩa ý niệm là các từ đồng nghĩa trung tính về phong cách
và khác biệt nhau về sắc thái của ý nghĩa cơ bản, chung cho mỗi từ. Chẳng hạn,
các từ đừng - chớ là những từ đồng nghĩa ý niệm, có ý nghĩa chung là đều biểu
thị ý “Khuyên ngăn không nên làm điều gì”. Hoặc từ như: nhiệm vụ - nghĩa vụ trách nhiệm, ý đồ - ý định, cơ hội - thời cơ - dịp, địch - giặc - quân thù…

b. Các từ đồng nghĩa phong cách
Các từ đồng nghĩa phong cách là những từ đồng nhất về ý nghĩa của
chúng và khác nhau về màu sắc phong cách.
Chúng ta có thể xác định được một từ nào đó là từ đồng nghĩa phong cách
khi đối chiếu nó với từ trung tính về phong cách tương ứng. Vì vậy, có thể nói trong

19


mỗi cặp từ đồng nghĩa phong cách hoặc trong mỗi dãy đồng nghĩa phong cách
chắc chắn sẽ có từ trung tính về phong cách. Chẳng hạn như các từ đồng
nghĩa phong cách trong nhóm từ nói về “ăn” trong tiếng Việt: Ăn (trung tính),
xơi, mời (sang trọng), hốc, đớp (thông tục)…
Các từ đồng nghĩa phong cách thường không thuần nhất. Có thể tách
chúng thành hai nhóm: Nhóm các từ cổ và nhóm các từ đồng nghĩa phong
cách tiếng Việt hiện đại.
c. Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách
Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ và các đơn vị tương
đồng của chúng biểu thị cùng một khái niệm hoặc cùng một hiện tượng của
hiện thực khách quan và khác nhau không chỉ về màu sắc phong cách mà còn

khác nhau cả về sắc thái của ý nghĩa chung ở mỗi từ. Ví dụ:
- Trinh thám - do thám - thám thính, vẻ vang - quang vinh, hát- ca,…
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, trong ba loại từ đồng nghĩa trên thì hai nhóm
từ đồng nghĩa ý niệm và từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ gần nghĩa.

Còn từ đồng nghĩa phong cách là những từ cùng nghĩa.
1.3. Sự phát triển nghĩa của từ
Trong diễn tiến ngôn ngữ, kết cấu nghĩa của từ luôn luôn vận động phát triển,
sự biến đổi nghĩa là sự thực hiển nhiên trong nghĩa ngôn ngữ. Có thể nói phát triển
nghĩa, chính là một quá trình phát triển mở rộng các chức năng (định danh, biểu
đạt…) của từ. Đây chính là sự tăng lên về dung lượng nghĩa có trong một từ, tức là
tăng thêm các biến thể từ vựng- ngữ nghĩa trong một vỏ bọc âm thanh của từ, là sự
tăng lên về các nét nghĩa trong cấu trúc của một biến thể từ vựng - ngữ nghĩa, các
nét nghĩa trong một biến thể từ vựng cho phép chủ thể ngôn ngữ có thể sử dụng từ
đó để gọi tên, biểu thị những đối tượng mà trước đây chưa được gọi tên, biểu thị.
Điều đó có nghĩa là phạm vi ứng dụng nghĩa của từ đã được mở rộng ra. Phát triển
nghĩa, vì thế, sẽ cho phép mặt được biểu hiện của từ có sự tăng lên về các ý niệm,

20


×