Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt theo pháp luật việt nam từ thực tiễn huyện hóc môn, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.39 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THANH XUÂN

THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THANH XUÂN

THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI, NĂM 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, thông tin là hoàn toàn trung thực. Các tài liệu trích dẫn đều được
ghi rõ nguồn gốc và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tác
giả.

Tác giả luận văn

ĐẶNG THANH XUÂN


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài...............................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................6
6. Kết cấu của luận văn...................................................................................7
CHƯƠNG 1.....................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THU GOM, VẬN
CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT..............................................8
1.1. Những vấn đề lý luận về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh
hoạt...................................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm rác thải sinh hoạt...................................................................8
1.1.2. Khái niệm thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt.....................11
1.2. Khái niệm và vai trò của pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác

thải sinh hoạt.................................................................................................14
1.3. Nội dung pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt
21
1.3.1. Nhóm quy định về thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt..................21
1.3.2. Quy định về xử lý rác thải sinh hoạt.....................................................24


Tiểu kết Chương 1.........................................................................................25
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THU GOM,
VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI TẠI HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH . 26

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt.................................................................................................26
2.1.1. Quy định trách nhiệm chung của tổ chức, cá nhân làm phát sinh rác
thải sinh hoạt...................................................................................................26
2.1.2. Quy định về thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt............................29
2.1.3. Quy định về xử lý rác thải sinh hoạt.....................................................30
2.1.4. Hợp đồng dịch vụ, chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh
hoạt..................................................................................................................33
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải
sinh hoạt tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh...........................35
2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh.........................................................................................................36
2.2.2. Thực tiễn thực thi các quy định pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý
rác thải sinh hoạt tại huyện Hóc Môn.............................................................38
Tiểu kết Chương 2.........................................................................................49
CHƯƠNG 3...................................................................................................50
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THU GOM, VẬN

CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..............................................50


3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt.................................................................................................50
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt.................................................................................................51
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý
rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh
55
3.3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thu gom, vận
chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh.........................................................................................................55
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh..........56
Tiểu kết Chương 3.........................................................................................63
KẾT LUẬN....................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................65
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước đến nay, vùng nông thôn được cho là nơi có môi trường sống
trong lành, sạch sẽ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, vùng
nông thôn đã và đang phát sinh 40.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày nhưng
tỷ lệ thu gom mới chỉ đạt khoảng 50-60%, có nơi chỉ đạt khoảng 30%, còn
phần lớn rác thải được chôn lấp thủ công, xử lý không hợp vệ sinh, gây ô
nhiễm môi trường. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sống của

người dân và gây mất mỹ quan nghiêm trọng. Theo ước tính của Ngân hàng
thế giới, Việt Nam đang mất khoảng 69 triệu đô la Mỹ thu nhập từ ngành du
lịch do hệ thống xử lý vệ sinh kém, trong đó có xử lý chất thải rắn sinh hoạt –
hay còn gọi là rác thải sinh hoạt [38].
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn trong cả nước, mỗi ngày phát
sinh hơn 9.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt, được thu gom và chuyển về 03 nhà
máy xử lý tại huyện Bình Chánh, huyện Củ Chi. Mỗi năm, Thành phố chi
khoảng 2.000 tỷ đồng cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn
sinh hoạt [39]. Ngày 11/6/2017, Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
ban hành Nghị quyết số 03/NQ-HĐND về công tác bảo vệ môi trường đô thị,
khu dân cư và quản lý chất thải trên địa bàn thành phố đến năm 2020, với chỉ
tiêu giảm tỷ lệ rác thải chôn lấp xuống 50% và giảm xuống còn 20% vào năm
2025. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ban hành
các chính sách và văn bản pháp lý hướng dẫn thống nhất thực hiện từ quy
định phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; tổ chức sắp xếp lại lực lượng
thu gom rác dân lập; chuẩn hóa các phương tiện thu gom, vận chuyển; hướng
dẫn giá dịch vụ thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt và quản lý chất thải
rắn sinh hoạt trên địa bàn 24 quận, huyện.

1


Cũng giống như các quận/ huyện khác, Hóc Môn – một huyện ngoại
thành của Thành phố Hồ Chí Minh gồm 11 xã và 01 thị trấn cũng gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc đối với hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải
sinh hoạt nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng, đặc biệt là trong bối cảnh
các hoạt động sinh hoạt, thương mại – dịch vụ đang phát triển mạnh như hiện
nay. Với mong muốn đóng góp cho việc tháo gỡ những khó khăn về xử lý rác
thải sinh hoạt hiện nay tại huyện Hóc Môn, tác giả lựa chọn đề tài “Thu gom,
vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn

huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu trong Luận văn
thạc sỹ của mình. Điều này sẽ góp phần nâng cao tiêu chí về môi trường trên
địa bàn huyện theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 –
2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1980/QĐ – TTg ngày 17/10/2016 của
Thủ tướng Chính phủ. “Tiêu chí 17.5 - Chất thải rắn trên địa bàn được thu
gom, xử lý theo quy định”, là một trong những tiêu chí cần phải đáp ứng để
công nhận xã nông thôn mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề rác thải nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng luôn là một
trong những vấn đề cần được sự quan tâm đúng mức của xã hội. Vì lẽ đó, đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Trước hết phải kể
đến các công trình nghiên cứu về hiện trạng, quy hoạch và công nghệ xử lý
rác thải sinh hoạt như:
Nguyễn Thanh Phong (2016) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp khả thi
xử lý rác thải sinh hoạt khu liên hợp Nam Bình Dương phục vụ cho phát triển
bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [26]. Công
trình đã đưa ra các công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt gồm các công nghệ tái
chế, chôn lấp hợp vệ sinh, xử lý chất thải công nghiệp, nước rỉ rác cho khu

2


liên hợp. Đồng thời xây dựng chương trình xử lý và giám sát chất lượng môi
trường cho khu liên hợp Nam Bình Dương.
Nguyễn Văn Phước (2016) “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng rác thải
sinh hoạt và đề xuất các giải pháp xử lý phù hợp với quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2020”, Tạp chí Tài nguyên và môi
trường. Công trình đã thu thập các số liệu và chỉ ra hiện trạng thu gom, vận
chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt. Đồng thời, công trình cũng đưa ra các biện
pháp xử lý phù hợp với tỉnh Bình Dương [27].

Phan Thị Ngân (2019) Pháp luật về quản lý chất thải rắn qua thực tiễn
thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật –
Đại học Huế [24]. Công trình đã tập trung phân tích các quy định pháp luật về
quản lý chất thải rắn: Quy định về phân loại, thu gom và vận chuyển chất thải
rắn; quy định về xử lý chất thải rắn; đồng thời, đánh giá thực tiễn thực hiện
pháp luật quản lý chất thải rắn tại thành phố Đà Nẵng để làm nền tảng cho
việc đề xuất các giải pháp. Tuy nhiên, công trình có phạm vi nghiên cứu khá
rộng, chất thải rắn bao gồm chất thải rắn nguy hại, chất thải rắn thông thường,
chất thải rắn công nghiệp và chất thải rắn sinh hoạt.
Đậu Hồng Cảnh (2019) Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt, qua thực
tiễn tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật – Đại học
Huế [18]. Công trình đã tập trung phân tích các quy định pháp luật về xử lý
rác thải sinh hoạt, bao gồm: Quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân làm
phát sinh rác thải sinh hoạt, quy định về thu gom, vận chuyển rác thải sinh
hoạt, quy định về xử lý rác thải sinh hoạt, hợp đồng dịch vụ, chi phí thu gom
vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt. Công trình tập trung đánh giá thực tiễn
áp dụng quy định về xử lý rác thải sinh hoạt tại tỉnh Quảng Trị để làm cơ sở
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử lý rác

3


thải sinh hoạt, qua đó, kiến nghị cách thức xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị.
Ngoài các công trình kể trên, còn có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề rác thải có thể kể đến như:
Nguyễn Văn Phương (2008) Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội [28];
Lê Kim Nguyệt (2002) “Một cơ chế phù hợp cho xử lý chất thải nguy
hại ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5 [25]; Nguyễn Văn

Phương (2003) “Chất thải và quy định xử lý chất thải”, Tạp chí Luật học, số 4
[29]; Nguyễn Văn Phương (2006) “Một số vấn đề về khái niệm chất thải”,
Tạp chí Luật học, số 10 [30]; Lại Văn Hùng (2016) “Nguy cơ ô nhiễm về chất
thải nguy hại”, Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 7 [20]; Trần Văn Nam (2018)
“Nhìn nhận về Chính sách về nhập khẩu phế liệu hiện nay”, Tạp chí Khoa học
nhân văn, số 5 [23]; Nguyễn Thị Mai (2019) “Xử lý rác thải sinh hoạt nguy
hại của Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Thái Nguyên, số 1 [22]…
Những bài viết nêu trên dừng lại ở việc phân tích một vài khía cạnh của
pháp luật xử lý chất thải nói chung, xử lý chất thải nguy hại nói riêng mà chưa
đi sâu nghiên cứu vấn đề về xử lý rác thải sinh hoạt thông thường. Qua đó, có
thể thấy rằng, đề tài “Thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh” chưa
từng được nghiên cứu trước đó. Thông qua Luận văn Thạc sỹ, tác giả mong
muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện pháp
luật về vận chuyển, thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu:

4


Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý
rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý rác thải sinh
hoạt nhằm mục tiêu phát triển bền vững.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận chung pháp luật về thu gom, vận
chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt;
Thứ hai, phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực thi

pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố
Hồ Chí Minh để tìm ra những tồn tại của quy định pháp luật liên quan.
Trên cơ sở đó, đưa ra phương hướng cũng như các đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tại huyện Hóc
Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật về thu gom,
vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt; thực tiễn thực thi các quy định pháp
luật tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Các quy định pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt theo pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành.
Tùy vào tiêu chí phân loại khác nhau mà rác thải sinh hoạt có thể được
phân loại thành rác thải sinh hoạt thông thường và rác thải sinh hoạt nguy hại.

5


Theo đó, xét về bản chất, rác thải sinh hoạt nguy hại trước hết cũng là một
loại rác thải sinh hoạt, vì thế, ngoài những quy định mang tính cá biệt áp dụng
riêng đối với rác thải sinh hoạt nguy hại, pháp luật về thu gom, vận chuyển,
xử lý rác thải sinh hoạt nguy hại cũng có những đặc điểm chung của pháp luật
về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt nói chung. Mặt khác, thực
tiễn thực thi pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt tại
huyện Hóc Môn nói riêng chủ yếu liên quan đến rác thải sinh hoạt thông
thường (được trình bày tại Chương 2 của Luận văn). Vì thế, trong phạm vi
Luận văn, tác giả tuy có đề cập đến các quy định của cả rác thải sinh hoạt
thông thường và rác thải sinh hoạt nguy hại nhưng chỉ đi sâu vào phân tích
các quy định liên quan đến rác thải sinh hoạt thông thường (rác thải sinh

hoạt).
Về thực tiễn: Thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn huyện Hóc Môn,
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đặt ra của Luận văn, tác giả sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu, cụ thể:
Phần lý luận chung về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt, tác
giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh.
Phương pháp phân tích, tổng hợp và đánh giá được tác giả sử dụng triệt
để trong việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và đánh giá thực tiễn áp dụng
chế định này.
Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp phân tích để đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
tại địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận: Luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận chung của
pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt.
Về thực tiễn: Luận văn góp phần hoàn thiện một số quy định pháp luật
về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt. Đồng thời, luận văn còn là
tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành ở huyện Hóc Môn trong việc hoạch
định biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý
rác thải sinh hoạt, đáp ứng tiêu chí môi trường trong xây dựng xã nông thôn
mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết
cấu thành ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật thu gom, vận chuyển, xử
lý rác thải sinh hoạt
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thu gom, vận chuyển, xử
lý rác thải sinh hoạt và thực tiễn thực thi tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt
trên địa bàn huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT THU GOM,
VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT
1.1. Những vấn đề lý luận về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh

hoạt
1.1.1. Khái niệm rác thải sinh hoạt
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm về rác thải được
quy định rải rác và chưa thống nhất. Bởi vậy, để làm rõ khái niệm này chúng
ta tìm hiểu thông qua việc phân tích ngữ nghĩa của cụm từ “rác thải”. Theo Từ
điển Tiếng Việt do Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
năm 2006 thì “rác thải” được hiểu với nghĩa như khái niệm “chất thải”, tức là
“rác và các vật bỏ đi sau một quá trình sử dụng nói chung”, ví dụ: Chất thải
công nghiệp, chất thải hạt nhân, xử lý chất thải”.
Như vậy, thực tế không có sự phân biệt rạch ròi giữa khái niệm chất thải
và khái niệm rác thải theo cách giải thích trong Từ điển Tiếng Việt. Bởi vậy,
trong phạm vi luận văn, tác giả đi sâu phân tích khái niệm rác thải trên cơ sở
nội hàm của khái niệm chất thải như cách hiểu đã nêu tại Điều 3 Luật Bảo vệ

môi trường năm 2014 đó là “chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”.
Dưới góc độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn
sử dụng được nữa, bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất
thải được sản sinh trong các hoạt động khác nhau của con người thì được gọi
với những thuật ngữ khác nhau như: Chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt và
sản xuất được gọi là rác thải; chất thải phát sinh sau khi sử dụng nguyên liệu
trong quá trình sản xuất được gọi là phế liệu; chất thải phát sinh sau quá trình

8


sử dụng nước được gọi là nước thải… Từ đó, chúng ta có thể thấy khái niệm
“chất thải” bao trùm lên khái niệm “rác thải”. Chất thải có thể là rác thải, nước
thải, khí thải… nhưng rác thải chỉ bao gồm chất thải rắn sinh hoạt, ví dụ như
những thứ vật chất từ đồ ăn, đồ dùng, chất phế thải sản xuất, dịch vụ, y tế…
mà mọi người không dùng nữa và thải bỏ đi. Theo quan điểm của GS.TS. Lê
Văn Khoa, có thể chia rác thải thành ba nhóm:
- Rác khô hay còn gọi là rác vô cơ: Gồm các loại phế thải thủy tinh;
sành sứ, kim loại, giấy cao su, nhựa, vải, đồ điện, đồ chơi, cát sỏi, vật liệu xây
dựng…
- Rác ướt hay thường gọi là rác hữu cơ: Gồm cây cỏ loại bỏ, lá rụng,
rau quả hư hỏng, đồ ăn thừa, rác nhà bếp, xác súc vật, phân động vật.
- Chất thải nguy hại: Là những thứ phế thải rất độc hại cho môi trường
và con người như pin, bình ắc quy, hóa chất, thuốc trừ sâu, bom đạn, rác thải y
tế, rác thải điện tử…
Từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về rác thải như sau:
“Rác thải là tổng hợp tất cả các loại chất thải rắn được thải ra từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác của con người”.
Với sự tương đồng về mặt ngữ nghĩa và bản chất của hai khái niệm “rác

thải” và “chất thải”, trong phạm vi luận văn tác giả sẽ tập trung phân tích việc
thi hành pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải dưới góc độ nghiên
cứu các quy định pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh
hoạt. Ngoài ra, rác thải sinh hoạt được phát sinh từ các hoạt động khác nhau
được phân loại theo nhiều cách:

9


- Theo vị trí hình thành: Tùy theo vị trí hình thành mà người ta phân ra
rác thải đường phố, rác thải vườn, rác thải các khu công nghiệp tập trung, rác
thải hộ gia đình...
- Theo thành phần hóa học và vật lý: Theo tính chất hóa học có thể
phân ra rác thải hữu cơ, rác thải vô cơ, kim loại, phi kim,
- Theo mức độ nguy hại, rác thải được phân thành:
+ Rác thải nguy hại: Bao gồm các hoá chất dễ phản ứng, các chất độc
hại, rác thải sinh học dễ thối rữa, các chất dễ cháy, dễ gây nổ, rác thải phóng
xạ, ...
+ Rác thải không nguy hại: Là những rác thải không chứa các chất và
các hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Rác thải y tế nguy hại: Là những rác thải có nguồn gốc từ các hoạt
động y tế, mà nó có đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến môi trường
và sức khỏe của cộng đồng bao gồm bông băng, gạt, kim tiêm, các bệnh phẩm
và các mô bị cắt bỏ, …
Nghị định số 38/2015/NĐ – CP ngày 24/04/2015 của Chính phủ về
quản lý chất thải và phế liệu (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số
Điều của các Nghị định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường)
quy định: Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn hoặc sệt (còn gọi là bùn thải)
được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động

khác [Khoản 1 Điều 3]. Chất thải rắn sinh hoạt (còn gọi là rác sinh hoạt) là
chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người [Khoản 3
Điều 3]. Các chất nảy sinh xung quanh, gần gũi với người dân chính là chất

10


thải rắn sinh hoạt. Có thể thấy, rác sinh hoạt hay chất thải rắn sinh hoạt là một
bộ phận của chất thải rắn.
Như vậy, rác thải sinh hoạt là toàn bộ các loại vật chất ở thể rắn được
con người loại bỏ trong các hoạt động kinh tế - xã hội của mình (bao gồm
hoạt động sản xuất, các hoạt động sống và duy trì sự tồn tại của cộng đồng,
...). Trong đó quan trọng nhất là các loại rác thải sinh ra từ các hoạt động
sản xuất và các hoạt động sống.
1.1.2. Khái niệm thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt
Theo Từ điển Tiếng Việt, xử lý được hiểu là việc “tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. Trong cuộc sống hàng ngày,
con người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số lượng lớn các nguyên liệu,
sản phẩm từ thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát triển đồng thời cũng
vứt, thải lại cho thiên nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Nền
kinh tế - xã hội càng phát triển, dân số tại các vùng đô thị, trung tâm công
nghiệp càng tăng nhanh thì phế thải và rác thải càng nhiều và ảnh hưởng trực
tiếp trở lại đời sống của con người, làm cho môi trường bị ô nhiễm, con người
mắc bệnh tật, giảm sức khoẻ cộng đồng, đất đai bị biến thành bãi rác, làm mất
cảnh quan tại các khu đô thị.
Trong lĩnh vực xử lý rác thải, những hoạt động tổ chức và điều khiển
của các cơ quan nhà nước cũng như việc tổ chức xử lý rác thải của các tổ
chức, cá nhân có liên quan, nhằm giảm bớt những tác động xấu của rác thải
đối với môi trường và sức khỏe con người được hiểu là hoạt động xử lý rác
thải. Đây là tổng hợp các biện pháp, cách thức nhằm kiểm soát quá trình phát

sinh, vận chuyển, xử lý rác thải và những ảnh hưởng, tác động của rác thải
đến môi trường.

11


Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà nước và cộng đồng đã đưa ra các
biện pháp xử lý rác thải, đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; xây
dựng hệ thống cống ngầm thoát nước, quy định những nơi chôn rác sinh hoạt,
những quy chế, phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và xử lý rác. Chính
vì vậy, những khu dân cư tập trung và cả đến tận thôn xóm vùng nông thôn
của các nước này đều có một cảnh quan đô thị, làng xóm sạch đẹp, văn minh,
con người khoẻ mạnh có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, đặc biệt là vấn đề vứt
rác và thu gom rác. Từ những kết quả thu gom phế liệu, rác thải, con người
nhận thấy họ có thể tái chế các nguyên liệu phế thải thành các sản phẩm tiêu
dùng mới vừa tiết kiệm bãi rác vừa tăng sản phẩm xã hội. Từ cách thức thu
gom, phân loại rác thải đã đem lại nhiều kết quả cho cuộc sống của con người
như: Môi trường sống không bị ô nhiễm, giảm diện tích chôn rác, đem lại
nguồn lợi kinh tế, thu nhập cho lao động xử lý rác.
Trong thập niên 70 - 80 của thế kỷ trước, công tác xử lý rác thải sinh
hoạt được các nhà xử lý quan tâm tập trung chủ yếu vào công tác thu gom và
xử lý các loại rác thải phát sinh từ hoạt động sinh hoạt của con người. Chính
vì vậy, mô hình thu gom, vận chuyển xử lý khi đó cũng mới chỉ hình thành ở
mức độ đơn giản. Đơn vị chịu trách nhiệm xử lý, thu gom, vận chuyển và xử
lý rác thải sinh hoạt được giao cho Phòng Xử lý đô thị trực thuộc Ủy ban nhân
dân tỉnh, với đơn vị chịu trách nhiệm vệ sinh đường phố là các công nhân quét
dọn và thu gom rác thải từ các hoạt động sinh hoạt của người dân khu vực đô
thị. Rác thải sau đó được tập kết và đổ thải tại nơi quy định.
Trong giai đoạn tiếp theo, cùng với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, các ngành kinh tế bắt đầu được Nhà nước ưu tiên phát triển.

Các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi và các ngành du lịch,
dịch vụ theo đó cũng phát triển mạnh là nguyên nhân phát sinh lượng rác thải

12


ngày càng nhiều. Đi kèm với quá trình phát sinh về khối lượng là tính phức
tạp, sự nguy hại về tính chất. Công tác xử lý rác thải sinh hoạt không còn đơn
thuần là xử lý rác thải sinh hoạt mà còn bao gồm vấn đề xử lý rác thải công
nghiệp, xây dựng, y tế, nông nghiệp... Quá trình phát triển đòi hỏi công tác xử
lý rác thải sinh hoạt phát triển tương ứng về cơ chế, chính sách, pháp luật và
các nguồn lực.
Nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế đặt ra, công tác xử lý rác thải
sinh hoạt được điều chỉnh bằng một hệ thống các chính sách, văn bản quy
phạm pháp luật quy định khá chi tiết. Song song với đó, hệ thống tổ chức xử
lý rác thải sinh hoạt bắt đầu hình thành và phát triển với các nguyên tắc tương
đối cụ thể; căn cứ theo chức năng xử lý và nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành
liên quan có trách nhiệm xử lý rác thải sinh hoạt phát sinh của ngành.
Cho đến nay, hoạt động xử lý rác thải sinh hoạt không chỉ tập trung vào
công tác thu gom và tập kết rác thải sinh hoạt đô thị đến nơi đổ thải theo quy
định. Công tác xử lý rác thải sinh hoạt hiện nay đã mở rộng hơn, bao gồm từ
hoạt động thu gom, vận chuyển, và xử lý rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh, đảm
bảo các Quy chuẩn Việt Nam và Tiêu chuẩn Việt Nam đặt ra; không những
đối với rác thải sinh hoạt sinh hoạt đô thị, nông thôn mà còn đối với rác thải
sinh hoạt công nghiệp, rác thải sinh hoạt từ hoạt động sản xuất nông nghiệp,
chăn nuôi và rác thải sinh hoạt y tế.
Trước đây thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải được gộp chung là
hoạt động xử lý rác thải sinh hoạt và được quy định trong Nghị định
59/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý rác thải sinh hoạt quy định, theo đó,
hoạt động xử lý rác thải sinh hoạt bao gồm các hoạt động quy hoạch xử lý,

đầu tư xây dựng cơ sở xử lý rác thải sinh hoạt, các hoạt động phân loại, thu
gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý rác thải sinh hoạt

13


nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động có hại đối với môi trường và sức
khoẻ con người.
Hiện nay, hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải được quy định
tại Nghị định 38/2015/NĐ – CP ngày 24/04/2015 của Chính phủ về quản lý
chất thải và phế liệu như sau: Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở
chất thải từ nơi phát sinh đến nơi xử lý có thể kèm theo hoạt động thu gom,
lưu giữ (hay tập kết) tạm thời, trung chuyển chất thải và sơ chế chất thải tại
điểm tập kết hoặc trạm trung chuyển [Khoản 11 Điều 3]. Xử lý chất thải là
quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật (khác với sơ chế) để làm
giảm, loại bỏ, cô lập, cách ly, thiêu đốt, tiêu hủy, chôn lấp chất thải và các yếu
tố có hại trong chất thải [Khoản 16 Điều 3].
1.2. Khái niệm và vai trò của pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử
lý rác thải sinh hoạt
Thực tế đã chứng minh, pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội, luôn có tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội.
Sự tác động và ảnh hưởng đó thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào
từng loại đối tượng và từng quan hệ cụ thể cần có sự điều chỉnh của pháp luật.

Với khái niệm về rác thải sinh hoạt, khái niệm về hoạt động thu gom,
hoạt động vận chuyển và hoạt động xử lý rác thải sinh hoạt đã được làm rõ.
Do đó, pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt có thể được
hiểu là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các
chủ thể phát sinh rác thải sinh hoạt và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện các hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh

hoạt nhằm bảo vệ, tái tạo môi trường và nâng cao sức khỏe cộng đồng.
Vai trò nổi bật của pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh
hoạt được thể hiện như sau:
14


Thứ nhất, pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt
bảo vệ môi trường sống của người dân
Bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà phải
được thực hiện bởi mỗi cá nhân. Tuy nhiên, con người chỉ có thể làm được
điều đó khi có nhận thức đúng đắn về bảo vệ môi trường. Vì thế, trong bảo vệ
môi trường, trình độ nhận thức của cộng đồng là yếu tố giữ vai trò quan trọng,
quyết định không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động này.
Pháp luật xử lý rác thải sinh hoạt thông qua các định hướng xử sự và
chế tài của mình đã góp phần làm thay đổi và nâng cao nhận thức của cộng
đồng, nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường ở nước ta. Hướng các chủ thể xử
sự đúng theo quy định của pháp luật trong các hoạt động phân loại, giảm
thiểu, thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt. Xác định mục tiêu cho
các hoạt động liên quan đến xử lý rác thải sinh hoạt thông thường của các chủ
thể là vì môi trường, vì con người và bên cạnh đó là vì lợi ích của chính họ.
Thứ hai, pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt góp
phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng
Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt được quy định sẽ dần góp phần
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân để đảm bảo cho họ được
hưởng quyền sống trong môi trường không ô nhiễm.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người.
Nếu môi trường sống bị hủy hoại thì loài người có nguy cơ bị hủy diệt. Cuộc
sống của con người luôn gắn bó mật thiết với môi trường: Môi trường tạo
không gian sinh sống cho con người, là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần
thiết cho sự sống và hoạt động sản xuất của con người, là nơi chứa đựng, hấp

thụ và trung hòa các rác thải ra từ quá trình sinh sống và sản xuất của con
người. Tuy vậy, quá trình hoạt động của con người đã vi phạm nghiêm trọng
15


các yếu tố cân bằng của tự nhiên một cách liên tục và ngày càng lớn, đã và
đang làm cho thế giới ngày càng biến đổi. Thực trạng môi trường ô nhiễm do
nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do ý thức con người, do nhận thức
không đúng đắn và đầy đủ về môi trường và trách nhiệm bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường sẽ là vấn đề sống còn đối với mỗi con người, mỗi gia đình,
mỗi cộng đồng dân cư; là việc phải làm thường xuyên, liên tục và là trách
nhiệm của mọi công dân.
Môi trường đang bị ô nhiễm: Các nguồn nước bị suy giảm nhanh, thậm
chí có nơi bị cạn kiệt, đất đai bị xói mòn, thoái hóa, không khí cả ở đô thị và
nông thôn đều bị ô nhiễm nặng, rừng bị tàn phá, rác thải, rác thải không được
xử lý đúng qui trình, đa dạng sinh học bị đe dọa nghiêm trọng.
Trong quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển của con người, con người
phải tiến hành các hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu
cầu của bản thân. Quá trình này diễn ra liên tục không ngừng và ngày càng
mở rộng nhằm đảm bảo cho con người không chỉ tồn tại mà còn phát triển.
Trong quá trình đó, con người khai thác và tạo ra những sản phẩm vật chất từ
tự nhiên, đồng thời thải vào tự nhiên những rác thải của quá trình sản xuất và
sinh hoạt. Chính việc khai thác và sử dụng không hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong hoạt động kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, y tế và sinh
hoạt của con người đã tạo ra các yếu tố làm hủy hoại chính môi trường. Cũng
như hoạt động sản xuất vật chất và sinh hoạt của con người, hoạt động kinh tế
công nghiệp là hoạt động gây ô nhiễm môi trường nặng nề nhất (trên 70%
chất gây ô nhiễm mà môi trường đang phải hứng chịu từ các hoạt động sinh
tồn của con người tạo ra là từ lĩnh vực sản xuất công nghiệp). Phần lớn lượng
khí thải công nghiệp được thải trực tiếp vào môi trường tự nhiên mà không

qua xử lý hoặc xử lý không triệt để, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự

16


sống của các loài sinh vật nói chung, trong đó có con người. Dân số tăng
nhanh, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp buộc con người phải sử
dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động. Việc sử dụng rộng
rãi, thường xuyên các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, các loại thuốc
kích thích, tăng trưởng đã góp phần gây ô nhiễm môi trường. Hậu quả nghiêm
trọng và phổ biến về ô nhiễm môi trường từ sản xuất nông nghiệp là ô nhiễm
nguồn nước và đất canh tác. Như vậy, thực trạng môi trường ô nhiễm do nhiều
nguyên nhân: Do hoạt động sản xuất vật chất và sinh hoạt của con người, từ
các hoạt động kinh tế công nghiệp, từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhưng
chủ yếu vẫn là do ý thức con người, do nhận thức không đúng đắn và đầy đủ
về môi trường và trách nhiệm bảo vệ môi trường.
Để bảo vệ môi trường, Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 của
Ban chấp hành trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã được ban hành. Nghị quyết
nêu rõ quan điểm: Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ
bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương
châm ứng xử hài hoà với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là
chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn
thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu
hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
đến sức khoẻ cộng đồng.
Nghị quyết 24-NQ/TW cũng đưa ra một số giải pháp chủ yếu để thực
hiện công tác chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường
như: Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết

kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến

17


bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường; Tăng cường quản lý nhà nước về ứng phó với
biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; Đổi mới, hoàn thiện
cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hoá nguồn lực cho ứng
phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; và coi
trọng hợp tác, hội nhập quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường. Để những giải pháp nêu trên được thực hiện
hiệu quả trên thực tế, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác tổ chức từ
các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước (Bộ Chính trị, Ban Kinh tế Trung
ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân…) và công tác thực hiện từ người dân.
Để nhấn mạnh hơn vai trò của việc bảo vệ môi trường và ghi nhận con
người có quyền sống trong môi trường trong lành, các nhà lập pháp đã bổ
sung quy định về quyền được sống trong môi trường trong lành vào Hiến
pháp 2013. Đây là lần đầu tiên quyền được sống trong môi trường trong lành
được quy định trong Hiến pháp 2013 với nội dung: “Mọi người có quyền
được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”
[Điều 43]. Sự ghi nhận này có ý nghĩa và tác động to lớn đến quá trình hoàn
thiện pháp luật môi trường. Nội dung quan trọng nhất của quyền này là quyền
được sống trong môi trường không bị ô nhiễm với chất lượng phù hợp với
cuộc sống con người – quyền này không chỉ giới hạn trong phạm vi nơi ở mà
còn trong cả những hoạt động khác của cuộc sống con người. Như vậy, bảo
đảm quyền được sống trong môi trường không bị ô nhiễm của người dân là
trách nhiệm của Nhà nước, của mọi tổ chức và cá nhân.
Là một bộ phận của pháp luật bảo vệ môi trường, pháp luật về thu gom,

vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt cần phải xác định vai trò của mình trong

18


công cuộc bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của con
người. Pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt phải thực sự
là công cụ phòng ngừa ô nhiễm môi trường từ các hoạt động có liên quan đến
thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt; quy định các quy tắc xử sự mà
các chủ thể phải thực hiện khi tiến hành những hoạt động có liên quan đến
phát thải rác thải vào môi trường với các chế tài cần thiết đảm bảo cho việc
thực hiện; quy định cụ thể thiết chế thực thi thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải sinh hoạt bằng pháp luật, trong đó chức năng nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt được xác lập.
Thứ ba, pháp luật về thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt dần
dần góp phần nâng cao nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường của người dân
để đảm bảo cho họ được quyền sống trong môi trường không ô nhiễm
Chiến lược quốc gia về thu gom, vận chuyển, xử lý tổng hợp rác thải
sinh hoạt xác định công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam sẽ được
phát triển theo hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường
tỷ lệ tái chế, tái sử dụng. Quan điểm đặt ra là sử dụng công nghệ xử lý rác thải
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Trong đó, ưu tiên áp dụng
công nghệ tái chế, tái sử dụng rác thải sinh hoạt, hạn chế chôn lấp nhằm xử lý
triệt để ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả sử dụng đất.
Đối với rác thải sinh hoạt, tùy điều kiện cụ thể mà các địa phương có
thể áp dụng các công nghệ như chôn lấp hợp vệ sinh, chế biến phân compost,
tái chế hoặc đốt. Đối với rác thải sinh hoạt công nghiệp và y tế, cần tập trung
kết hợp nhiều quy trình công nghệ khác nhau như các công nghệ phụ trợ xử lý
rác thải sinh hoạt (phân loại và xử lý cơ học, xử lý hóa - lý), công nghệ khử
khuẩn xử lý rác thải sinh hoạt y tế bị nhiễm khuẩn,... Chính phủ cũng đã có

chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với trang thiết bị, nguyên vật liệu phục

19


×