Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.89 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHẢ

LÃ TRƯỜNG ANH

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 9.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
PGS.

HÀ NỘI, 2020


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

Phản biện 1: PGS.TS. Tăng Văn Nghĩa
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu
Phản biện 3: TS. Đinh Thị Mỹ Loan


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện tại: Học viện khoa học xã hội
Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
(Liên quan đến luận án)
1. Lã Trường Anh (2018), “Một số vấn đề về tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam”. Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội,
Số 10/2018.
2. Lã Trường Anh (2018), “Vai trò của tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng”. Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Số 11/2018.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Hiện nay, xuất phát từ nhu cầu và ý nghĩa xã hội của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; từ sự bất cập trong việc xây
dựng và áp dụng pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam; tồn tại khoảng trống về mặt nghiên
cứu. Do đó, với mong muốn nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu sâu hơn về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, tác
giả đã chọn chủ đề “Trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là đề tài luận án của
mình nhằm đáp ứng những đòi hỏi về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, cơ sở thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt
Nam hiện nay; từ đó, đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD. Đồng thời, tác giả
cũng nghiên cứu thực tiễn về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD là một vấn đề rộng, có nhiều nội dung khác
nhau. Chủ thể là tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của NTD cũng
có nhiều tổ chức với phạm vi trách nhiệm khác nhau. Tuy nhiên, trong Luận án
này, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ thể là Hội bảo vệ NTD với tư
cách là “tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD” .

1


Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Căn cứ vào thực tiễn
áp dụng, Luận án tổng hợp, đánh giá trách nhiệm của các Hội bảo vệ quyền lợi
của NTD ở Việt Nam từ năm 2010 (khi Luật Bảo vệ quyền lợi NTD ra đời) đến
nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận án dựa trên quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, nhà nước ta về chính sách và pháp luật về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh luật học
- Phương pháp thống kê và quan sát
5. Những điểm mới của luận án
Từ trước đến nay, các nghiên cứu trong nước và quốc tế về lĩnh vực các
tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có rất nhiều, tuy nhiên các
công trình nghiên cứu này chỉ gọi là nghiên cứu khái quát hoặc nhắc đến trong
nghiên cứu của mình. Đặc biệt, công trình nghiên cứu độc lập, các khảo sát về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt
Nam chưa hề có, mặc khác khi các quy định về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được đưa vào Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng cũng không có luận cứ. Bởi vậy, đây là lần đầu tiên có một nghiên
cứu toàn diện, cụ thể và có luận cứ chi tiết, các hoạt động thực tiễn về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Đề tài chỉ ra cơ
sở lý thuyết về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD.
Đây là căn cứ khoa học để đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD.Chỉ ra quá trình tham gia bảo vệ NTD của các
tổ chức xã hội ở một số nước trên thế giới. Đây là cơ sở, bài học kinh nghiệm
cho việc xây dựng pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ

2


quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, luận án còn nghiên cứu

một cách toàn diện về thực trạng điều chỉnh pháp luật và thực trạng thực hiện
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp
luật Việt Nam hiện nay, bao gồm trách nhiệm về: Phản biện và giám định xã
hội; giáo dục NTD; đại diện giải quyết khiếu nại của NTD; thay mặt khởi kiện
dân sự vì quyền lợi của NTD. Thông qua đó, đề tài đã phát hiện và chỉ ra: (i)
Những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam trong thời gian vừa qua; (ii)
Những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD. Đề tài đưa ra các quan điểm, yêu
cầu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
NTD ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án đã xây dựng, cung cấp cơ sở khoa học về
mặt lý luận, thực tiễn và pháp lý về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc nhận diện đa chiều
về trách nhiệm của ác tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD; trên cơ sở
đánh giá thực trạng pháp luật và đưa ra các quan điểm, yêu cầu và giải pháp
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo
tốt cho các cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật trong quá trình nghiên cứu,
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng là
công trình, là sản phẩm cho việc giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật.
7. Bố cục của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu gồm 04 chương.


3


Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Về tình hình nghiên cứu
Căn cứ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề
luận án, có thể nhận thấy một số nội dung liên quan đến đề tài luận án đã được
giải quyết và đề tài có thể tiếp thu, làm sáng tỏ thêm.
- Thứ nhất, về mặt lý luận: Các công trình kể trên đã đưa ra nhận
thức chung về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
NTD theo pháp luật Việt Nam: Khái niệm, sự cần thiết của luật hóa trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD. Theo đó, trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sự
bảo đảm được quyền lợi của người tiêu dùng khi tham gia sử dụng hàng hóa,
dịch vụ của nhà sản xuất và đặc biệt có ý nghĩa đối với tất cả mọi người trong
xã hội, bởi “người tiêu dùng là tất cả chúng ta” – nhóm người yếu thế. Đó là
những người có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ở thế “bất cân xứng về thông tin”
trong quan hệ tiêu dùng. Hay nói cách khác, họ là những người gặp phải những
rào cản, chúng ngăn cản họ thực hiện đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, đặc biệt là gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nhận định với việc đánh giá
chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà họ bỏ tiền ra mua để sử dụng. Như vậy, trên
phương diện lý luận, luận án có kế thừa những vấn đề lý luận kiên quan đến
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD. Luận án
có nhiệm vụ làm rõ thêm sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: Các công trình đã chỉ ra trong
quá trình thực hiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ quyền lợi của NTD đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Các công trình nghiên
cứu trước đó nhìn chung đều đánh giá thực trạng về trách nhiệm, vai trò của

Hội bảo vệ quyền lợi của NTD mà không nghiên cứu sâu về các tổ chức xã hội.
Đây là những mảnh ghép để luận án có cái nhìn thấu đáo hơn. Tuy nhiên, vì
chưa xác định được hệ thống cấu thành của pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD và cách tiếp cận chưa được bao
quát, chưa đầy đủ, chưa đưa ra được tiêu chí đánh giá thực trạng về trách

4


nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật
Việt Nam hiện nay một cách xác thực. Vì thế, căn cứ vào hệ thống cấu thành
của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
NTD ở Việt Nam, căn cứ vào nội dung điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam, luận án đã
đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động của acsc tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam theo các nhóm vấn đề được đưa
ra.
- Thứ ba, trên phương diện đề xuất, kiến nghị: Phần lớn nghiên cứu
hướng sự quan tâm đến nhu cầu tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về: Hội bảo vệ quyền lợi NTD, Pháp luật bảo vệ NTD, thiết chế bảo vệ NTD,
cơ chế bảo vệ quyền lợi của NTD,... Như vậy, các công trình phần nào nghiên
cứu trên phần nào đã giải quyết được vấn đề hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên,
vấn đề về quan điểm, nhu cầu và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD thì chưa được làm rõ. Đây là nhiệm vụ mà
luận án phải thực hiện và làm sáng tỏ.
Như vậy, mặc dù số lượng các công trình nghiên cứu liên quan tới đề
tài luận án phong phú và đa dạng nhưng hiện tại chưa có một công trình nghiên
cứu nào tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ, toàn diện về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật

Việt Nam. Để từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam, nhất là Việt Nam đang trong quá trình phát
triển kinh tế- xã hội, hội nhập quốc tế và trong yêu cầu triển khai thi hành Hiến
pháp năm 2013.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Qua các công trình nghiên cứu kể trên đã cho thấy, bên cạnh những
thành tựu về mặt lý luận, thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD thì luận án nhận thấy
những vấn đề mà công trình trên còn bỏ ngỏ hoặc chưa giải quyết thấu đáo như
sau:

5


- Thứ nhất, về mặt lý luận. (1)Về sự cần thiết phải luật hóa trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, chưa
được lập luận đầy đủ và thuyết phục trong các công trình nghiên cứu. (2) Về
khái niệm trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD,
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, Pháp luật về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD. Hầu hết các công trình
nghiên cứu chưa đưa ra các khái niệm này. Trên thực tế, có công trình nghiên
cứu đề cập đến khái niệm tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD và một số quy định về
trách nhiệm bảo vệ quyền lợi NTD là cá nhân của các hiệp hội nghề nghiệp
(Thảo luận của ThS. Viên Thế Giang tại Hội Thảo về Các tổ chức chính trị xã
hội, xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng và quyền con người.
- Thứ hai, về phương diện thực tiễn. Do chưa có sự nhận diện rõ nét
về khái niệm trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD
dưới góc độ pháp lý nên chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra tiêu chí
đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo

vệ quyền lợi NTD; đánh giá toàn diện, cụ thể về thực trạng quy định pháp luật
về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong từ trước đến nay. Ngoài ra, đối với
thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ quyền lợi của NTD đã được một số công trình trong nước nghiên cứu như
nghiên cứu về thực trạng vai trò của Hội bảo vệ NTD trong bảo vệ NTD nhưng
vẫn chưa làm nổi bật được các vấn đề như thực trạng các quy định pháp luật về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD; thực trạng
tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD; thực
trạng về nguồn nhân lực tổ chức thực hiện trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam hiện hành... Khoảng
trống này đã dẫn đến sự thiếu hụt căn cứ thực tiễn cho các kiến nghị giải pháp
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của NTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Thứ ba, về giải pháp, kiến nghị. (1) Kết quả tổng quan tình hình
nghiên cứu liên quan đến chủ đề trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ quyền lợi của NTD cho thấy hiện đang thiếu sự phân tích, lập luận đầy đủ
về quan điểm và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức

6


xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là bối
cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và thực hiện các chủ trương lớn
của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy dân chủ, bảo đảm
quyền con người, hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. (2) Cũng liên quan
đến vấn đề nói trên là thực trạng thiếu một hệ quan điểm được thừa nhận chung
về mô hình chính sách pháp luật cần thiết và khung chính sách pháp luật cơ
bản về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở
Việt Nam hiện nay. Đây là cơ sở để xây dựng và ban hành pháp luật về trách

nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam
trong thời gian tới. (3) Ngoài ra, các công trình nghiên cứu cũng chưa xây dựng
được giải pháp mang tính cụ thể cho từng thành tố cấu thành pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Những vấn đề cần được tiếp tục làm sáng tỏ của đề tài
Thứ nhất, nghiên cứu đưa ra thay đổi mới trong nhận thức lý luận về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, pháp luật
về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt
Nam hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý thuyết về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, các quan niệm về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD trên thế giới và
ở Việt Nam. Qua đây, tác giả xây dựng được khái niệm trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, pháp luật về trách nhiệm của các
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, đặc điểm của pháp luật về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt
Nam hiện nay.
Thứ hai, nghiên cứu đưa ra quan điểm về sự cần thiết phải xây dựng
pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
NTD ở Việt Nam, nội dung chính và các nguyên tắc của pháp luật về về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện
nay.

7


Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng, điều chỉnh pháp luật về về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở một số
nước trên thế giới để gợi mở cho Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu đưa ra tiêu chí đánh giá thực trạng pháp luật về về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt

Nam hiện nay; thực trạng điều chỉnh và thực hiện pháp luật về về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam như:
nghiên cứu thực trạng tổ chức thi hành pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD thông qua Hội bảo vệ quyền lợi
NTD; đánh giá thực trạng hoạt động của một số tổ chức xã hội khác trong hoạt
động bảo vệ quyền lợi của NTD,...Việc nghiên cứu phải chỉ rõ được những thành
tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các thành tựu, hạn chế đó.
Thứ năm, nghiên cứu xác định phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG
2.1. Khái quát về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của NTD
2.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng
Người tiêu dùng (consumer) là thuật ngữ có phạm vi mô tả khá rộng.
Xác định rõ nội hàm của khái niệm người tiêu dùng là hết sức quan trọng nhằm
mục tiêu trước hết là bảo vệ hiệu quả quyền lợi chính đáng của người tiêu
dùng, tránh sự lạm dụng cơ chế bảo vệ người tiêu dùng để trục lợi, cũng như
tránh sự can thiệp quá sâu và không cần thiết của nhà nước vào các quan hệ
dân sự. Quan niệm về người tiêu dùng ở mỗi quốc gia có thể được định nghĩa
khác nhau, song tổng hợp lại những quan điểm này nổi lên ba vấn đề về tư
cách chủ thể; cách thức tiếp cận; mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
2.1.2. Khái niệm về quyền của người tiêu dùng
Quyền của NTD là những đặc quyền, thể hiện nhu cầu cuộc sống hàng
ngày của cá nhân, gia đình và của cộng đồng. Nhà nước và nhà sản xuất và

8



cung ứng dịch vụ có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của
NTD. Các quyền của NTD được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong pháp luật
quốc gia và quốc tế.
2.1.3. Khái niệm về tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng
“Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD là tổ chức xã hội của NTD được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt dân tộc tôn giáo tín
ngưỡng, trình độ nghề nghiệp và là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD
theo quy định của pháp luật”
2.1.4. Khái niệm và nội dung về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
- Khái niệm về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của NTD:
Trách nhiệm của các tổ chức xã bảo vệ quyền lợi NTD là nhiệm vụ, là phần
việc được giao của các tổ chức xã hội bảo vệ NTD, tổ chức này được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt dân tộc tôn giáo tín ngưỡng,
trình độ nghề nghiệp và là tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD theo quy
định của pháp luật.
- Nội dung về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng
Một là, giáo dục người tiêu dùng
Thứ hai, thu thập dữ liệu và kiểm tra sản phẩm
Thứ ba, khiếu nại thay mặt người tiêu dùng
Thứ tư, khởi kiện thay mặt người tiêu dùng
Thứ năm, vận động tẩy chay hàng hóa không đảm bảo chất lượng
Thứ sáu, phát triển mạng lưới các hội bảo vệ quyền lợi của NTD
Thứ bảy, phản biện và giám định xã hội
Thứ tám, thông tin với chính phủ hay nói cách khác cung cấp cho cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông tin về hành

vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

9


2.2. Lý luận pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
2.2.1. Sự cần thiết điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Hiện nay, quá trình phát triển kinh tế tri thức, sự tác động ngày càng
sâu của cuộc cách mạng công nghệ (cách mạng công nghệ thông tin, truyền
thông, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học v.v.), toàn cầu hoá và sự
phát triển thương mại điện tử đang càng làm cho quá trình chuyên môn hoá có
những bước nhảy vọt hơn nữa về chất, khoảng cách giữa nhà sản xuất và NTD
ngày lại càng xa nhau, sự chênh lệch giữa hiểu biết của nhà sản xuất về sản
phẩm với tri thức mà NTD biết về sản phẩm ngày càng lớn, quy mô kinh tế
giữa thương nhân với NTD càng có sự chênh lệch. Điều đó càng làm cho nhà
sản xuất với NTD có độ chênh lệch lớn về vị thế thực tế. Trong bối cảnh ấy,
nếu NTD không có các công cụ hỗ trợ, việc NTD bị nhà sản xuất, phân phối
lạm dụng là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nếu chỉ trông chờ vào khả năng tự
bảo vệ của mình, NTD sẽ khó có thể phòng ngừa và khắc phục được những rủi
ro trong quá trình tham gia giao dịch với nhà sản xuất, phân phối hàng hoá,
dịch vụ cũng như trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Điều này đã
được thực tiễn của không chỉ ở các quốc gia công nghiệp phát triển mà còn ở
chính Việt Nam chứng minh.
Đó chính là lý do vì sao, sự hiện diện của nhà nước, sự can thiệp của
nhà nước bằng pháp luật là cần thiết để quan hệ giữa nhà sản xuất, phân phối
với NTD trở nên lành mạnh, công bằng hơn. Khi xã hội càng phát triển, lĩnh
vực pháp luật bảo vệ NTD sẽ càng cần thiết và càng cần được quan tâm.
2.2.2. Nguyên tắc pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội

trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các tổ chức bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Mọi hoạt động của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phải
nhằm mục đích hỗ trợ hoặc đại diện cho người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi

10


ích hợp pháp theo quy định của pháp luật
- Hoạt động của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không vì
mục đích lợi nhuận
- Các nguyên tắc khác theo quy định của pháp luật liên quan về hoạt
động của các tổ chức xã hội
2.2.3. Tiêu chí đánh giá
Thứ nhất, pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ quyền lợi của NTD không được trái với Hiến pháp;
Thứ hai, chú trọng đánh giá sự tác động của pháp luật về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD đối với NTD;
Thứ ba, pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi NTD phải đảm bảo tính hiệu lực;
Thứ tư, pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi NTD phải đảm bảo tính công khai, minh bạch.
2.3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
ở một số nước và gợi mở cho Việt Nam
2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế
Tính tới thời điểm hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi
công tác bảo vệ NTD là một trong những hoạt động quan trọng để đảm bảo sự
phát triển bền vững của nền kinh tế, và quy định trách nhiệm của các tổ chức
trong việc bảo vệ NTD.

Tổ chức bảo vệ người tiêu dùng ở một số nước:
- Hoa Kỳ
- Malaysia
- Trung Quốc
- Singapore
- Ấn Độ
- Pháp
2.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

11


Thứ nhất, phần lớn các nước trên thế giới đều có một hệ thống pháp
luật bảo vệ quyền lợi của NTD với nội dung điểu chỉnh rõ ràng, cụ thể và khả
thi.
Thứ hai, trong các biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng, nhiều nước rất chú trọng biện pháp tăng cường tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, việc sử dụng công cụ pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình đã trở thành ý thức tự thân của NTD ở nhiều nước trên
thế giới.
Thứ tư là, nhiều nước trên thế giới rất chú trọng đầu tư để nâng cao
chất lượng hoạt động kiểm định chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm là, mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật của
một số nước phát triển khá cao, có tác dụng răn đe.
Chương 3
THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt
Nam hiện nay
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
3.1.1.1. Giai đoạn trước khi có Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010
3.1.1.2. Giai đoạn sau khi có Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2010
3.1.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội bảo
vệ người tiêu dùngở Việt Nam
Về mặt pháp lý, vai trò của các hội bảo vệ NTD trong việc bảo vệ
NTD đã được công nhận và quy định từ Nghị định số 69/2001/NĐ-CP ngày

12


2/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
NTD năm 1999, sau đó được tái ghi nhận trong Nghị định số 55/2008/NĐ-CP
ngày 24/4/2008 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ
quyền lợi NTD năm 1999 (thay cho Nghị định số 69/2001/NĐ-CP).
Theo Điều 28 Luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010, tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi NTD bằng các hoạt động sau đây:
“a) Hướng dẫn, giúp đỡ, tư vấn NTD khi có yêu cầu;
b) Đại diện NTD khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng;
c) Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD
thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ;
d) Độc lập khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, thử
nghiệm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo
cho NTD về hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc

thông tin, cảnh báo của mình; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD;
đ) Tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách, phương
hướng, kế hoạch và biện pháp về bảo vệ quyền lợi NTD;
e) Thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao theo quy định tại
Điều 29 Luật này;
g) Tham gia tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng.”
Có thể nói quy định tổ chức xã hội được tự mình khởi kiện vụ án bảo
vệ quyền lợi NTD vì lợi ích công cộng là một trong những quy định mang tính
đột phá của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010. Việc tổ chức xã hội
có quyền đứng ra tự khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng đã giải quyết được
những vướng mắc trong thực tiễn đối với những vụ việc vi phạm làm ảnh
hưởng đến số đông NTD như vụ việc nước tương có chứa chất gây ung thư
3MCPD, vụ việc sữa nhiễm melanine... Bởi theo pháp luật hiện hành, Viêt
Nam chưa có quy đinh về “khởi kiện tập thể”. Tại Điều 162 Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011, về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ

13


quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước,
chỉ quy định “ Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi
ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách”. Tuy nhiên để có thể tự mình
đứng ra khởi kiện, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi NTD phải đáp ứng
được những yêu cầu nhất định, bao gồm:
“1.Được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật.
2. Có tôn chỉ, mục đích hoạt động vì quyền lợi của NTD hoặc vì lợi
ích công cộng liên quan đến quyền lợi NTD.
3. Có thời gian hoạt động tối thiểu là ba (03) năm tính từ ngày tổ

chức xã hội được thành lập đến ngày tổ chức xã hội thực hiện quyền tự khởi
kiện.
4. Có phạm vi hoạt động từ cấp tỉnh trở lên.”
Ngoài việc phải đảm bảo quyền lợi của những người tiêu dùng có liên
quan đến vụ án, tránh tình trạng lạm dụng quyền khởi kiện, Luật cũng yêu cầu
tổ chức xã hội tham gia khởi kiện bảo vệ quyền lợi ngươgi tiêu dùng phải chịu
các chi phí phát sinh trong quá trình khởi kiện.
Luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng quy định tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ quyền lợi NTD có thể được hưởng hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà
nước hoặc các hỗ trợ khác khi thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao,
bao gồm các nhiệm vụ:
- Tuyên truyền, phổ biến giáo dục về quyền và nghĩa vụ của NTD.
- Hướng dẫn, đào tạo nâng cao nhận thức cho NTD.
- Tư vấn, hỗ trợ cho NTD.
- Thực hiện các nghiên cứu, khảo sát thực tế, tập hợp ý kiến, phản ánh
nhu cầu của NTD.
Theo đó, Bộ trưởng Bộ Công Thương và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh là các chủ thể có thẩm quyền quyết định trong việc giao nhiệm vụ cho
các tổ chức xã hội tham gia công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Có thể nói, những quy định của Luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng như

14


những văn bản hướng dẫn thi hành đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho
sự tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi NTD. Trong
những năm vừa qua, ở nước ta tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD được biết đến
trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD là Hội Khoa học và Kỹ thuật về Tiêu
chuẩn hóa, Chất lượng và Bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam (gọi tắt là Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam, tên giao dịch: Vinastas) và nhiều Hội Bảo vệ

quyền lợi NTD ở các địa phương (các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ).
3.2. Thực tiễn thực thi trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay
3.2.1. Giáo dục người tiêu dùng
Giáo dục NTD là một quá trình giảng dạy, đào tạo và học tập để nâng
cao kiến thức và phát triển kỹ năng của NTD. Giáo dục NTD liên quan đến
truyền đạt kiến thức và phát triển kỹ năng ở NTD, về quyền của NTD, pháp
luật về NTD, tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm…
Với tầm quan trọng của việc giáo dục NTD, các tổ chức xã hội đã
thực hiện vai trò đó của mình thông qua các nội dung:
- Thứ nhất, tuyên truyền phổ biến cho NTD biết về quyền và trách
nhiệm của NTD. Phong trào NTD toàn cầu đã giải thích 8 quyền phổ biến của
NTD được ghi nhận trong hướng bản hướng dẫn bảo vệ NTD của Liên hợp
quốc năm 1985 gồm: quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; quyền được
an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn, quyền được lắng nghe
hay quyền được đại diện…
- Thứ hai, các tổ chức xã hội giáo dục về phong cách tiêu dùng, kỹ
năng tiêu dùng như: tiêu dùng lành mạnh, hợp lý, tiêu dùng xanh, tiêu dùng
không làm cạn kiệt tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường.
- Thứ ba, đưa ra các thông tin cảnh báo cho NTD về những vi phạm
pháp luật bảo vệ NTD của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

15


3.2.2. Thay mặt người tiêu dùng khiếu nại vì quyền lợi của người
tiêu dùng
Quyền khiếu nại của NTD và quyền được giải quyết thỏa đáng những
khiếu nại đúng đắn của NTD là một trong những quyền cơ bản của NTD được
quy định trong bản hướng dẫn bảo vệ NTD của Liên hợp quốc năm 1985. Ở

Việt Nam, quyền khiếu nại của NTD được ghi nhận trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật nhưng đáng chú ý là các văn bản như Luật bảo vệ quyền lợi
NTD năm 2010, Nghị định 99/2011/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành luật bảo vệ
quyền lợi NTD.
Để thực hiện quyền khiếu nại của mình, NTD có thể trực tiếp khiếu
nại hoặc thông qua các tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội cũng có trách nhiệm
hướng dẫn, giúp đỡ hoặc đại diện NTD đưa khiếu nại đến cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, VINASTAS và các hội bảo vệ NTD địa phương là tổ chức
thực hiện chủ yếu vai trò giải quyết khiếu nại của NTD ở Việt Nam.
Trên thực tế, các văn phòng khiếu nại của NTD đã lần lượt ra đời để
giúp NTD giải quyết khiếu nại , bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, Văn phòng
khiếu nại đầu tiên thuộc Hội bảo vệ NTD thành phố HCM thành lập năm 1993,
đến năm 1994, văn phòng khiếu nại NTD thuộc VINASTAS được thành lập tại
Hà Nội, Tiếp theo, rất nhiều văn phòng khiếu nại được thành lập và hoạt động
dưới sự điều hành của hội bảo vệ NTD, Các văn phòng khiếu nại của NTD nếu
được triển khai tốt sẽ là cầu nối giữa NTD và cơ quan quản lý nhà nước.
3.2.3. Đại diện người tiêu dùng khởi kiện dân sự vì quyền lợi của
người tiêu dùng
Việc quy định cho tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi NTD
cũng có quyền khởi kiện nếu được NTD ủy quyền hoặc tự mình khởi kiện vì
lợi ích công cộng là điều hoàn toàn hợp lý. Bởi trên thực tế, đa số NTD còn
chưa nắm được các quyền mà pháp luật trao cho mình, cùng với sự hiểu biết
pháp luật còn hạn chế thì việc theo kiện là rất khó khăn. Trong nhiều trường
hợp, giá trị tranh chấp của NTD thường không lớn nên có tâm lý ngại khởi

16


kiện, tuy nhiên, thiệt hại cho xã hội trong các vụ vi phạm này thường là rất lớn.

Chính vì vậy, việc giao quyền cho tổ chức xã hội khởi kiện theo yêu cầu
của NTD hoặc vì lợi ích cộng đồng là cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế
hiện nay.
3.2.4. Phản biện và giám định xã hội
Tại Việt Nam các tổ chức xã hội thực hiện vai trò phản biện và giám
định xã hội thông qua các hoạt động:
- Thứ nhất, phản biện về các chính sách luật lệ, quy định của nhà nước
và chính quyền các cấp liên quan đến quyền và lợi ích của NTD, với mục đích
tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho bảo vệ NTD, làm cân bằng giữa lợi
ích của doanh nghiệp với lợi ích của NTD, góp phần xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh..
- Thứ hai, phản biện xã hội về các hoạt động thương mại nhằm phát
hiện và đấu tranh chống các thủ đoạn, hành động phi đạo đức trong thương mại
như cung ứng hàng hóa dịch vụ chất lượng xấu cho NTD, sản xuất và buôn bán
hàng giả, thông tin không đầy đủ hoặc sai lệch nhằm lừa dối NTD, hoặc thực
hiện những thủ đoạn gian lận thương mại khác, nhằm kiếm lợi nhuận trên sự thiệt
thòi của NTD…Phản biện các hành vi thương mại cần có căn cứ và chứng cứ cụ
thể, số liệu chính sách, có người và có địa chỉ rõ ràng. Thực hiện được điều này
cần có sự phối hợp của các tổ chức xã hội và đông đảo NTD.
3.2.5. Kiểm tra hàng hóa, kiểm nghiệm sản phẩm
Kiểm tra hàng hóa, kiểm nghiệm sản phẩm là hoạt động có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam. Nhưng
dường như, hầu như hoạt động này ở Việt Nam còn chưa được phổ biến, Hội bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa làm được điều này, chỉ khi có hành vi vi phạm,
có hậu quả xảy ra thì hội mới đi kiểm tra sản phẩm xác nhận sai phạm của cơ sở
sản xuất, kinh doanh hàng hóa cung cấp sản phẩm. Vấn đề đặt ra là do chưa có cơ
sở vật chất, các dụng cụ, thiết bị để kiểm tra chất lượng sản phẩm chưa có, kinh phí
thì hạn hẹp, nguồn thu khó khăn vô cùng.
3.2.6. Vận động tẩy chay hàng hóa không đảm bảo chất lượng


17


Đây là một hoạt động dường như còn quá thưa thớt ở nước ta. Gần
đây, Bộ Công Thương đã công bố kết quả kiểm tra tại Công ty TNHH Xuất
nhập khẩu Mumuso Việt Nam, có tới hơn 99% loại hàng hóa được nhập khẩu
từ Trung Quốc, không có sản phẩm từ Hàn Quốc như hệ thống này quảng cáo.
Việc Mumuso sử dụng một số nội dung quảng cáo tại cửa ra vào địa điểm kinh
doanh: “Mumuso; giá chỉ từ 22.000; KOREA”; sử dụng chữ KOREA (Hàn
Quốc) trên các túi đựng sản phẩm có thể khiến khách hàng hiểu rằng cửa hàng,
sản phẩm liên quan đến Hàn Quốc.
3.2.7. Phát triển mạng lưới các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Hiện nay, tổ chức của hội bảo vệ NTD ở Việt Nam được chia làm 2 cấp.
Ở Trung ương có Hội khoa học kỹ thuật về Tiêu chuẩn hóa, Chất lượng và Bảo vệ
NTD Việt Nam (VINASTAS) hoạt động trong phạm vi cả nƣớc (được gọi là Hội
trung ương). Ở các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương nếu có điều kiện thì
thành lập hội bảo vệ NTD tỉnh (còn được gọi là Hội địa phương). Ngoài ra, một số
địa phương như Kiên Giang, ở cấp xã đã thành lập một số chi hội bảo vệ NTD.
Các hội bảo vệ NTD tỉnh nếu tự nguyện có đơn xin gia nhập VINASTAS thì trở
thành hội thành viên của VINASTAS. Các hội thành viên hoạt động độc lập theo
điều lệ của mình, tuân thủ điều lệ của Hội trung ương và chịu sự hướng dẫn chuyên
môn nghiệp vụ của Hội trung ương. Tính đến tháng 7 năm 2013, cả nước có 54 Hội
bảo vệ NTD (trong đó có 1 Hội Trung ương và 53 Hội địa phương ở các tỉnh).
Nhìn chung, hệ thống Hội bảo vệ quyền lợi NTD ở nước ra phát triển
nhanh và gần như khắp các tỉnh đều có Hội bảo vệ NTD ở địa phương.
3.2.8. Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
- Trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước
- Trong mối quan hệ giữa các Hội bảo vệ NTD với nhau

- Trong mối quan hệ với các tổ chức khác ở trong nước và ngoài nước

18


3.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của các
tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay
3.3.1. Những thành tựu đạt được
3.3.1.1. Trong hoạt động đại diện người tiêu dùng khiếu nại vì quyền
lợi người tiêu dùng
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, số vụ khiếu nại của NTD
không ngừng tăng lên, tính chất của các vụ khiếu nại cũng phức tạp hơn.
Nhưng điều đáng mừng là việc giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả có xu hướng
cao và cho thấy năng lực giải quyết khiếu nại của tổ chức xã hội đặc biệt là Hội
bảo vệ NTD ngày càng phát huy và đem lại ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ
quyền lợi cho NTD.
Một lượng lực tích cực trong công tác giải quyết khiếu nạị của NTD đó
chính là Tổ chức bảo vệ NTD. Với những lợi thế của mình, nhiều tổ chức bảo vệ
NTD đã tham gia quá trình giải quyết khiếu nại của NTD một cách có hiệu quả.
Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ NTD Việt Nam và nhiều hội bảo vệ NTD địa phương đã
thành lập được văn phòng khiếu nại của NTD đặc biệt là các văn phòng khiếu nại ở
Kiên Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai…Với phương pháp giải quyết chủ yếu
thông qua thương lượng hòa giải, Hội Bảo vệ NTD hàng năm đã tiếp nhận và giải
quyết hàng nghìn khiếu nại của NTD trên khắp cả nước.
Từ các số liệu trên cho thấy, việc số lượng các vụ khiếu nại ngày càng
tăng chứng tỏ NTD đã ngày càng ý thức được quyền khiếu nại hàng hóa, dịch
vụ của mình. Năng lực giải quyết khiếu nại của các tổ chức đã được NTD biết
đến và tin tưởng.
3.3.1.2. Trong hoạt động giáo dục người tiêu dùng
Hoạt động giáo dục người tiêu dùng, nâng cao nhận thức của NTD

năm bắt được các quy định của các văn bản pháp luật để họ tự bảo vệ mình.
Các tổ chức xã hội trong thời gian qua đã thông qua phương tiện
thông tin đại chúng như truyền hình, đài phát thanh, báo, tờ rơi…bằng các hình
thức như : Viết báo, tham gia diễn đàn trực tuyến, trả lời phỏng vấn báo chí,
như Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Thông tấn xã, …để cung cấp thông tin

19


cần thiết về các quy định của pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn, chất lượng
hàng hóa, pháp luật bảo vệ NTD, nâng cao kiến thức về vệ sinh an toàn thực
phẩm, về giá cả thị trường cho NTD. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật đã đạt được những hiệu quả nhất định, tiêp cận đến mọi tầng lớp tiêu
dùng ở mọi lúc, mọi nơi. NTD đã có nhận thức đúng đắn hơn về quyền và
trách nhiệm cũng như về vai trò, vị trí của họ trong xã hội, qua đó họ có ý thức
và có khả năng tự bảo vệ mình trong mọi tình huống.
Các tổ chức xã hội cũng tham gia và tổ chức trực tiếp nhiều hội thảo,
hội nghị về vấn đề bảo vệ NTD
Đặc biệt là các tổ chức bảo vệ NTD đã tiến hành tập huấn cho các Hội
ở các địa phương (trung bình mỗi năm khoảng 4-5 hội thảo) như trao đổi kinh
nghiệm về hoạt động bảo vệ NTD, tổ chức và vận hành các văn phòng khiếu
nại của NTD, phát triển các tổ chức bảo vệ NTD ở địa phương.
Để NTD được tiếp cận gần hơn với các thông tin, Hội tiêu chuẩn và
bảo vệ NTD Việt Nam đã có một số tạp chí, chuyên mục riêng về vấn đề tiêu
dùng và NTD có uy tín như Tạp chí Tiêu dùng…in và phát hành hàng vạn các
ấn phẩm như tờ rơi, sách hướng dẫn, sách , tại các hội chợ, khu đông dân cư,
siêu thị, trung tâm thương mại lớn, các trường học...Thông qua những tạp chí,
chuyên mục này NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thể
nắm bắt được những vấn đề về NTD nói chung và pháp luật bảo vệ NTD nói
riêng

3.3.1.3. Trong công tác phản biện, giám định xã hội.
Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là một trong các chức năng hoạt
động được các tổ chức xã hội tiến hành thường xuyên. Đặc biệt trong giai đoạn
kinh tế thị trường, luật bảo vệ quyền lợi NTD 2010 mới đi vào đời sống thì công
tác phản biện, giám định xã hội càng được các tổ chức xã hội chú trọng.
VINASTAS cũng phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật,
Hiệp hội các ngành nghề…tiến hành khảo sát các chỉ tiêu kim loại nặng và vi
sinh trong dầu gội đầu; khảo sát tình hình tiêu thụ và các chỉ tiêu an toàn của
dây điện lưỡng kim CCA; tổ chức 3 đợt khảo sát nhóm hóa chất Bêta-agonist

20


trong thức ăn chăn nuôi lợn và gà; khảo sát, điều kiện vệ sinh an toàn sản xuất
nước uống đóng chai ; khảo sát, xác định dư lượng hóa chất nhóm Bêta-agonist
trong thịt lợn tại TP.HCM…
3.3.1.4. Trong công tác khởi kiện dân sự vì quyền lợi của NTD
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của NTD được quyền tự
mình khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi NTD vì lợi ích công cộng khí có đủ các
điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật;
2. Có tôn chỉ mục đích hoạt động vì quyền lợi của NTD hoặc vì lợi
ích công cộng liên quan đến quyền lợi NTD;
3. Có thời gian hoạt động tối thiểu là ba (03) năm tính từ ngày tổ chức
xã hội được thành lập đến ngày tổ chức xã hội thực hiện quyền tự khởi kiện;
4. Có phạm vi hoạt động từ cấp tỉnh trở lên.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã dành cho tổ chức xã hội quyền chủ
động khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của NTD khi quyền lợi của họ bị xâm
phạm, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả bảo vệ NTD trong thực tiễn.
3.3.2. Hạn chế trong hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của các tổ

chức xã hội ở nước ta hiện nay
3.3.2.1. Hoạt động của các tổ chức xã hội còn mang tính hình thức,
chưa được tiến hành thường xuyên
3.3.2.2. Mối quan hệ mật thiết giữa các tổ chức chưa được thiết lập
3.3.2.3. Các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng chưa thể hiện được vai
trò, vị trí của mình trong công tác bảo vệ người tiêu dùng
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo vệ người
tiêu dùng của các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay
Những tồn tại nói trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:

21


3.3.3.1. Nguồn nhân lực hoạt động bị hạn chế:
3.3.3.2. Các cơ quan nhà nước còn chưa quan tâm:
3.3.3.3. Hạn chế về nhận thức của người tiêu dùng về ý thức của
doanh nghiệp
3.3.3.4. Các quy định của pháp luật còn nhiều bất cập:
Chương 4
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng
Việc tăng cường năng lực các thiết chế xã hội thực thi pháp luật bảo
vệ NTD cần dựa trên các yêu cầu, đòi hỏi sau:
Thứ nhất, phải xác định đúng và chính xác định năng lực của các thiết
chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD

Thứ hai, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo
vệ NTD phải có lộ trình và chiến lược toàn diện của nhà nước về bảo vệ quyền
lợi NTD
Thứ ba, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo
vệ quyền lợi NTD phải đảm bảo sự đồng bộ, phối hợp có hiệu quả giữa các
thiết chế để các quyền của NTD được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, việc tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo
vệ NTD phải xuất phát từ sự quyết tâm thực thi pháp luật để bảo vệ NTD của
các thiết chế trong việc bảo vệ NTD

22


×