Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế học: Tác động của tỷ giá đến thương mại song phương của Việt Nam với Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản – Nhìn từ góc độ ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.17 KB, 12 trang )

1

GIỚI THIỆU
Lý do lựa chọn đề tài
Việt Nam là nền kinh tế mở còn non trẻ, đang trong quá trình hiện đại hóa và công

2

thâm hụt với Trung Quốc và thặng dư ở các thị trường lớn khác (Mỹ, Nhật Bản). Từ các
kết quả nghiên cứu sẽ gợi mở ra các hàm ý chính sách tỷ giá của Việt Nam
Mục tiêu nghiên cứu

nghiệp hóa và xuất khẩu được xem là động lực của tăng trưởng. Tuy nhiên, Việt Nam đã

Thông qua nghiên cứu tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại trong các ngành

đạt được những thành tựu đáng kể với chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu,

hàng, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam với 3 đối tác lớn nhất, luận án xem

tăng trưởng GDP bình quân ở mức 7%, xuất khẩu tăng trưởng trung bình hàng năm đạt

xét tác động của tỷ giá hối đoái đến hoạt động thương mại, và tìm ra mối quan hệ giữa tỷ

18%, mặc dù vậy tốc độ tăng trưởng nhập khẩu lớn hơn với mức 22% trong giai đoạn

giá và cán cân thương mại của Việt Nam nói chung. Cụ thể câu hỏi nghiên cứu của luận

1990-2016. Bởi vậy, Việt Nam là nước nhập siêu hầu hết trong khoảng 1990-2016, tuy đã

án là:



có suất siêu trong 2 năm 2017-2018 gần đây nhưng vẫn khá khiêm tốn. Có nhiều nghiên
cứu tìm hiểu và giải thích tình trạng thâm hụt thương mại của Việt Nam và tỷ giá được
xem là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu, cán cân
thương mại, và các biến số kinh tế vĩ mô. Nhất là từ năm 2007 cả nước đã trải qua giai
đoạn bất ổn của kinh tế vĩ mô, thì vấn đề quản lý tỷ giá và các chính sách tỷ giá phù hợp

Tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại của Việt Nam với các đối tác Trung Quốc,
Mỹ, Nhật Bản trong các ngành hàng như thế nào?
Hiệu ứng đường cong J xảy ra như nào trong mối quan hệ thương mại của Việt Nam với
các đối tác?
Tác động bất đối xứng của tỷ giá lên cán cân thương mại của Việt Nam với các đối tác

với mục tiêu thúc đấy xuất khẩu và ổn định kinh tế vĩ mô luôn là vấn đề quan trọng được

trong từng ngành hàng có xảy ra hay không?

đặt ra trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Tuy nhiên, đối với Việt Nam từ trước tới nay có rất ít các nghiên cứu định lượng xem
xét ảnh hưởng của tỷ giá đến thương mại mà chi tiết đến từng đối tác và từng ngành hàng.
Ngoài ra, các nghiên cứu này cũng chưa tính đến giả định về phản ứng bất đối xứng của
cán cân thương mại đối với sự thay đổi của tỷ giá.
Từ những luận điểm trên, nghiên cứu này sẽ xem xét tác động của sự thay đổi tỷ giá hối

Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm: cán cân thương mại của Việt Nam với 3 đối
tác, tỷ giá song phương, các ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu chủ yếu sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 2007-2018, cho các phân tích. Do

giới hạn về mặt thu thập dữ liệu, phần phân tích mô hình xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá
và cán cân thương mại dựa trên cơ sở dữ liệu từ 2008-2017.

đoái đến thương mại của Việt Nam. Cụ thể, các câu hỏi nghiên cứu chính của nghiên cứu

Ngoài ra, cũng do giới hạn về mặt tiếp cận số liệu giao dịch thương mại tiểu ngạch. Do

này là tìm ra mối liên hệ giữa tỷ giá và thương mại song phương giữa Việt Nam và các

vậy, mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại với đối tác Trung

đối tác thương mại lớn bao gồm: Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản trong các ngành hàng cụ

Quốc sẽ bỏ qua vấn đền buôn bán biên mậu.

thể. Việc lựa chọn Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản để xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá và

Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận

thương mại của Việt Nam bởi đây được xem là 3 đối tác thương mại hàng đầu của Việt

Nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.

Nam với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm đến 40% tổng kim ngạch nhập khẩu Việt

Phương pháp định lượng được thực hiện dựa trên sử dụng kết hợp phương pháp phân tích

Nam năm 2015. Theo số liệu từ chuyên trang Tổng cục Hải quan năm 2016 thì Mỹ, Nhật

thống kê, mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) và mô hình phân phối trễ tự hồi quy


Bản và Trung Quốc là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (trên 10 tỷ USD) với

phi tuyến (NARDL).

tỷ trọng 42,5% tổng xuất khẩu cả nước. Trong khi đó, 3 thị trường nhập khẩu lớn nhất là

Nội dung luận án

Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản (trên 10 tỷ USD) chiếm 55% tổng giá trị nhập khẩu của

Nội dung của luận án gồm 5 chương:

cả nước.

Chương 1: Trình bày các vấn đề lý thuyết về tỷ giá và tác động của tỷ giá đến cán cân

Do vậy, nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ cung cấp một bức tranh toàn diện hơn về ảnh
hưởng của tỷ giá đến thương mại của Việt Nam với các đối tác lớn chi tiết đến từng ngành
hàng và xem xét liệu tỷ giá có phải là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam luôn

thương mại
Chương 2: Trình bày tổng quan nghiên cứu, khoảng trống nghiên cứu và phương pháp
nghiên cứu và ước luợng mô hình


3

4


Chương 3: Trình bày diễn biến tỷ giá và thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam và
các đối tác
Chương 4: Trình bày và luận giải các kết quả của các mô hình
Chương 5: Trình bày kết luận và các đề xuất chính sách

1.2.2.2. Điều kiện Marshall-Lener
Điều kiện Marshall-Lener là sự phát triển của cách tiếp cận co dãn hay mô hình BRM
(Marshall, 1923; Lerner, 1944). Điều kiện này xuất phát từ giả định → ∞ và ∗ → ∞,
hay nói cách khác hàm cung xuất khẩu nội địa và nước ngoài hoàn toàn co dãn theo giá,
từ đó vế trái của biểu thức (1.9) được viết thành

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỂ TỶ GIÁ VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA TỶ GIÁ VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm về tỷ giá và cán cân thương mại
1.1.1. Khái niệm về tỷ giá
1.1.2. Khái niệm cán cân thương mại
1.2. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá và thương mại
1.2.1. Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại trong lý thuyết chuẩn về thương mại
quốc tế
Mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại trong lý thuyết chuẩn về thương mại
quốc tế cho rằng khi đồng nội tệ mất giá, hộ gia đình sẽ chuyển sang dùng hàng nội địa và
làm giảm nhập khẩu. Đồng thời, sự xuống giá đồng nội tệ sẽ khiến hộ gia đình nước ngoài
tiêu dùng nhiều hơn hàng hóa của nước xem xét, điều này dẫn đến sự gia tăng xuất khẩu
hàng hóa. Như vậy, khi một đồng nội tệ giảm giá, theo lý thuyết chuẩn về thương mại quốc
tế, sẽ có lợi cho xuất khẩu nước đó và ảnh hưởng tiêu cực đến nhập khẩu và qua đó cải
thiện cán cân thương mại (Wei-Bin, 2013).
1.2.2. Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại theo tiếp cận co dãn
1.2.2.1. Điều kiện Bickerdike-Robinson-Metzler (BRM)
Bản chất của cách tiếp cận co dãn chính là xem xét ảnh hưởng thay thế (substitution
effect) đến tiêu dùng và sản xuất khi có sự thay đổi của giá tương đối gây ra bởi sự phá

giá đồng tiền. Sự thay đổi của cán cân thương mại được dựa trên việc xem xét độ co dãn
của hàm cầu xuất khẩu và nhập khẩu. Bickerdike (1920), Robinson (1947), Metzler (1948)
là những người đầu tiên phát triển và xây dựng mô hình với hàm cầu xuất nhập khẩu theo
giá xuất nhập khẩu danh nghĩa, và đưa ra điều kiện BRM. Điều kiện BRM hàm ý rằng ảnh
hưởng của sự biến động tỷ giá lên cán cân thương mại phụ thuộc vào cung xuất nhập khẩu,
co dãn cầu, và khối lượng giao dịch thương mại ban đầu. Theo đó, điều kiện đủ để cải
thiện cán cân thương mại khi đồng tiến mất giá khi:


Trong đó












> 0 (1.9)

và là hệ số co dãn giá của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nội địa,

là hệ số co dãn giá của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nước ngoài.






+



− 1. Như vậy cán cân thương mại

được cải thiện khi và chỉ khi thỏa mãn điều kiện + ∗ > 1, hay giá trị tuyệt đối của tổng
hai co dãn theo giá cả của cầu nhập khẩu nội địa và cầu nhập khẩu nước ngoài (xuất khẩu
nội địa) phải lớn hơn 1.
1.2.2.3. Hiệu ứng đường cong J
Lý thuyết về hiệu ứng đường cong J cho rằng sự mất giá của đồng nội tệ sẽ cải thiện cái
cân thương mại trong dài hạn. Nhưng trong ngắn hạn cán cân thương mại sẽ bị xấu đi,
phản ứng của cán cân thương mại nếu được biểu diễn bằng đồ thị sẽ có hình dạng giống
chữ cái J.
1.2.3. Mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại theo tiếp cận hấp thụ
Cách tiếp cận hấp thụ được các tác giả như Harberger (1950), Meade (1951), và
Alexander (1952) đề xuất, là sự kết hợp giữa tiếp cận co dãn và trường phái kinh tế vĩ mô
Keynes. Giả định cốt lõi của cách tiếp cận này là bất kỳ một sự cải thiện nào trong cán cân
thương mại đều phải dựa trên sự gia tăng thu nhập so với chi tiêu trong nước (Malimi,
2013). Theo đó, cách tiếp cận này chỉ ra rằng phá giá đồng nội tệ sẽ dẫn đến cải thiện cán
cân thương mại khi ảnh hưởng thay thế của sự thay đổi giá tương đối sẽ có tác dụng đẩy
mạnh tăng trưởng sản lượng, lớn hơn là sự gia tăng hấp thụ nội địa.
1.2.4. Mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại theo tiếp cận tiền tệ
Cách tiếp cận (The monentary approach) cho rằng cán cân thanh toán phải được xem
xét từ quan điểm cung và cầu tiền tệ. Theo đó, khi phá giá đồng tiền sẽ làm tăng giá của
hàng hóa và dịch vụ thương mại, do đó làm giảm giá trị cân bằng tiền tệ thực mà công
chúng muốn nắm giữ, khi đó đòi hỏi chi tiêu phải giảm xuống để bù đắp lại, hay chính là
thành phần "hấp thụ" giảm xuống, vì vậy cán cân thương mại được cải thiện.

Nhìn chung, ba cách tiếp cận bao gồm co dãn, hấp thụ và tiền tệ đối với cân bằng thương
mại có sự bổ trợ cho nhau, và mỗi cách tiếp cận đều có ưu và nhược điểm riêng. Theo
Cooper (1971) có thể coi ba cách tiếp cận là chuỗi thời gian trong sự điều chỉnh cân bằng
thương mại. Cách tiếp cận co dãn được xem là tiếp cận ngắn hạn, tiếp cận hấp thụ được
ứng dụng cho phân tích trung hạn, và tiếp cận tiền tệ áp dụng trong trường hợp phân tích
dài hạn.


5

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

6

(1995), Felmingham và Divisekera (1986) cho rằng hiệu ứng đường cong J không tồn tại
ở các nền kinh tế được xem xét.

2.1. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về mối quan hệ giữa tỷ giá và

Các nghiên cứu thuộc nhóm sử dụng số liệu song phương phải kể đến như của Rose và

cán cân thương mại

Yellen (1989), Bahmani-Oskooee và Brooks (1999), Pesaran và cộng sự (1996), Bahmani-

2.1.1. Các nghiên cứu sử dụng tiếp cận co dãn

Oskooee và Kantipong (2001), Halicioglu (2007)...vv

2.1.1.1. Nhóm nghiên cứu kiểm định điều kiện Marshall-Lener (ML)


2.1.1.3. Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu ngành

a) Nhóm dữ liệu tổng
Các nghiên cứu ban đầu về hệ số co dãn của các dòng thương mại lại ít chú ý đến tỷ giá

Gần đây các nghiên cứu khác nhau bắt đầu xem xét ảnh hưởng của tỷ giá đến cán cân
thương mại dưới góc độ ngành. Những nghiên cứu này cho rằng: việc sử dụng dữ liệu

mà tập trung nghiên cứu chỉ số giá xuất khẩu và nhập khẩu để xem xét "ảnh hưởng thay

tổng hay dữ liệu song phương có thể gây ra các vấn đề thiên lệch khi mà tác động của

thế". Đến các nghiên cứu gần đây đã sử dụng co dãn giá tương đối (relative price) để kiểm

nhóm hàng hóa này lên cán cân thương mại, bị che lấp hay lấn át bởi nhóm hàng hóa kia

tra điều kiện ML. Houthakker và Magee (1969) đã đề xuất phương trình dạng rút gọn của

(Baek, 2013). Các nghiên cứu điển hình của tiếp cận dữ liệu ngành như: Bahmani-Oskooee

hàm cầu xuất và nhập khẩu (reduced-form equation) là nền tảng cho các nghiên cứu về

và Ardalani (2006), Baek (2013), Baek (2014), Huchet-Bourdon và cộng sự (2012)…vv

mối quan hệ tỷ giá và cán cân thương mại dựa trên điều kiện ML sau này.

2.1.2. Các nghiên cứu sử dụng tiếp cận hấp thụ và tiếp cận tiền tệ

Gần đây, các nghiên cứu về điểu kiện ML đã sử dụng kỹ thuật đồng liên kết trong các


Tổng quan tài liệu cho thấy có rất ít các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng hai cách tiếp

phân tích tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại như nghiên cứu của (Andersen,

cận này. Điều này là do cả hai cách tiếp cận trên không có sự phát triển để thích ứng với

1993), Rose (1991), Johansen và Juselius (1990), Bahmani-Oskooee và Niroomand

sự thay đổi của cán cân tài khoản vãng lai thời kỳ hậu Bretton Woods. Do vậy, các hai

(1998), Upadhyaya và cộng sự (1999), Kemal và Qadir (2005)...

cách tiếp cận trên vẫn khá thô sơ và không phát triển nhiều so với ý tưởng ban đầu (Abbas

Một số nghiên cứu khác sử dụng các phương pháp phương trình đơn nhất (trong đó có
mô hình ARDL) dựa trên kỹ thuật đồng liên kết cũng cho các kết quả ước lượng chi tiết
hơn để xem xét điều kiện ML.
Một số nghiên cứu chỉ cần xác định hệ số co dãn từ 1 phía (xuất khẩu hoặc nhập khẩu)
chỉ cần hệ số co dãn này lớn hơn 1 thì chắc chắn điều kiện ML được thỏa mãn như. Ngoài

Ali và cộng sự, 2014).
Một số nghiên cứu sau này đã sử dụng mô hình dạng rút gọn với sự kết hợp ba cách tiếp
cận co dãn, hấp thụ và tiền tệ với mô hình gồm các biến: tỷ giá, thu nhập, và cung tiền.
2.1.3. Các nghiên cứu mới về mối quan hệ phi tuyến hay phản ứng bất đối xứng của
cán cân thương mại với sự thay đổi tỷ giá

ra các nghiên cứu khác không xác định điều kiện ML gián tiếp thông qua hàm xuất và

Một số nghiên cứu gần đây đưa ra giả định mới rằng cán cân thương mại phản ứng bất


nhập khẩu mà sử dụng trực tiếp biến cán cân thương mại làm biến phụ thuộc từ đó xác

đối xứng trong trường hợp đồng tiền lên giá hoặc xuống giá dựa trên các lý thuyết như:

định được phá giá có dẫn đến cải thiện cán cân thương mại

Quyết định có tính trễ (hysteresis behavior), giá cả cứng nhắc (price stickiness), chính

b) Nhóm sử dụng dữ liệu song phương

sách đặt giá theo thị trường “pricing-to-market” của doanh nghiệp. Các nghiên cứu thực

Các nghiên cứu điển hình tiếp cận số liệu ở góc độ quan hệ thương mại song phương

nghiệm về mối quan hệ bất đối xứng giữ tỷ giá và cán cân thương mại mới chỉ xuất hiện

như Marquez (1990), Shirvani và Wilbratte (1997), Bahmani-Oskooee và Goswami

trong khoảng 3 năm gần đây như của Bahmani-Oskooee và Fariditavana (2015), Bahmani-

(2004), Sek và Har (2014), Arunachalaramanan và Ramesh (2011), và Memarian và

Oskooee và Fariditavana (2016), Shin và cộng sự (2014).

Shanei (2016)….vvv

2.2. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm của Việt Nam và khoảng trống nghiên cứu

2.1.1.2. Nhóm nghiên cứu hiệu ứng đường cong J


2.2.1. Tổng quan nghiên cứu của Việt Nam

Các nghiên cứu thuộc nhóm lấy số liệu tổng giá trị thương mại phải như BahmaniOskooee (1985), Rosensweig và Koch (1988), Himarios (1989) ủng hộ sự tồn tại của
đường cong J. Trong khi đó các nghiên cứu Felrningham (1988), Demirden và Pastine

Sử dụng cách tiếp cận định lượng để nghiên cứu về tác động của tỷ giá đến thương mại
ở Việt Nam ngày càng thu hút được sự chú ý của giới học giả Việt Nam. Một số nghiên
cứu điển hình bao gồm: Pham (2012), Pham và Nguyen (2013), Hoang (2013), Vu (2013),
Phan và Jeong (2015). Trong 3 năm gần đây, sau giai đoạn đồng CNY của Trung Quốc


7

8

biến động mạnh và giảm giá sau đó (2015-2016) đã có rất nhiều nghiên cứu về chủ đề này
như Mai (2016), Nguyen Cam Nhung và Tran Thi Thanh Huyen (2019), Nguyen và cộng
sự (2018), Hoang (2016)...vv
2.2.2. Khoảng trống nghiên cứu
Khoảng trống nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại ở Việt Nam
bao gồm: (i) thứ nhất, có rất ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của tỷ giá đến cán cân thương
mại mà chi tiết đến từng ngành hàng và từng đối tác; (ii) thứ hai, chưa có nghiên cứu nào
xem xét và giả định ảnh hưởng của tỷ giá đến cán cân thương mại là bất đối xứng.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Lý thuyết mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) và kiểm định đường bao
(Bound test)
2.3.1.1. Giới thiệu về mô hình ARDL và kiểm định đường bao
Pesaran và Shin (1998) và Pesaran và cộng sự (2001) đã đề xuất phương pháp tiếp cận
biên ARDL và thường được gọi là kiểm định đường bao (bound test) để xem xét mối quan

hệ trong dài hạn giữa các biến chuỗi thời gian có hỗn hợp các chuỗi I(0) hoặc I(1).
2.3.1.2. Các bước thực hiện hồi quy mô hình ARDL
2.3.1.3. Điều kiện áp dụng và các ưu điểm của tiếp cận ARDL
2.3.2. Mô hình nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ nghiên cứu của Rose và Yellen (1989) và Bahmani-Oskooee và Baek
(2016) tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu xem xét tác động của tỷ giá đến cán cân thương
mại giữa Việt Nam và 3 đối tác thương mại lớn với số liệu cấp ngành:
=

ln

+

"#
!

+$

%&
!

+ ' ()*! +

!

(2.7)

Trong đó +, nhập khẩu của Việt Nam từ các đối tác (Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản) trong

ngành hàng i, *, xuất khẩu của Việt Nam đến các đối tác trong ngành hàng i.


"# %&
! ( ! )



thu nhập thực của Việt Nam (đối tác), ()*! là tỷ giá hối đoái thực song phương.
2.3.3. Thủ tục ước lượng
2.3.3.1. Mô hình phân phối trễ tự hồi quy-ARDL
Theo Pesaran và cộng sự (2001) mô hình (2.7) được viết lại dưới dạng hiệu chỉnh sai số
như sau:


!

= . + ∑415 0!

∑4156 3! 1

∆ ()*!

1

1 ∆ln

+ 8 ln

! 1
9


+ ∑4156 3!
+

φ; lnY9=>

1



+

"#
! 1

+ ∑415 7!

φ? lnY9@A

1∆

+ φB lnREX9

%&
! 1

+

+ μ9

Pesaran và cộng sự (2001) đã đề xuất kiểm định F chuẩn cho giả thiết G6 :


81 =82 =83 =84 =0, nếu thống kê F có ý nghĩa tức là giả thiết G6 bị bác bỏ, hay nói cách
khác giữa các biến có quan hệ trong dài hạn.

2.3.3.2. Mô hình ARDL phi tuyến-NARDL
Để kiểm định giả thiết về phản ứng bất đối xứng của tỷ giá các nghiên cứu gần đây đã
xây dựng biến mới để mô tả sự thay đổi của biến tỷ giá REX. Trong đó, biến NEG để biểu
thị sự giảm xuống của tỷ giá, trong nghiên cứu này nó biểu biểu thị sự lên giá của VND,
và biến POS biểu thị cho sự tăng lên của tỷ giá hay sự xuống giá của VND. Cụ thể POS
và NEG được định nghĩa như sau:
!

!

L5
!

L5
!

L5

L5

HIJ! = K ∆ ()*L = K max ∆ ()*L , 0
Q)R! = K ∆ ()*L = K min ∆ ()*L , 0
Shin và cộng sự (2014) đề xuất thay thế biến lnREX trong mô hình hiệu chỉnh sai số
(2.7) bằng hai biến mới POS và NEG. Do đó mô hình (2.8) được viết lại và đặt tên là mô
hình NARDL (non-linear ARDL) hay ARDL phi tuyến:



!

= . + ∑415 0!

∑4156 T! 1

∆HIJ!

1

+

1 ∆ln

! 1

+ ∑4156 3!

∑4156 U! 1 ∆Q)R! 1

1

+ 8 ln

"#
! 1


9


+ ∑415 7!

+

φ; lnY9=>

1∆

+

%&
! 1

+

φ? lnY9@A

+

φB POS9 + φY NEG9 + μ9
(2.9)
Kiểm định biên F sử dụng trong mô hình ARDL cũng được dùng tương tự trong mô
hình NARDL. Hệ số ước lượng φB và φY có dấu và độ lớn khác nhau, có thể kết luận về
quan hệ bất đối xứng giữa tỷ giá và cán cân thương mại.
2.3.3.3. Các bước thực hiện
2.3.4. Nguồn số liệu
Để ước lượng mô hình ARDL và NARDL, tác giả sử dụng số liệu tháng cho giai đoạn
2008-2017. Số sản xuất công nghiệp được sử dụng là proxy thay cho biến thu nhập (Y)
được lấy từ cơ sở dữ liệu của IMF và dữ liệu của Trung tâm Hội nhập vùng Châu Á của

ADB.
Số liệu tỷ giá được thu thập từ cơ sở dữ liệu của IMF. Biến tỷ giá thực song phương
(REX) được tính dựa trên tỷ giá chéo danh nghĩa theo tháng giữa VND và các đồng ngoại
tệ USD, JPN, CNY và chỉ số giá CPI của các nước.
Dữ liệu thương mại giữa Việt Nam và các đối tác theo các ngành hàng được lấy từ cơ
sở dữ liệu của Trung tâm Thương mại Quốc tế-International Trade Centre.
Nghiên cứu xem xét 21 nhóm ngành hàng xuất và nhập khẩu giữa Việt Nam và các đối
tác được phân theo Hệ thống Hài hòa (HS). Bên cạnh đó để, xem xét ảnh hưởng tỷ giá đến
cán cân thương mại của một số ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (5 ngành chiếm
62% xuất khẩu của Việt Nam năm 2017)


9

10

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI VÀ TỶ GIÁ SONG PHƯƠNG

3.3. Thực trạng thương mại song phương giữa Việt Nam với Trung Quốc, Mỹ, Nhật

GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC ĐỐI TÁC TRUNG QUỐC, MỸ, VÀ NHẬT BẢN

Bản

3.1. Tỷ giá VND và sơ lược diễn biến chính sách tỷ giá
3.2. Thực trạng chung về xuất nhập khẩu của Việt Nam
3.2.1. Sơ lược về tình hình xuất nhập khẩu
Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định đối với hoạt động xuất khẩu, và cải
thiện cán cân thương mại trong những thập kỷ qua. Trong giai đoạn từ 1990-2017, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 82 lần. Trong đó xuất khẩu tăng 89 lần với tốc độ tăng

trưởng bình quân năm là 17,4%, nhập khẩu tăng 76 lần với tốc độ tăng trưởng bình quân
năm là 16,7%. Mặc dù vậy, tình trạng nhập siêu của Việt Nam vẫn kéo dài từ năm 1990
cho đến năm 2015, đáng chú ý là 2 năm gần đây thương mại của Việt Nam đã chuyển sang
xuất siêu nhưng khá khiêm tốn.
Đối với cơ cấu xuất nhập khẩu, Việt Nam cũng có những chuyển biến rất tích cực. Xuất
khẩu chuyển dần từ các mặt hàng thô và sơ chế sang các mặt hàng chế biến và có hàm
lượng công nghệ cao hơn. Tuy nhiên, kim ngạch suất siêu lại đến từ doanh nghiệp FDI,
doanh nghiệp trong nước phần lớn lại nhập siêu.
3.2.2. Sơ lược về thị trường xuất nhập khẩu và các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam
Trong phần này, nghiên cứu trình bày về tình hình xuất nhập khẩu nhóm các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và các thị trường chủ yếu. Việc xác định các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực dựa trên số liệu mà tác giả thu thập từ UN Comtrade năm 2017 và hệ
thống hài hòa HS 2 chữ số (99 chương-hay 99 nhóm hàng hóa) đã chọn ra 5 nhóm hàng
xuất khẩu chủ lực bao gồm:
Mặt hàng thiết bị, máy móc thiết bị, linh kiện điện thuộc chương 85 bảng HS được tác
giả đặt mã nhóm hàng là HS85 với 80% kim ngạch năm 2017 là của điện thoại và linh
kiện điện thoại-theo tính toán của tác giả.
Nhóm hàng các mặt hàng thuộc chương 84 của bảng mã HS, được tác giả ký hiệu là
HS84 với 70% kim ngạch là mặt hàng máy tính, máy văn phòng và các linh kiện.
Nhóm sản phẩm dệt may (HS61) chiếm 10,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, là
nhóm nằm trong chương 61 và 62 phần XI của bảng HS. Nhóm sản phẩm giày dép (HS64)
là nhóm mặt hàng xuất khẩu giày dép đứng ở vị trí thứ 3 trong các nhóm hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam nằm trong chương 64 bảng HS
Nhóm hàng thủy sản là các mặt hàng được xếp nhóm trong chương 03 của bảng mã HS
chiếm khoảng 6,9 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2017.

3.3.1. Thực trạng thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc
3.3.1.1. Diễn biến thương mại song phương hai nước gần đây
Trong thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã vươn lên và trở thành đối tác thương mại lớn

nhất của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng trưởng mạnh trong giai
đoạn từ 1990 đến nay. Tuy nhiên có thể thấy tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nhanh hơn xuất
khẩu, do vậy mà cán cân thương mại với Trung Quốc luôn bị thâm hụt trong nhiều năm
qua.
3.3.1.2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc cũng đã có
những biến chuyển tích cực. Hiện nay, các nhóm hàng chế biến hoặc có hàm lượng công
nghệ cao đã chiếm tỷ trọng lớn hơn trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này
3.3.1.3. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc cũng có sự thay
đổi trong 10 năm gần đây, nhưng sự chuyển biến về cơ cấu không mạnh mẽ như xuất khẩu
3.3.2. Thực trạng thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản
3.3.2.1. Diễn biến thương mại song phương hai nước gần đây
Thị trường Nhật Bản chiếm khoảng 10% tồng kim ngạch xuất nhập khẩu và là đối tác
thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Từ năm 2009 đến năm 2017, xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường này đã tăng đến 160%, trong khi nhập khẩu cùng tăng không kém ở mức
xấp xỉ 140%. Xét về cán cân thương mại cho thấy hầu hết trong giai đoạn 1995-2016, Việt
Nam hầu hết ở thế thặng dư thương mại trừ năm 2009-2010 và 3 năm gần đây 2015-2017.
3.3.2.2. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản.
Năm 2007-2008, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản phần nhiều là
nguyên nhiên liệu và nông sản cũng như trường hợp với Trung Quốc.
Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự dịch chuyển sau 10 năm nhưng không mạnh mẽ.
Nhật bản cũng là thị trường tiềm năng cho một số mặt hàng nông sản khác như điều,
chè, thủ công mỹ nghệ... nếu hàng hóa xuất khẩu đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật".
3.3.2.3. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản
Cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản trong các giai đoạn 2007-2008 và 20172018 không có nhiều sự thay đổi trong các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật
Bản. Các mặt hàng nhập khẩu lớn nhất vẫn là: Máy móc phụ tùng, sắt thép, máy vi tính
và linh kiện, ô tô...vvv



11

12

Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng với lợi thế so sánh sử dụng

Theo nghiên cứu của Bui và cộng sự (2017) chỉ ra rằng đồng tiền Việt Nam đang được

nhiều lao động, tài nguyên, nông lâm nghiệp như dệt may, thủy sản, giày dép, túi sách,

định giá quá cao. Mà lý do chính đó là chính sách neo tỷ giá chính thức không dựa trên

dầu thô...Tuy nhiên, cũng đã có những dấu hiệu tích cực khi các mặt hàng máy móc,

các nguyên lý cơ bản của kinh tế vĩ mô.

phương tiện vận tải, máy vi tính đã chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu Việt Nam.

Tuy nhiên, cán cân thương mại tăng lên cùng xu hướng với tỷ giá danh nghĩa, nhưng

3.3.3. Thực trạng thương mại song phương giữa Việt Nam và Mỹ

ngược chiều với tỷ giá thực. Điều này cho thấy tỷ giá thực và cán cân thương mại của Việt

3.3.3.1. Diễn biến thương mại song phương

Nam với đối tác Mỹ ít thấy mối quan hệ chặt chẽ theo lý thuyết.

Các quan hệ về đầu tư và thương mại của hai quốc gia được đẩy mạnh sau khi hai nước


Do đó có thể kết luận tương tự với nghiên cứu của Phan Thanh Thanh (2018) cho rằng:

bình thường hóa quan hệ 10/1995. Trong khoảng từ 1995-2001, xuất khẩu của Việt Nam

"cán cân thương mại của Việt Nam không bị tác động bởi các yếu tố danh nghĩa mà được

sang thị trường này đã tăng hơn 6 lần, nhập khẩu tăng nhưng chậm hơn với mức 3 lần.

quyết định vởi các yếu tố thực và cơ cấu", và "bởi vì cơ cấu sản xuất trong nước và xuất

Tuy nhiên, trong giai đoạn này thương mại giữa hai nước vẫn tăng trưởng dưới mức tiềm

khẩu phần lớn phụ thuộc đầu vào nhập khẩu trong khi ngành công nghiệp phụ trợ còn

năng.

thiếu vắng và chưa phát triển".

Năm 2001, hiệp định thương mại song phương giữa hai nước được ký kết (BTA). Từ

3.4.2. Tỷ giá CNY/VND và cán cân thương mại với Trung Quốc

năm 2003 trở đi, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong năm 2017, xuất

Tỷ giá danh nghĩa CNY/VND tăng liên tục từ giai đoạn 2000-2013. Thời điểm tháng

khẩu của Việt Nam vào Mỹ đạt 41,6 tỷ USD tăng 39 lần so với năm 2001, nhập khẩu tăng

1/2005 đến tháng 12/2017, tỷ giá danh nghĩa CNY/VND mất giá khoảng 80%. Trong khi


chậm hơn đạt 9,2 tỷ USD và tăng 22 lần. Do vậy, thặng dư thương mại mà Việt Nam với

đó, tỷ giá thực lên giá khoảng 8,3% và cán cân thương mại của hai nước trong giai đoạn

Mỹ ngày càng gia tăng từ 654 triệu USD lên 32,4 tỷ USD trong giai đoạn 2001-2017.

này khá dao động. Và cũng tương tự với kết luận trong trường hợp với đối tác Mỹ, cán cân

3.3.3.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu khẩu

thương mại Việt Nam ít bị tác động với các yếu tố danh nghĩa hay tỷ giá thực.

Trong các năm 2007 và 2008, chỉ có 3 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD là hàng
dệt may (5 tỷ USD), giày dép (1,075 tỷ USD) và mặt hàng gỗ và các sản phẩm gỗ (1,063
tỷ USD).

3.4.3. Tỷ giá JPN/VND và cán cân thương mại Nhật Bản
Số liệu tỷ giá danh nghĩa cho thấy đồng VND trong giai đoạn 2005-2017 mất giá khoảng
31%, thì tỷ giá thực cho thấy VND lên giá khoảng 50%. Sự mạnh lên của đồng JPY kể từ

Sau 10 năm, thị trường mỹ có 6 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 2 tỷ USD trong các

cuối năm 2015 đã lý giải phần nào sự giảm tốc của xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường

năm 2017-2018 bao gồm: Hàng dệt may, giấy dép các loại, điện thoại và linh kiện, máy

này và gây ra tình trạng thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với thị trường này trong

vi tính và linh kiện, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác.


2 năm gần đây.

6 nhóm hàng này chiếm đến 74% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
trong năm 2018.
3.3.3.3. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ năm 2007-2008 và 10 năm sau đó không có
nhiều sự thay đổi.
3.4. Tỷ giá thực và cán cân thương mại của Việt Nam với các đối tác
3.4.1 Tỷ giá USD/VND và cán cân thương mại với Mỹ
Tỷ giá thực (USD/VND) và tỷ giá danh nghĩa có xu hướng biến động ngược chiều nhau
trong hơn một thập kỷ qua. Nếu như trước nhưng năm 2011, đường tỷ giá thực nằm trên
đường tỷ giá danh nghĩa, thì sau đó tỷ giá danh nghĩa đã vượt qua đường tỷ giá thực và
khoảng cách này ngày càng được nới rộng. Tỷ giá danh nghĩa từ giai đoạn 1/2005-12/2017
đã mất giá trung bình 2,8% mỗi tháng.


13

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM
4.1. Kết quả ước lượng mô hình của21 ngành
Phần này trình bày kết quả của các mô hình của các ngành được chia theo các phần của
bảng HS (21 ngành), do một số ngành ít giao dịch thương mại nên không có số liệu, do
vậy chỉ có số liệu của 18 ngành với đối tác Trung Quốc và 19 ngành với hai đối tác Mỹ
và Nhật Bản.
4.1.1. Kiểm định các điều kiện cho mô hình ARDL và NARDL
Các kiểm định tính dừng, kiểm định đồng liên kết, kiểm định chuẩn đoán mô hình cho
thấy hầu hết thỏa mãn không dừng bậc 2, không tồn tại hiện tượng tự tương quan, phương
sai thay đổi và mô hình giải thích phù hợp, và có sự ổn đinh của mô hình.
4.1.2. Kết quả hệ số dài hạn mô hình ARDL

4.1.2.1. Kết quả với đối tác Trung Quốc
Đối với kết quả hệ số các mô hình với đối tác là Trung Quốc, trong 18 nhóm ngành
nghiên cứu tìm thấy 5 ngành hệ số của biến tỷ giá thực có ý nghĩa thống kê ( 5 ngành này
chiếm khoảng 18% tổng kim ngạnh nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam, 9% tổng
kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường này). Hầu hết hệ số tỷ giá các ngành
hàng dương hay phá giá có tác động tích cực đến cán cân thương mại của các ngành này.
Hệ số của tỷ giá trong phương trình tổng mã SCtotal chỉ ra rằng tỷ giá không có ảnh
hưởng đến cán cân thương mại Việt Nam và Trung Quốc trong dài hạn. Do mô hình ARDL
giả định tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại là đối xứng, nên các kết luận đối với

14

trình tổng (Sctotal) của Nhật Bản không có ý nghĩa thống kê, cho thấy tỷ giá không ảnh
hưởng đến tổng cán cân thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.
4.1.3. Kết quả các hệ số ngắn hạn mô hình ARDL
4.1.3.1. Hệ số ngắn hạn
Kết quả của các mô hình với đối tác Trung Quốc cho thấy có 9 ngành hàng (chiếm
khoảng 54% nhập khẩu và 56% xuất khẩu với thị trường này) có ít nhất một hệ số ngắn
hạn có ý nghĩa thống kê
Đối với đối tác là Mỹ, có 8 ngành hàng có ít nhất một hệ số ngắn hạn có ý nghĩa thống
kê chiếm 68% nhập khẩu và 54% xuất khẩu của Việt Nam năm 2017 ở thị trường này.
Đối với đối tác là Nhật Bản, có 11 ngành hàng có ít nhất một hệ số ngắn hạn có ý nghĩa
thống kê (chiếm 42% nhập khẩu và 48% xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường này năm
2017
4.1.3.2. Hiệu ứng đường cong J
Kết quả các mô hình với đối tác Trung Quốc cho thấy hiệu ứng đường cong J xảy ra ở
hai ngành hàng khoáng sản (SC05), da và các sản phẩm da (SC08).
Đối với đối tác là Mỹ, hiệu ứng đường cong J xảy ra ở ngành hàng hóa chất và các sản
phẩm hóa chất (SC06).
Đối với Nhật Bản, hiệu ứng đường cong J tìm thấy ở ngành khoáng sản (SC05).

Nhìn chung, kết quả mô hình ARDL cho thấy trong dài hạn cán cân thương mại của
Việt Nam với 3 đối tác Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản ít nhạy cảm với tỷ giá. Tuy nhiên,
với các mô hình tính toán tác động của tỷ giá đến tổng cán cân thương mại của Việt Nam

diễn biến của cán cân thương mại sẽ ngược lại trong trường hợp VND lên giá.

(biến phụ thuộc Sctotal) với 3 đối tác có thể thấy có chung một kết luận là tỷ giá không

4.1.2.2. Kết quả với đối tác Mỹ

nhạy cảm với cán cân thương mại của Việt Nam. Kết quả trên đã chứng minh cho kết luận

Đối với kết quả hệ số dài hạn các mô hình với đối tác là Mỹ, có 7 ngành hàng (chiếm
khoảng 59% nhập khẩu, và 52% xuất khẩu của Việt Nam với thị trường Mỹ, theo số liệu
2017) mà cán cân thương mại bị ảnh hưởng bởi tỷ giá. Tuy nhiên, hệ số dài hạn của phương
trình tổng chỉ ra rằng tỷ giá không ảnh hưởng đến tỷ trọng tổng xuất khẩu/nhập khẩu của
Việt Nam và Mỹ. Hay nói cách khác, tỷ giá không tác động đến cán cân thương mại giữa
hai nước.
4.1.2.3. Kết quả với đối tác Nhật Bản
Đối với kết quả hệ số dài hạn của Nhật, có 7 ngành hàng (chiếm khoảng 28% nhập khẩu
và 34% xuất khẩu của Việt Nam với thị trường này năm 2017) bị ảnh hưởng bởi tỷ giá.
Hệ số thu nhập của Việt Nam có 7 ngành (chiếm khoảng 32% nhập khẩu, và 31% xuất
khẩu ở thị trường Nhật Bản năm 2017) có ý nghĩa thống kê. Hệ số của tỷ giá ở phương

của Baek (2013) về việc sử dụng số liệu tổng sẽ gây ra vấn đề thiên lệch.
Đối với biến thu nhập, ở cả 3 đối tác điểm chung là cán cân thương mại nhạy cảm với
thu nhập của Việt Nam hơn là thu nhập của các đối tác, phần nhiều hệ số thu nhập của
Việt Nam mang dấu dương.
4.1.4. Kết quả hệ số dài hạn mô hình NARDL
4.1.4.1. Kết quả đối với đối tác là Trung Quốc

Đối với các mô hình NARDL của Trung Quốc, hệ số NEG and POS có ý nghĩa thống
kê trong 8 ngành lớn hơn so với 5 ngành trong mô hình ARDL trình bày ở trên. Điều này
cho thấy trong các mô hình NARDL, cán cân thương mại được chỉ ra là nhạy cảm với tỷ
giá hơn trong các mô hình ARLD. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đó và
chỉ ra vấn đề thiên lệch mà các nghiên cứu trước gặp phải khi giả định tác động của tỷ giá
đến cán cân thương mại là đối xứng. 8 ngành này chiếm 23% nhập khẩu, và 12% xuất


15

khẩu ở thị trường này năm 2017. Ngoài ra, kết quả mô hình NARDL cũng chỉ ra phản ứng
bất đối xứng trước sự thay đổi của tỷ giá
4.1.4.2. Kết quả với đối tác là Mỹ
Tương tự kết quả với đối tác Trung Quốc, các mô hình NARDL chỉ ra nhiều ngành hơn
với 11 ngành hàng (chiếm 71% nhập khẩu, và 81% xuất khẩu ở thị trường này)phản ứng
của cán cân thương mại trước sự thay đổi của tỷ giá. Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra
phản ứng bất đối xứng trước sự thay đổi tỷ giá.
Mô hình tổng với mã SCtotal chỉ ra rằng trong dài hạn việc VND mất giá thực không
có lợi cho cán cân thương mại giữa Việt Nam và Mỹ thậm chí cán cân thương mại còn bị
giảm xuống. Nếu VND mất giá thực 1%, cán cân thương mại với Mỹ giảm 2,5%. Trong
khi đó VND lên giá cán cân thương mại của Việt Nam không phản ứng (hệ số không có ý
nghĩa thống kê).
4.1.4.3. Kết quả mô hình của Nhật Bản
Mô hình NARDL chỉ ra có 16 ngành hàng (chiếm 46% nhập khẩu và 63% xuất khẩu
của Việt Nam với Nhật Bản) nhạy cảm với sự thay đổi của tỷ giá bao gồm: 7 ngành mà
ARDL đã chỉ ra; 9 ngành mới được chỉ ra trong NARDL. Có thể thấy sự khác biệt rất lớn
trong kết luận của mô hình ARDL và NARDL đối với trường hợp của Nhật Bản.
Trường hợp mô hình tổng với mã ngành SCtotal, kết quả chỉ ra rằng tỷ giá có ảnh hưởng
đến cán cân thương mại của Việt Nam và Nhật Bản trong trường hợp VND giảm giá. Khi
VND xuống giá 1%, cán cân thương mại của Việt Nam với Nhật Bản được cải thiện 1,2%.

Trong trường hợp VND lên giá, cán cân thương mại không bị ảnh hưởng.
4.1.5. Kết quả hệ số ngắn hạn NARDL
4.1.5.1. Kết quả với đối tác Trung Quốc
Kết quả cho thấy số ngành mà hệ số của hai biến ΔPOS (đại diện cho sự mất giá của
VND) và 0NEG (đại diện cho sự lên giá của VND) có ý nghĩa thống kê là 11 ngành và
khác nhau về dấu, độ lớn và độ trễ.
4.1.5.2. Kết quả với đối tác Mỹ
Các hệ số ngắn hạn của POS và NEG trong các mô hình với đối tác là Mỹ tương tự cũng
chỉ ra tác động bất đối xứng của tỷ giá lên cán cân thương mại. Tương tự như kết quả của
hệ số dài hạn, mô hình NARDL chỉ ra được nhiều ngành nhạy cảm với tỷ giá hơn so với
các kết luận từ mô hình ARDL.
4.1.5.3. Kết quả với đối tác là Nhật Bản
Kiểm đinh Wald-test có thể bác bỏ giả thiết tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại
là đối xứng trong 11 trường hợp. Trong đó, 9 ngành nhạy cảm với tỷ giá khi VND giảm
giá, và 12 ngành bị ảnh hưởng khi VND lên giá.

16

Nhìn chung, các kết quả của hệ số ngắn hạn cho thấy mô hình NARDL chỉ ra được nhiều
ngành phản ứng với tỷ giá hơn các mô hình ARDL. Mặt khác, trong ngắn hạn tồn tại phản
ứng bất đối xứng của cán cân thương mại đối với sự thay đổi của tỷ giá trong hầu hết các
ngành.
4.1.5.4. Hiệu ứng đường cong J
Kết quả cho thấy đối với đối tác là Trung Quốc, có ngành da và các sản phẩm da (SC08)
có hiệu ứng đường cong J. Đối với đối tác là Mỹ, không có ngành hàng nào có hiệu ứng
đường cong J. Đối với trường hợp đối tác là Nhật Bản, hiệu ứng đường cong J có ở ngành
SC04, SC05, và SC21. Đối với mô hình tổng (Sctotal) kết quả cho thấy hiệu ứng đường
cong J tồn tại đối với đối tác Nhật Bản (hệ số POS dương có ý nghĩa thống kê trong dài
hạn, không có ý nghĩa thống kê trong ngắn hạn)
Nhìn chung, kết quả các mô hình chỉ ra lý thuyết hiệu ứng đường cong J ít được ủng hộ

bởi mối quan hệ giữa thương mại Việt Nam với đối tác Mỹ và Trung Quốc.
4.2. Kết quả mô hình NARDL các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (Số liệu thu thập theo
chương của HS)
Kết quả mô hình ARDL và NARDL đã chỉ ra và chứng minh được trong trường hợp
của Việt Nam thì giả định về phản ứng đối xứng của cán cân thương mại với sự thay đổi
tỷ giá cũng gây ra sự thiên lệch trong các kết quả. Do vậy, trong phần này tác giả xem xét
tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại ở các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam dựa trên mô hình NARDL.
4.2.1. Kết quả hệ số dài hạn
4.2.1.1. Mặt hàng thiết bị, máy móc thiết bị, linh kiện điện (HS85)
Kết quả mô hình nhóm HS85 chỉ ra đồng VND giảm giá, cán cân thương mại của nhóm
mặt hàng này không bị ảnh hưởng trong trường hợp của đối tác Trung Quốc và Mỹ. Đối
với trường hợp đối tác Nhật Bản, cán cân thương mại nhóm hàng này giảm 0,7% khi đồng
VND giảm giá 1%. Trường hợp VND lên giá, chỉ có cán cân thương mại với đối tác Trung
Quốc bị ảnh hưởng, và cán cân thương mại của nhóm mặt hàng này giảm 6% khi VND
lên giá 1%. Như vậy, giảm giá đồng nội tệ rõ ràng không làm cán cân thương mại của Việt
Nam đối với cả 3 đối tác Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản được cải thiện, thậm chí tình hình
còn xấu đi trong trường hợp đối tác là Nhật Bản. Kết quả các hệ số cũng chỉ ra phản ứng
bất đối xứng của cán cân thương mại với tỷ giá trong cả 3 trường hợp đối tác.
4.2.1.2. Nhóm hàng máy móc, thiết bị cơ khí, lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi; các bộ phận
của chúng (HS84)
Kết quả mô hình chỉ ra rằng trường hợp VND giảm giá 1% cán cân thương mại ngành
này với Trung Quốc không bị ảnh hưởng. Trong khi đó cán cân thương mại với Mỹ giảm
8%, ngược lại cán cân thương mại với Nhật Bản tăng nhẹ 1,79%. Đây là những ngành chủ


17

yếu do FDI xuất khẩu, và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu nên ít bị ảnh hưởng bởi
tỷ giá.

4.2.1.3. Mặt hàng giày dép (HS64)
Kết quả mô hình khi VND giảm giá 1%, cán cân thương mại ngành này không có phản
ứng trong trường hợp đối tác Trung Quốc, trong khi đó cán cân thương mại với Mỹ xấu
đi (4%), nhưng cán thương mại của Nhật Bản được cải thiện 1,75%. Là các ngành có sự
phụ thuộc vào nguyên liệu như vậy, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, sự thay đổi tỷ giá
(đặc biệt khi đồng tiền mất giá) đã không có nhiều ảnh hưởng đến cán cân thương mại
của nhóm mặt hàng này.
4.2.1.3. Nhóm sản phẩm dệt may (HS61)
Kết quả mô hình cho thấy, khi VND giảm giá 1% cán cân thương mại các sản phẩm dệt
may ở thị trường Mỹ và Trung Quốc đều được cải thiện lần lượt là 4,9% và 19%. Trong
khi đó, ở thị trường Nhật Bản cán cân thương mại không bị ảnh hưởng.
4.2.1.4. Nhóm hàng thủy sản (HS03)
Kết quả mô hình khi đồng VND mất giá sẽ không ảnh hưởng đến cán cân thương mại
ngành này ở thị trường Trung Quốc và thị trường Mỹ, trong khi đó cán cân thương mại ở
thị trường Nhật Bản giảm 4,8% nếu VND mất giá 1%. Nhìn chung, đối với nhóm hàng
thủy sản rõ ràng xuất khẩu và cán cán cân thương mại lại phụ thuộc nhiều vào khả năng
sản xuất và "chiếm lĩnh thị trường" hơn là tỷ giá.
4.2.2. Kết quả hệ số ngắn hạn
Trong ngắn hạn, mã ngành HS85 (hàng máy điện và thiết bị điện...), có cán cân thương
mại phản ứng với sự giảm giá của đồng VND (hệ số POS) trong trường hợp với đối tác
Mỹ và Nhật Bản, hệ số ngắn hạn POS không có ý nghĩa thống kê ở mô hình đối tác Trung
Quốc. Theo đó, VND mất giá sẽ làm cán cân thương mại nhóm hàng dệt may được cải
thiện trong ngắn hạn ở hai thị trường Mỹ và Nhật Bản. Khi VND lên giá, cán cân thương
mại xấu đi đối với đối tác Mỹ, nhưng được cải thiện với đối tác Trung Quốc và không
phản ứng với đối tác Nhật Bản. Kết quả hệ số của nhóm hàng mã HS84 (máy móc, thiết
bị...) tương tự nhóm HS85.
Đối với mã HS64 (nhóm hàng giày dép), có kết quả gần tương tự HS85 khi trong ngắn
hạn khi VND mất giá cán cân thương mại ngành này không bị ảnh hướng với đối tác Trung
Quốc, được cải thiện với đối tác Nhật Bản và xấu đi với đối tác Mỹ.
Kết quả các mô hình cũng chỉ ra mã HS61 (nhóm sản phẩm dệt may) có cán cân thương

mại được cải thiện hơn trong ngắn hạn với đối tác Mỹ, xấu đi với đối tác Trung Quốc và
không phản ứng với đối tác Nhật khi VND mất giá. Trường hợp VND lên giá cán cân
thương mại lại tốt hơn với đối tác Trung Quốc và Nhật Bản.

18

Mã HS03 (nhóm hàng thủy hải sản) cán cân thương mại ít phản ứng với tỷ giá trong
ngắn hạn, VND mất giá làm cán cân thương mại với Nhật Bản xấu đi. Khi VND lên giá
lại làm cán cân thương mại với Trung Quốc tốt hơn.
Nhìn chung, từ kết quả hệ số POS với đối tác Trung Quốc cho thấy chỉ có ngành mã
HS61 (hàng dệt may) là có cán cân thương mại phản ứng với tỷ giá trong ngắn hạn. Ngược
lại đối với trường hợp VND lên giá, các hệ số ngắn hạn NEG của các ngành hàng đều có
ít nhất 1 hệ số có ý nghĩa thống kê và hầu hết hệ số mang dấu âm (trừ mã ngành 61). Điều
này hàm ý, trong ngắn hạn đồng VND lên giá cán cân thương mại các ngành (HS85, H64,
HS84, HS03) dường như tốt hơn. Với Mỹ, cán cân thương mại phản ứng với sự thay đổi
tỷ giá (lên giá hoặc xuống giá) ở hầu hết các ngành chủ lực (trừ ngành hàng thủy hải sản).
Đối với Nhật Bản, cán cân thương mại các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu nhạy cảm với tỷ
giá hơn trong trường hợp VND mất giá (4/5 ngành). Khi VND tăng giá chỉ có 2 ngành
phản ứng (HS84 và HS61).


19

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
5.1. Kết quả đạt được
Nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL tuyến tính và ARDL phi tuyến (NARLD) để xem
xét mối quan hệ giữa cán cân thương mại của Việt Nam với các đối tác lớn trong từng

20


hợp, VND lên giá cán cân thương mại không phản ứng với sự thay đổi tỷ giá. Như vậy,
riêng với thị trường Nhật Bản công cụ tỷ giá xem ra có tác dụng cải thiện cán cân thương
mại của Việt Nam ở thị trường này.
5.1.2. Các kết luận từ mô hình các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (5 nhóm ngành)

ngành hàng gồm: (i) 21 ngành theo phần (section) của HS (ii) 5 ngành xuất khẩu chủ lực.

Xem xét ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá đến cán cân thương mại các mặt hàng chủ lực

Nghiên cứu khắc phục những nhược điểm của các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa

của Việt Nam đến các đối tác Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Dựa trên phân tích kết quả có

cán cân thương mại và tỷ giá của việt Nam: (1) sử dụng số liệu ngành để khắc phục hạn

thể rút ra một số kết luận như sau:

chế khi lấy số liệu tổng, (2) sử dụng mô hình phi tuyến đế tránh vấn đề thiên lệch khi giả
định phản ứng của cán cân thương mại là đối xứng khi đồng tiền mất giá hoặc tăng giá.
5.1.1. Các kết luận từ mô hình các ngành hàng HS (21 nhóm ngành hàng)

Thứ nhất, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam có hai loại: (i) thứ nhất, các
mặt hàng công nghệ cao (mã HS85 và HS84) với sự tham gia sản xuất chủ yếu của các
doanh nghiệp FDI và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, do vậy phần nào đã làm giảm

Từ kết quả hệ số ngắn hạn và dài hạn của mô hình có thể rút ra một số kết luận như sau:

các ảnh hưởng của chính sách với công cụ tỷ giá; (ii) thứ hai, các mặt hàng hàng mà Việt

Thứ nhất, cách tiếp cận số liệu trong từng ngành hàng và sử dụng mô hình ARLD phi


Nam có lợi thế cạnh tranh với chi phí lao động rẻ (ngành dệt may, giày dép), nhưng các

tuyến được cho là sẽ mang lại các kết luận mang tính thuyết phục hơn về mối quan hệ giữa
tỷ giá và cán cân thương mại.

nhóm hàng này lại chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Thứ hai, cán cân thương mại các ngành xem xét dường như nhạy cảm với tỷ giá hơn với

Thứ hai, lý thuyết về hiệu ứng đường cong J không được ủng hộ trong kết quả mô hình

đối tác Mỹ và Nhật và ít phản ứng với đối tác Trung Quốc trong cả dài hạn và ngắn hạn

nghiên cứu quan hệ giữa cán cân thương mại và tỷ giá của Việt Nam với các đối tác Mỹ

trong trường hợp VND mất giá. Tuy nhiên, khi VND lên giá thì cán cân thương mại các

và Trung Quốc.

ngành này lại nhạy cảm với tỷ giá hơn ở trường hợp đối tác là Trung Quốc (chủ yếu là cán

Thứ ba, thu nhập của Việt Nam (proxy bằng biến chỉ số sản xuất công nghiệp) có tác
động tích cực đến cán cân thương mại với đối tác Mỹ và Trung Quốc.
Đối với đối tác là Trung Quốc, cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc ít
nhạy cảm nhất so với hai đối tác Mỹ và Nhật Bản. Kết quả này góp phần khẳng định hiện

cân các ngành xấu đi khi VND lên giá). Trong khi đó, VND lên giá ảnh hưởng tới chỉ 2/5
ngành với Mỹ, và 1/5 ngành với Nhật Bản. Có thể thấy, chính sách phá giá thúc đẩy cán
cân thương mại các mặt hàng sẽ không hiệu quả đối với đối tác Trung Quốc.
5.1.3. Các kết luận chung


tượng phụ thuộc của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. Tỷ giá là công cụ quan trọng

Các kết quả phân tích trên đã chỉ ra rằng phá giá chưa chắc đã làm cán cân thương mại

hiệu quả nhất trong việc điều tiết chính sách thương mại, sự vô hiệu hóa của công cụ này

của Việt Nam tốt hơn, thậm chí là xấu đi trong trường hợp đối với đối tác là Mỹ. Hoặc đối

trong quan hệ giao thương với Trung Quốc cho thấy Việt Nam không có biện pháp phòng

với các trường hợp của mặt hàng xuất khẩu chủ yếu cán cân thương mại ít nhạy cảm trong

ngừa trước các cú sốc tỷ giá với Trung Quốc.

trường hợp phá giá, trong khi khi đồng tiền lên giá cán cân thương mại nhiều ngành lại bị

Đối với đối tác là Mỹ, kết quả mô hình ARDL và NARLD cho thấy cán cân thương mại

ảnh hưởng tiêu cực. Dựa trên lý thuyết về thương mại và các phân tích ở chương 3 và

của Việt Nam với thị trường này khá nhạy cảm với tỷ giá. Các mô hình NARDL chỉ ra,

chương 4, tác giả có thể chỉ ra một số nguyên do khiến cho phá giá chưa chắc làm cán cân

một số ngành sẽ có sự cải thiện về cán cân thương mại, nhưng một số ngành cán cân

thương mại Việt Nam tốt hơn như sau:

thương mại sẽ xấu hơn khi VND giảm giá. Nhưng mô hình tổng chỉ ra nếu VND giảm giá


Thứ nhất, chương 3 chỉ ra mối quan hệ giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực của Việt

thì cán cân thương mại giữa Việt Nam với đối tác Mỹ sẽ xấu đi. Bởi vậy, đối với thị trường

Nam. Gần đây hai tỷ giá này có xu hướng ngược chiều nhau. Trong cả 3 đối tác, thì đồng

Mỹ không nên sử dụng chính sách phá giá như một công cụ để cải thiện cán cân thương

VND có xu hướng lên giá trong những năm gần đây. Do đó, vấn đề ở đây chính là chính

mại.

sách tỷ giá tương đối cứng nhắc của Việt Nam hiện nay khiến VND được định giá cao,

Đối với đối tác là Nhật Bản, nghiên cứu chỉ ra cán cân thương mại các ngành cũng khá

khiến hàng xuất khẩu của Việt Nam mất đi khả năng cạnh tranh. Về dài hạn, việc đồng

nhạy cảm với tỷ giá (16/19 ngành). Kết quả mô hình NARDL với số liệu tổng chỉ ra, khi

VND được định giá cao sẽ gây khó khăn cho Việt Nam trong việc cải thiện và duy trì

VND giảm giá cán cân thương mại của Việt Nam với Nhật Bản sẽ được cải thiện. Trường


21

22


thặng dư thương mại. Việc đồng tiền bị định giá cao cũng làm giảm hiệu quả của chính

5.3. Hàm ý chính sách đối với các ngành hàng

sách phá giá đối với cán cân thương mại

Nhóm mặt hàng thiết bị, máy móc thiết bị, linh kiện điện (HS85) và nhóm mặt hàng máy

Thứ hai, Việt Nam còn phụ thuộc nhiều và hàng hóa nhập khẩu với vài trò là đầu vào
cho xuất khẩu (xem các phân tích chương 3 và chương 4), mặt khác năng lực sản xuất

móc, thiết bị cơ khí…(HS84)
Nâng cao năng lực của ngành công nghiệp phụ trợ, sản xuất linh kiện, và thu hút FDI

hàng thay thế nhập khẩu còn yếu kém. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu khiến cho cán cân

vào những ngành này. Đồng thời có các cơ chế thu hút FDI một cách cẩn trọng hơn.

thương mại ít bị tác động khi đồng tiền xuống giá, đặc biệt là trong trường hợp với đối tác

Nhóm sản phẩm giày dép (HS64)

là Mỹ.

Cán cân thương mại ngành này ít bị ảnh hưởng bởi cú sốc tỷ giá đối với 2 đối tác lớn là

Thứ ba, vai trò của FDI trong xuất khẩu là quá lớn (72% xuất khẩu của Việt Nam) và

Mỹ và Trung Quốc. Để nâng cao hiệu quả chính sách phá giá với mặt hàng này thì cần


chủ yếu là trong các ngành chế biến chế tạo có hàm lượng công nghệ cao (các nhóm hàng

phải nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngành, tiến lên nấc cao hơn trong chuỗi giá trị toàn

như sản xuất điện thoại, máy tính và máy móc thiết bị điện, cơ khí khác). Sự đóng góp này

cầu, sản xuất không chỉ dừng ở giai đoạn gia công, và phụ thuộc phần lớn vào nguồn

cũng là nguyên nhân kéo theo sự gia tăng nhập khẩu nguyên liệu và linh kiện. Với đặc

nguyên liệu nhập khẩu.

trưng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp này sẽ dẫn đến sự giảm

Nhóm dệt may (HS61)

hiệu quả của các chính sách sử dụng công cụ tỷ giá (đặc biệt là trong trường hợp phá giá
đồng nội tệ).
Thứ tư, khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn yếu. Nguyên nhân là do trình độ

Việc sử dụng công cụ phá giá là thích hợp với ngành này.
Nhóm thủy hải sản (HS03)
Các chính sách hỗ trợ phát triển ngành nên tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm,

phát triển công nghệ và máy móc thiết bị của Việt Nam còn ở mức yếu hoặc trung bình,

tạo thế mạnh cạnh tranh và "khả năng chiếm lĩnh thị trường".

chất lượng nguồn nhân lực hạn chế do vậy năng suất còn thấp. Chính khả năng cạnh tranh


5.4. Những đề xuất chính sách chung

thấp dẫn đến việc khó khăn tìm thị trường hay mở rộng thị trường và cơ hội nâng cao xuất

Thứ nhất, với nhưng kết luận trên, rõ ràng việc sử dụng tỷ giá như một công cụ thúc đẩy

khẩu sẽ bị bỏ lỡ khi mà chính sách phá giá được thông qua. Nói một cách khác năng lực

xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại cho Việt Nam nên được cân nhắc dựa trên các

cạnh tranh của hàng xuất khẩu yếu làm giảm hiệu quả của chính sách phá giá.

mục tiêu ưu tiên khác nhau và sự phối hợp các chính sách khác nhau.

5.2. Hàm ý chính sách đối với các đối tác
Đối với đối tác là Trung Quốc, kết quả các mô hình chủ ra cán cân thương mại ít nhạy

Thứ hai, cán cân thương mại là một biến số vĩ mô phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
bao gồm: (i) các yếu tố góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, (ii) các yếu tố

cảm với tỷ giá. Vì vậy, có thể khẳng định trong ngắn hạn, chưa có giải pháp khả thi để hạn

về giá tương đối trong đó có tỷ giá. Các kết quả phân tích ở chương 3 và chương 4 cho

chế nhập siêu với Trung Quốc (trong điều kiện chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam

thấy Việt Nam đang gặp vấn đề về cơ cấu sản xuất và xuất khẩu. Hơn nữa, sự phụ thuộc

không thay đổi nhiều). Để giảm bớt phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc, Việt Nam


của nhập khẩu vào thị trường nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc, cũng làm giảm các tác

cần tiến hành song song cả việc nâng cao năng lực cho các ngành sản xuất trong nước vừa

động tích cực của giảm giá đồng VND lên cán cân thương mại. Do đó, nghiên cứu đưa ra

cần mở rộng tìm kiếm các thị trường nhập khẩu thay thế khác, như là từ các nước ASEAN.

một số hàm ý chính sách bên cạnh các chính sách tỷ giá nhằm thúc đẩy xuất khẩu và cải

Đối với thị trường Mỹ, kết quả của 21 nhóm ngành hàng và 5 nhóm mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu cho thấy, chính sách phá giá không giúp cải thiện cán cân thương mại ở thị trường
Mỹ mà thậm chí còn làm tình hình xấu hơn. Do vậy, công cụ tỷ giá sẽ khó phát huy tác
dụng trong trường hợp với Mỹ.
Đối với thị trường Nhật Bản, kết quả mô hình NARDL với số liệu tổng chỉ ra, khi VND
giảm giá cán cân thương mại sẽ được cải thiện. Trường hợp, VND lên giá cán cân thương

thiện cán cân thương mại và nâng cao hiệu quả của công cụ tỷ giá đối với thương mại của
Việt Nam như sau:
Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, tự chủ nguồn nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa các ngành sản xuất cho xuất khẩu. Đặc
biệt đối với các ngành như: máy điện thiết bị điện, hay máy móc thiết bị cơ khí, ngành
giày dép, dệt may.

mại không phản ứng với sự thay đổi tỷ giá. Như vậy, riêng với thị trường Nhật Bản công

Thận trọng đối với chính sách thu hút FDI, có các chính sách hỗ trợ và bảo hộ các doanh

cụ tỷ giá xem ra có tác dụng cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam ở thị trường này.


nghiệp sản xuất trong nước. Có các chế tài phù hợp để các doanh nghiệp FDI tích cực thực


23

24

KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

hiện chuyển giao công nghệ và sử dụng các doanh nghiệp trong nước cho việc cung cấp
nguyên liệu, sản phẩm đầu vào của sản xuất.
Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động các doanh nghiệp sản xuất, cải
thiện khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế
giới.

Dựa trên việc phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại, luận án đã đạt
được một số kết quả như sau:
Thứ nhất, luận án đã trình bày và giới thiệu cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá
và cán cân thương mại. Từ đó đã khái quát được quá trình phát triển của lý thuyết xung
quanh mối quan hệ của tỷ giá với cán cân thương mại.
Thứ hai, luận án đã tổng quan được các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và của
Việt Nam về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại. Qua đó, tác giả đã chỉ ra
được khoảng trống nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại của Việt
Nam.
Thứ ba, kết hợp các phân tích định tính và định lượng của luận án đã đưa ra các kết luận
như: (i), tỷ giá tác động đến cán cân thương mại khác nhau theo từng ngành và đối tác, (ii)
cán cân thương mại nhạy cảm hơn với tỷ giá ở đối tác Mỹ và Nhật Bản. Đối tác Trung
Quốc ít nhạy cảm hơn, (iii) tác động tỷ giá đến cán cân thương mại là bất đối xứng. Từ
các kết quả tìm được luận án cũng đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách như:
- Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng chính sách phá giá cần cân nhắc dựa trên các

mục tiêu ưu tiên và phối hợp các chính sách khác nhau. Việc phá giá có thể dẫn đến các
kết quả không mong muốn đối với một nền kinh tế đang phát triển còn phụ thuộc vào nhập
khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào và năng lực sản xuất thay thế nhập khẩu còn yếu như Việt
Nam.
- Công cụ chính sách tài khóa và tái cơ cấu cấu nền kinh tế, phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp xuất khẩu là các chính
sách nên được sử dụng nhằm cải thiện cán cân thương mại hơn là sử dụng công cụ tỷ giá
Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
+ Tính toán thêm ảnh hưởng của chuỗi giá trị toàn cầu vào trong mối quan hệ giữa tỷ
giá và cán cân thương mại.
+ Đưa thêm yếu tố biên mậu trong mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại với
đối tác Trung Quốc.



×