Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.74 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
*. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt là môn có vị trí rất quan trọng đối với học sinh lóp 1 đặc
biệt là phân môn tập viết. Dạy tập viết không chỉ giúp học sinh viết đúng mẫu
chữ, đẹp, rõ ràng và nhanh tạo điều kiện để học sinh ghi bài học của mình ở tất
cả các phân môn tốt hơn. Ngoài ra dạy tập viết còn góp phần quan trọng trong
việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp: Tính cẩn thận, tính kỷ luật
và óc thẩm mỹ. Câu nói của ông cha ta muôn thuở vẫn là vô giá “ Nét chữ, nết
người” không ngẫu nhiên mà cố vấn Phạm Văn Đồng nói “ Chữ viết cũng thể
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp góp phần
rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với
thầy cô và bạn bè khi đọc bài vở của mình”. Hành trang theo suốt cuộc đời các
em là chữ viết. Bậc tiểu học chữ viết là nền tảng quan trọng nhất đối với quá
trình học tập lâu dài của học sinh. Bởi vậy cái nền tảng ấy càng vững chắc đến
đâu thì càng có cơ sở để xây dựng ước mơ cao đến đó.
Thực tế cũng cho thấy chữ viết quyết định không nhỏ đến kết quả học tập
của học sinh. Một bài thi muốn đạt kết quả tối đa, yêu cầu chữ viết phải đẹp,
trình bày khoa học, rõ ràng, mạch lạc. Bất kể một vị giám khảo nào khi chấm
bài lại không thuận mắt, vui lòng trước một bài thi “Đẹp mắt”. Chắc rằng họ
không tiếc gì 1 điểm cho chữ viết và trình bày. Thêm 1 điểm hay bớt 1 điểm
cũng quá đủ quyết định cho thí sinh đạt hay không đạt trong kỳ thi.
Vì thế trong những năm gần đây, nhiều thế hệ thầy cô đã trăn trở, băn
khoăn, góp công sức cải tiến kiểu chữ viết, nội dung và phương pháp dạy tập
viết, mặc dù vậy học sinh vẫn viết sai mẫu, viết chưa đẹp và viết chậm. Điều đó
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tập viết nói riêng và các môn học khác nói
chung.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 1, tôi luôn băn khoăn về vấn đề
chữ viết của các em. Làm thế nào để giúp các em viết đúng, viết đẹp. Các bậc
cha mẹ sẽ hạnh phúc và sung sướng biết bao nhiêu khi nhìn vào trang vở Tập
viết của con em mình với những dòng chữ ngay ngắn đều tăm tắp, đúng và đẹp;
những trang vở không bị giây mực, không bị quăn mép. Chính vì vậy mà tôi


quyết định chọn và nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số kinh
nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”.
*. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ
thể, thiết thực giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập viết
lớp 1, cụ thể là giúp học sinh có kỹ năng viết chữ đúng và đẹp.
*. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã khảo sát trên các đối tượng sau:
-Vở Tập viết, vở Thực hành luyện viết của học sinh, sách giáo viên Tiếng
Việt lớp 1, trọng tâm là phân môn Tập viết và một số tài liệu tham khảo khác.
- Thực trạng dạy và học phân môn Tập viết cụ thể là thực trạng chữ viết
của học sinh lớp 1. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh viết xấu,
viết sai và chậm. Từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục để nâng cao chất
lượng chữ viết cho học sinh lớp 1.
1


*. Phương pháp nghiên cứu :
Từ khi tìm hiểu, nghiên cứu cho đến khi hoàn thành đề tài này, tôi thấy đề
tài có tác dụng to lớn. Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Nghiên cứu tình hình học tập của học sinh.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Chữ viết là sáng tạo kỳ diệu của con người. Sự xuất hiện của chữ viết
đánh dấu một giai đoạn phát triển về chất của ngôn ngữ. Chữ viết và dạy chữ
viết được mọi người quan tâm.Việc rèn kỹ năng viết chữ cho học sinh Tiểu học

đã được nhiều thế hệ thầy, cô giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều công sức cải
tiến kiểu chữ, nội dung cũng như phương pháp dạy chữ viết. Dạy Tập viết là dạy
học sinh có những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình
dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo các chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ, các khái
niệm liên kết nét chữ, hoặc liên kết chữ cái…Từ đó hình thành cho các em
những biểu tượng về hình dáng, đường nét các con chữ, độ rộng, độ cao sự cân
đối, tính thẩm mĩ của chữ viết.
Dạy học sinh biết được những kỹ năng và thao tác viết chữ từ đơn giản
đến phức tạp bao gồm những kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên kết
chữ cái tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí cỡ
chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng, đếu nét, liền
mạch, viết thẳng hàng các chữ trên dòng kẻ và cao hơn là viết nhanh, viết đúng,
viết đẹp. Ngoài ra, tư thế ngồi, cách cầm bút, cách để vở, cách trình bày bài viết
cũng là một kỹ năng đặc thù của dạy Tập viết mà giáo viên cần thường xuyên
quan tâm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
- Lớp1 là lớp đầu cấp, các em còn nhỏ mới qua lớp mẫu giáo, nhận thức
của các em không đồng đều. Bên cạnh đó, việc giáo dục cho các em những
phẩm chất Đạo đức tốt như: Tính cẩn thận, tính kỷ luật và khiếu thẩm mỹ chưa
được quan tâm đúng mức. Điều này có liên quan đến việc dạy phân môn Tập
viết cho học sinh Tiểu học. Mặt khác, từ môi trường hoạt động vui chơi là chính
chuyển sang môi trường chủ yếu là hoạt động học tập, các em phải đọc, phải
viết nhiều hơn, gây mỏi tay, mỏi mắt…dẫn đến tình trạng uể oải, nản trí, ngại
viết.
- Việc làm quen với chữ viết đối với các em thật khó khăn bởi đôi tay còn
vụng về, lóng ngóng. Ở mẫu giáo các em mới được làm quen với đọc và tô các
chữ cái, chưa có khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, chưa nắm được cấu tạo của
các nét cơ bản, cấu tạo của các chữ cái. Chưa nắm được độ cao, độ rộng, của
từng con chữ, khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng, cách viết các chữ thường, dấu
thanh và các chữ số. Chưa nắm được quy trình viết chữ cái. Nhiều em còn viết

chữ ngược, số ngược.
2


- Học sinh chưa thực hiện tốt, nghiêm túc các quy định trong giờ Tập viết
như:
+ Cầm bút chưa đúng cách.
+ Ngồi viết chưa đúng tư thế.
+ Vị trí đặt vở khi viết chưa đúng.
- Đa số học sinh chưa nắm được kĩ thuật viết, cách rê bút, cách lia bút, nét
nối, điểm đặt bút, điểm dừng bút trong một chữ ghi tiếng và khoảng cách giữa
các chữ ghi tiếng, ghi từ.
- Một số em còn thiếu đồ dùng học tập, một số em chưa học qua mẫu
giáo. Bản thân các em chưa phát huy được tính tự học, tự rèn luyện ở trường
cũng như ở nhà. Các em còn ham chơi chưa chú ý đến học tập.
- Một số ít giáo viên chưa hiểu rõ bản chất của các nguyên tắc và phương
pháp dạy học phân môn Tập viết, thường có quan niệm xem nhẹ giờ Tập viết,
luôn coi đó là một phân môn phụ.
- Một số giáo viên chưa hiểu rõ được vai trò, tác dụng của một số phương
tiện trực quan trong giờ Tập viết như bảng con, chữ mẫu.
- Một số giáo viên chưa có sự thống nhất về tên gọi của các nét chữ, con
chữ trong một giờ dạy Tập viết. Chưa có sự kết hợp đồng bộ với các môn học
khác như: Học vần, Tập đọc để giúp học sinh đọc đúng, đọc hiểu, từ đó dẫn đến
viết đúng, viết đẹp.
- Một số giáo viên chưa nắm được kỹ thuật viết chữ, cách gọi các thuật
ngữ khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi tiếng,
chữ ghi từ. Mặt khác còn nhiều giáo viên còn nhầm lẫn giữa cách rê bút, cách lia
bút, điểm đặt bút, điểm dừng bút, cách nối chữ khi viết.
2.3 Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề:

Giải pháp thứ nhất: Chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật chất, thiết bị dạy - học:
Việc chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học học của nhà
trường, giáo viên và học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học ở
Tiểu học. Đó chính là điều kiện dẫn tới sự thành công của việc dạy - học ở bất
cứ môn học nào đặc biệt nhất là phân môn dạy Tập viết trong trường tiểu học. a/
Ánh sáng phòng học:
- Phòng học phải đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học theo quy định
của vệ sinh học đường
b/Bảng lớp:
- Bảng lớp được treo ở độ cao vừa phải ngang tầm với đầu học sinh ngồi
học. Kích thước 1,2m x 2,9m.
- Chất lượng bảng chống loá, trên bảng có dòng kẻ phù hợp, bên phải là
dòng kẻ ô li nhỏ giống như trong vở Tập viết của học sinh để giáo viên viết mẫu
và hướng dẫn viết vở.
- Bảng lớp phải luôn luôn được xoá sạch bằng khăn lau sạch, có độ ẩm
vừa phải.
c/Bàn ghế học sinh:
- Bàn ghế học sinh: Đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
3


Trung bình 2 học sinh/1 bàn. Tránh tình trạng học sinh ngồi chặt chội sẽ khó
viết.
- Kích thước bàn ghế phải phù hợp với độ cao trung bình của học sinh
lớp1.
d/ Bảng con, phấn, giẻ lau:
- Chất lượng: Yêu cầu học sinh dùng bảng Mic hai mặt có dòng kẻ ô li
giống trong vở Tập viết của các em. Phấn Mic hoặc phấn Thiên Long trắng có
chất liệu tốt, không dùng phấn cứng quá hoặc kém chất lượng. Giẻ lau phải
mềm, sợi bông thấm nước, giữ độ ẩm vừa phải, có thể gấp nhiều lần, độ dày

thích hợp và luôn sạch
- Số lượng: Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ cho từng học sinh mỗi em một
cái, học sinh phải có hộp đựng phấn.
e/Vở tập viết và bút
- Chất lượng: Vở Tập viết phải do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành hàng
năm. Giấy viết phải đảm bảo không bị thấm mực, dòng kẻ phải ngay ngắn, chữ
mẫu phải đúng chuẩn, ngòi bút chì phải gọn nét, bút mực phải trơn không gai,
nét viết không quá thanh hoặc quá đậm, mực xuống đều, dễ viết.
- Số lượng vở: Vở viết luôn đủ dùng cho từng học sinh ở mỗi giai đoạn
như: Ở học kỳ I các em có vở Tập viết Tập một, sang học kì II có vở Tập viết
tập hai.
Giải pháp thứ 2: Cách sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn dạy Tập
Viết:
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu trong quá trình dạy học. Trong
quá trình dạy học, học sinh nhận thức nội dung bài học dưới sự tổ chức dẫn dắt
của giáo viên có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. Tư duy của học sinh lớp 1
chủ yếu từ trực quan cụ thể đến lô gic trừu tượng. Đồ dùng dạy - học trong môn
dạy Tập viết lớp 1 là: Bảng con, phấn trắng, giẻ lau, vở Tập viết, vở thực hành
luyện viết của học sinh và bảng phụ có kẻ ô li viết sẵn chữ mẫu của giáo viên,
chữ mẫu trong khung chữ của bộ chữ dạy Tập viết của giáo viên, hoặc chữ mẫu
trong các bài giảng điện tử mà giáo viên đã cài đặt. Việc sử dụng tốt các đồ dùng
dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng dễ hiểu, giáo viên
không phải nói nhiều gây căng thẳng, nhàm chán trong giờ học.
Để giúp học sinh có kĩ năng, kĩ xảo sử dụng đồ dùng học tập đúng cách
và thành thạo đạt hiệu quả cao trong giờ Tập viết tôi thường hướng dẫn học sinh
thực hiện theo yêu cầu của giáo viên.
a/ Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết bảng con:
- Bảng con phải luôn luôn được lau sạch sẽ bằng khăn lau sạch.
- Học sinh viết bảng con: Yêu cầu ngồi viết đúng tư thế, cầm và điều
khiển phấn đúng cách, giơ bảng và xoá bảng theo các lệnh của giáo viên:

Lệnh 1: Giáo viên gõ một tiếng thước yêu cầu học sinh viết chữ ghi âm, vần
hoặc chữ ghi tiếng, chữ ghi từ vào bảng con.
Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh giơ bảng
ngay ngắn.
Lệnh 3: Giáo viên gõ tiếng thước thứ ba học sinh bỏ bảng xuống.
Lệnh4: Giáo viên gõ tiếng thước thứ tư học sinh đọc và xoá bảng.
4


b/ Cách sử dụng đồ dùng dạy - học khi viết vở Tập viết hay Luyện viết:
- Vở Tập viết, Luyện viết lớp 1 cần bọc bìa, dán nhãn vở, giữ gìn sạch sẽ,
không để quăn mép, hoặc giây bẩn. Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay
ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao
cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 .
- Bút chì dùng ở 8 tuần đầu lớp 1 cần được gọt cho cẩn thận đầu chì
không quá nhọn hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ.
Khi viết vở tôi hướng dẫn học sinh thưc hiện theo các lệnh sau:
Lệnh 1: Giáo viên gõ tiếng thước thứ nhất và yêu cầu học sinh đặt bút vào
điểm có dấu chấm trong vở viết một dòng chữ ghi âm hoặc chữ ghi tiếng.
Lệnh 2: Giáo viên gõ tiếng thước thứ hai yêu cầu học sinh đặt bút vào điểm có
dấu chấm viết một dòng chữ ghi tiếng hoặc từ.
Lệnh 3, lệnh 4,.. tương tự như vậy cho đến hết bài.
Giải pháp thứ 3: Học sinh cần thực hiện tốt nề nếp học tập, tư thế ngồi viết,
cách cầm bút, để vở và cách trình bày bài viết:
a/ Một số quy định về nề nếp học tập:
Tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được một số các kí hiệu mà tôi đã quy
định và ghi kí hiệu này lên góc trái phía trên bảng để các em thực hiện trong các
giờ học như sau:
- Kí hiệu ngồi đúng tư thế học tập và trật tự khi giáo viên chỉ vào trong
hình:

- Kí hiệu lấy bảng khi giáo viên chỉ vào trong hình, cất bảng khi giáo viên
chỉ ra ngoài hình:
- Kí hiệu V: vở ( mở vở khi giáo viên chỉ vào kí hiệu )
- Kí hiệu ngồi giãn khoảng cách khi giáo viên chỉ vào hình:
- Kí hiệu ngồi thẳng lưng khi giáo viên chỉ vào hình:
Việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các kí hiệu trên nhằm mục đích
đảm bảo tính kỉ luật, trật tự trong lớp học, giúp học sinh tập trung chú ý vào các
hoạt động học tập tránh gây mất trật tự và lộn xộn trong giờ học nhất là khi thao
tác sử dụng đồ dùng học tập.
b/Tư thế ngồi viết:
Để học sinh có thể tránh được một số bệnh học đường trong trường học
như: bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị… thì giáo viên phải luyện cho học
sinh có được một tư thế ngồi viết thật đúng, thật thoải mái. Muốn vậy, người
giáo viên phải có tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt trước. Ngay từ những tiết
học đầu tiên tôi đã làm mẫu kết hợp giải thích, hướng dẫn rất tỉ mỉ về từng động
tác tư thế ngồi học để các em hiểu và làm theo như sau:
- Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn.
- Đầu hơi cúi, mắt cách vở 25-30cm.
- Tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép vở để giữ.
- Hai vai ngang bằng.
- Hai chân để song song vuông góc với mặt đất, thoải mái.
Học sinh mới vào lớp 1 chưa có khái niệm về đơn vị đo độ dài nên chưa
thể tự ước lượng được khoảng cách từ 25cm - 30cm nên tôi cho học sinh chống
5


cùi chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để ước
lượng khoảng cách mặt với vở và luôn giữ ở vị trí cố định như vậy khi viết, em
nào quên có thể tự ước lượng lại được.
c/Cách cầm bút:

- Cầm bút bằng ba đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa.
- Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang phải, cán bút
nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động mềm mại, thoải mái.
- Không nên cầm bút tay trái.
Tôi cũng làm mẫu và hướng dẫn tỉ mỉ cách cầm bút: Ngón cái và ngón trỏ
đặt ở phía trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ đầu bút cách đầu bút khoảng 1 đốt
ngón tay. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi, bút đặt nghiêng so với giấy khoảng
. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng
. Khi viết đưa bút từ trái qua phải, từ
trên xuống dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải nhẹ tay.
d/Cách để vở, xê dịch vở khi viết:
Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ
nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với
mép bàn tạo thành một góc khoảng

. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng

với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông
như vậy dù viết theo kiểu chữ
đứng hay chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về
cách để vở). Khi viết xuống những dòng dưới, các em tự đẩy vở lên trên để cánh
tay luôn tì lên mặt bàn làm điểm tựa khi viết.
Trước lúc viết tôi thường cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi học, cách cầm
bút để vở để học sinh thực hiện theo đúng quy định. Trong quá trình học sinh
viết rất hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó tôi lại phải kiên nhẫn chỉnh
sửa cho từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần ngồi đúng, cầm
bút đúng.
Giải pháp thứ tư: Giáo viên cần nắm chắc kiến thức, viết đúng mẫu chữ quy
định để dạy học sinh.
Việc nắm chắc các mẫu chữ hiện hành theo chuẩn của Bộ Giáo dục và

Đào tạo và việc viết tốt mẫu chữ quy định là một yêu cầu cần thiết không thể
thiếu được đối với người giáo viên Tiểu học. Đây chính là một tiêu chí mà mọi
giáo viên phải đặt ra và thực hiện. Có nắm chắc các mẫu chữ thì giáo viên mới
viết đúng và đẹp theo chuẩn được từ đó mới hướng được dẫn học sinh viết đúng
và đẹp. Chữ mẫu của giáo viên được coi như “khuôn vàng, thước ngọc”, chuẩn
mực để học sinh noi theo. Lứa tuổi của các em là lứa tuổi hay “bắt chước” và
làm theo mẫu. Giáo viên viết như thế nào thì học sinh viết như thế. Đặc biệt là
học sinh lớp 1. Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang
viết mẫu mực của mình để học sinh học tập. Do vậy tôi thường xuyên phải tự
luyện chữ sao cho đúng và đẹp. Mỗi năm học tôi đều có vở tập viết của mình
viết sẵn, vừa để luyện chữ vừa thuận tiện cho việc hướng dẫn và làm mẫu cho
học sinh tập viết. Tôi còn sưu tầm những bài viết, vở viết sạch đẹp của học sinh
những năm học trước để giới thiệu cho học sinh học tập.
6


Việc viết mẫu của giáo viên là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp
học sinh nắm bắt được quy trình từng nét của chữ cái. Do vậy khi viết mẫu cho
học sinh tôi viết chậm lại đủ để cho học sinh quan sát, vừa viết vừa kết hợp nhịp
nhàng với giảng giải, phân tích: Đặt bút từ điểm nào, rê bút như thế nào, đưa bút
vào vị trí nào, thứ tự các nét viết ra sao, dừng bút ở điểm nào? Tôi phân tích cả
cách viết dấu phụ, dấu thanh để học sinh dễ dàng nhận biết được cách viết. Tôi
hướng dẫn cả về khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng (bằng một con chữ o ) để
học sinh không viết sát quá hoặc cách xa quá. Đồng thời tư thế đứng viết của
giáo viên cũng phải hợp lý để học sinh quan sát được tay của cô khi viết và theo
dõi được cả quy trình viết chữ. Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp lời nói của
giáo viên phải nhẹ nhàng, gần gũi, chuẩn mực và dễ hiểu, tránh dùng các khái
niệm khó hiểu hoặc cách nói mơ hồ không rõ ràng, nên dùng đúng các thuật ngữ
cách gọi khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi vần, chữ ghi
tiếng, chữ ghi từ... Hướng dẫn tỉ mỉ cách viết từng con chữ, nét nối chính xác

theo đúng quy định cho học sinh. Không nên nói nôm, nói ngọng, nói lộn xộn
hoặc nói quá nhiều gây căng thẳng khó hiểu cho học sinh.
Giải pháp thứ 5: Dạy cho học sinh có kỹ thuật viết đúng, viết đẹp:
a/ Dạy học sinh viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản:
Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh nắm được các thuật ngữ dòng
kẻ:“Dòng kẻ ngang 1, ngang 2, ngang 3; ngang 4, ngang 5. Ô li 1, ô li 2…ô li 5.
Đường kẻ ngang trên, ngang dưới của một ô li. Dòng kẻ dọc 1, dòng kẻ dọc 2,
… dòng kẻ dọc 5”trong vở ô li, Vở Tập viết, trên bảng con, bảng lớp. Tiếp theo
tôi hướng dẫn cho học sinh nắm chắc và viết tốt các nét cơ bản của chữ. Nắm
được tên gọi và cấu tạo của từng nét cơ bản bao gồm: Nét ngang, nét sổ, nét xiên
trái, nét xiên phải, nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu (là kết hợp của
nét móc xuôi và nét móc ngược), nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong
khép kín, nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt . Việc nắm chắc cách viết,
viết đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản sẽ nắm được cấu tạo của từng chữ
cái giúp cho việc nối các nét thành chữ cái sẽ dễ dàng hơn. Sau đó tôi dạy học
sinh cách xác định toạ độ của điểm đặt bút và điểm dừng bút phải dựa trên
khung chữ làm chuẩn. Hướng dẫn học sinh hiểu điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi
viết một nét trong một chữ cái hay một chữ. Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của
nét chữ đa số điểm kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Riêng đối với
con chữ o vì là nét cong tròn khép kín nên điểm đặt bút trùng với điểm dừng bút.
Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét tôi nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc các
em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật.
b/ Dạy cách rê bút: Là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo
đường nét viết trước hoặc tạo ra việt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. ( Từ
rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của giấy,
do vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách)
c/ Dạy cách lia bút: Là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt bút
khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa nhanh
sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.


7


Trong quá trình hướng dẫn học sinh về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ thuật
nối chữ, viết liền mạch người giáo viên cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ trên cho
chính xác.
+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ m tôi hướng dẫn như sau:
- Nét 1: Đặt bút giữa đường kẻ 2 ( ĐK 2) và đường kẻ 3 ( ĐK 3), viết nét móc
xuôi trái chạm ĐK3, dừng bút ở ĐK 1.
- Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc xuôi
thứ hai có độ rộng bằng một ô li rưỡi; dừng bút ở ĐK 1.
- Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét
móc hai đầu ( độ rộng bằng nét 2); dừng bút ở ĐK2.
d/Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm chữ:
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái,
để học sinh viết đúng kĩ thuật, viết đẹp, nắm chắc mẫu chữ. Tôi chia chữ viết
thành các nhóm và xác định trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ gồm những
nét nào, những nét chữ nào học sinh hay viết sai, học sinh gặp khó khăn gì khi
viết các nhóm chữ đó để khắc phục nhược điểm giúp học sinh viết đúng và đẹp
mẫu chữ trong trường Tiểu học cỡ vừa như sau:
- Nhóm 1: Gồm các chữ: m, n, u, ư, i, t, v,r, p.
Các lỗi học sinh hay mắc : Viết chưa đúng nét nối giữa các nét, nét móc
thường hay bị đổ nghiêng, nét hất lên thường bị choãi chân ra không đúng.
Cách khắc phục : Tôi cho học sinh luyện viết nét sổ có độ cao 2 ô li, sau đó
mới viết nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu có độ cao 2 ô li thật
đúng, thật thẳng. Khi học sinh viết thành thạo các nét đó, tôi mới cho học sinh
ghép các nét thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý điểm đặt bút, điểm dừng
bút, độ cao, độ rộng của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp.
- Nhóm 2: Gồm các chữ: b, l, h, k, y.
Các lỗi học sinh hay mắc: Học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét,

chữ viết còn cong vẹo.
Cách khắc phục: Trước tiên tôi cho học sinh viết nét sổ có độ cao 5 ô li
một cách ngay ngắn, thành thạo để rèn tư thế cầm bút chắc chắn cho học sinh,
sau đó tôi dạy học sinh viết nét khuyết trên có độ cao 5 ô li, độ rộng trong lòng 1
ô li. Để giúp học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết, tôi hướng
dẫn học sinh đặt một dấu chấm nhỏ vào sát đường kẻ dọc, trên dòng kẻ ngang 2
của li thứ tư và rèn cho học sinh luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm rồi
mới đưa bút lên tiếp viết nét khuyết trên có độ rộng bằng 1 li. Tương tự như vậy
tôi dạy học sinh viết nét khuyết dưới có độ cao 5 ô li, độ rộng 1 ô li.
- Khi dạy viết chữ h, tôi hướng dẫn Viết nét khuyết trên trước, từ điểm dừng bút
của nét khuyết trên ở ĐK ngang 1 rê bút viết tiếp nét móc hai đầu có độ cao 2 li,
độ rộng 1 li dừng bút ở ĐK ngang 2. Tương tự như vậy với các chữ còn lại.
- Nhóm 3: Gồm các chữ: o, ô, ơ,a, ă, â, c, x, d, đ, q, g, e, ê, s.
Các lỗi học sinh hay mắc: viết chữ o chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp,
nét chữ không tròn đều đầu to, đầu bé, chữ o méo. Hầu hết các em viết chữ o
xấu.
Cách khắc phục: Để viết được đúng và đẹp nhóm chữ này thì cần phải
8


viết chữ o đúng và đẹp tròn theo quy định. Tôi cho học sinh chấm 4 điểm vuông
góc đều nhau như điểm giữa 4 cạnh của hình chữ nhật và từ điểm đặt bút của
con chữ o viết một nét cong tròn đều đi qua 4 chấm thì sẽ được chữ o tròn đều
và đẹp. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh ghép với các nét cơ bản khác để tạo thành
chữ.
- Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét phải nhấn mạnh hơn chỗ nét nối,
nhất là chỗ rê bút, từ điểm dừng bút của con chữ vừa viết, rê bút lên viết liền
mạch đến đâu mới được nhấc bút. Ở phần đầu học chữ ghi âm, học sinh đã được
hướng dẫn rất kĩ về độ cao, độ rộng của từng nét chữ, con chữ. Khi dạy sang
phần vần tuy không cần hướng dẫn quy trình viết từng chữ song tôi vẫn thường

xuyên cho học sinh nhắc lại độ cao các chữ cái, những chữ cái nào có độ cao
bằng nhau, nét nối giữa các chữ cái trong một chữ ghi tiếng, khoảng cách giữa
các chữ ghi tiếng ( bằng một con chữ o).
Khi hướng dẫn học sinh viết chữ nét thanh, nét đậm, tôi vừa viết mẫu vừa
nói rõ quy trình viết (viết như quy trình), chỉ khác bằng một mẹo nhỏ để học
sinh dễ làm theo: Chú ý viết các nét rê lên đưa nhẹ tay hơn một chút tạo nét
thanh bé, nét kéo xuống theo chiều đầu ngòi bút tạo nét đậm hơn nét thanh một
chút. Đối với bút mực học sinh cần viết úp ngòi xuống, cổ tay, cánh tay để
vuông góc. Với học sinh trung bình, yếu tôi chỉ yêu cầu các em viết đúng cỡ
chữ, thẳng hàng, ngay ngắn, đều nét, liền mạch. Đối với học sinh khá giỏi, tôi
yêu cầu ở mức độ cao hơn các em viết được chữ nét thanh, nét đậm. Nét chữ có
độ mịn, mượt, không sần sùi. Chữ viết thẳng đứng, các nét chữ song song với
nhau, đều nét, liền mạch, ngay ngắn và sạch đẹp.
Khi dạy học sinh cỡ chữ nhỏ tôi cũng thường xuyên luyện theo cách đó giúp
các em nhớ lâu và viết đều nét, liền mạch, đúng độ cao, độ rộng các chữ cái.
Giải pháp thứ 6: Khắc sâu những lỗi học sinh thường gặp khó khăn.
- Giáo viên cần nhấn mạnh chỗ ghi dấu thanh với vần, từng loại vần. Cái
khó với học sinh là không biết ghi dấu thanh ở vị trí nào nhất là những chữ có từ
2 đến 3 chữ cái trở lên. Khi dạy mỗi vần mới, cuối cùng tôi đều cho học sinh
nhận xét chốt lại những chữ ghi vần đó thì viết dấu thanh ở chữ cái ghi âm gì.
Đặc biệt ở bài ôn tập mỗi loại vần tôi đều khắc sâu vị trí ghi dấu thanh. Với chữ
có dấu phụ là dấu mũ như ô, ơ, ê, thì thanh sắc, huyền, hỏi phải ghi ở bên phải
dấu mũ còn thanh ngã thì ghi ở giữa, phía trên của dấu mũ, các dấu thanh phải
ngay ngắn, cân đối nằm đúng dòng li quy định và không được chạm vào chữ cái
hay dấu phụ.
- Trong quá trình chấm chữa bài tôi chữa những lỗi học sinh sai phổ biến
nhất, hướng dẫn kỹ lại cách viết của chữ đó để học sinh khắc sâu cách viết một
lần nữa. Cho cả lớp xem bài viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ những học
sinh có chữ viết tiến bộ.
- Khi chấm bài tôi không chỉ chú ý đến việc chữa lỗi cho học sinh mà còn

kết hợp nhận xét, chỉ bảo, khích lệ, động viên để học sinh tự tin vào bản thân khi
viết bài và nhận ra những lỗi sai cần khắc phục.
- Những nét chữ sai tôi nhận xét thật rõ và sau đó tôi viêt mẫu cho các em sửa
lại những chữ các em đã viết sai để về nhà các em tập viết theo mẫu đó cho
đúng và đẹp.
9


Giải pháp thứ 7: Dạy phân môn Tập viết phải được kết hợp song song và
đồng bộ với các môn học khác.
Để học sinh viết đúng và đẹp thì phải tiến hành song song và đồng bộ việc
dạy - học phân môn Tập viết với các môn học khác. Học sinh không chỉ viết
đúng và đẹp ở vở Tập viết mà cần phải viết đẹp ở tất cả các loại vở. Muốn viết
đẹp và thành thạo thì cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn viết đúng, không
sai, không mắc lỗi thì cần phải đọc đúng, đọc hiểu. Vì vậy trong quá trình dạy
học cần phải rèn cho học sinh không những viết thạo mà còn phải đọc thông. Để
làm được điều này khi dạy các giờ Tập viết, Học vần, Tập đọc, Chính tả tôi luôn
chú ý hướng dẫn học sinh phát âm đúng, phân biệt và sửa ngọng cho những học
sinh đọc còn ngọng. Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng những từ ngữ địa phương
hoặc những tiếng, những từ ngữ khó có âm đầu hay nhầm lẫn như : l/n, x/s,
tr/ch, r/d...
Tôi chú trọng hướng dẫn cách phát âm l/n như sau:
- Cánh phát âm n: Thẳng lưỡi, đầu lưỡi chạm lợi dưới, hơi thoát ra ngoài qua cả
mũi và miệng.
- Cánh phát âm l: Đầu lưỡi cong lên, chạm lợi trên hơi thoát ra ngoài qua 2 bên
rìa, xát nhẹ.
Mặt khác tôi chú ý dạy học sinh nắm chắc cách kết hợp giữa âm và vần như:
+ Chữ ghi âm k thường kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng
sau).
Ví dụ: ki, ke, kê,…

+ Chữ ghi âm k thường kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng
trước như: kiến, kền, kèn,…
+ Chữ ghi âm gh chỉ kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng sau)
Ví dụ: ghi, ghê, ghe.
+ Chữ ghi âm gh chỉ kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng trước.
Ví dụ: ghềnh,…
+ Chữ ghi âm ngh chỉ kết hợp được với các chữ ghi âm: e, ê, i, (đứng
sau) Ví dụ: nghi, nghề, nghe,…
+ Chữ ghi âm ngh chỉ kết hợp được với các vần có âm: e, i, ê đứng trước.
Ví dụ: nghiền, nghênh,…
+ Chữ ghi âm g hoặc ng chỉ kết hợp được với các âm hoặc vần có âm: o,
ô, ơ, u, ư, a, ă, â đứng trước.
Ví dụ: ga, gô, go,.. nga, ngo, ngô,…
+Chữ ghi âm c không kết hợp được với âm e, i, ê mà chỉ kết hợp được
với các âm hoặc vần có âm: o, a, ô, ơ, u, ư, â, ă đứng trước.
Ngoài ra tôi còn giải nghĩa từ, giúp học sinh đọc đúng, hiểu đúng. Khi
học sinh viết bài tôi chú ý quan sát và sửa lỗi cho các em, chỉ ra các lỗi sai mà
học sinh hay mắc giúp các em tự sửa lỗi.
Giải pháp thứ 8: Lập kế hoạch bài học và phương pháp dạy học cụ thể cho
mỗi tiết học Tập viết và mỗi phần luyện tập.
Lập kế hoạch bài học là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học.
Việc lập kế hoạch bài học giúp người giáo viên có kiến thức rõ ràng về việc dạy
cái gì và dạy vào lúc nào, dạy như thế nào và học sinh cần học ra sao. Làm cho
10


người giáo viên tự tin hơn và thấy mình đã chuẩn bị đúng hướng. Lập kế hoạch
bài học cho phép người giáo viên tập trung suy nghĩ về những vấn đề chủ yếu
trước khi lên lớp, ứng phó kịp thời và đúng đắn trước những tình huống có thể
xảy ra. Đòi hỏi người giáo viên suy nghĩ về đăc trưng môn học, về mục tiêu bài

học, về đặc điểm học sinh, về phương pháp dạy học và đánh giá.
Để lập tốt kế hoạch bài học trong phân môn Tập viết người giáo viên cần
nắm chắc nội dung, chương trình, phương pháp dạy học và quy trình dạy học.
Thấy được điểm khác nhau giữa cách dạy học sinh tập viết trong trong tiết học
vần và trong giờ Tập viết. Soạn tốt giáo án bài dạy một cách cụ thể rõ ràng. Ở
lớp 1, yêu cầu dạy Tập viết được tiến hành trong cả bài dạy Học vần và trong
tiết Tập viết. Phần hướng dẫn học sinh tập viết chữ thường cỡ vừa và nhỏ; tô
chữ hoa cỡ vừa; viết các từ ngữ, các chữ số đã học ( từ 0 đến 9), được tiến hành
trong bài dạy Học vần, tập viết, được thực hiện qua 2 bước: viết trên bảng con
(sau khi học đọc chữ ghi âm, tiếng, từ mới) và viết trong vở Tập viết 1 (sau khi
luyện đọc từ ngữ, câu ứng dụng ). Tiết Tập viết trong tuần chủ yếu dành cho học
sinh thực hành luyện viết ứng dụng từ ngữ đã học trong bài học vần hoặc tô chữ
viết hoa, luyện viết, củng cố vần, từ ngữ ứng dụng ở phần Luyện tập tổng hợp.
a/ Quy trình dạy Tập viết trong tiết học vần:
- Hướng dẫn học sinh viết bảng con:
- Giới thiệu mẫu chữ viết ( theo bìa mẫu chữ Dạy Tập viết – TBDH tối
thiểu do Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp): Giáo viên chỉ vào chữ mẫu, nêu rõ
đặc điểm, cấu tạo, cách viết.
- Giáo viên viết mẫu ( trên bảng phụ hoặc bảng lớp).
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi âm (vần) vào bảng con.
- Hướng dẫn học sinh viết chữ ghi tiếng, từ mới.
+ Hướng dẫn học sinh viết trong vở Tập viết
1. a/ Quy trình dạy Tập viết trong tiết Tập viết:
A/ Kiểm tra bài cũ
- Học sinh lần lượt viết bảng ( bảng lớp, bảng con) 2 từ ngữ đã học ở tiết
trước.
B/ Dạy bài mới
1.Giới thiệu bài
2.Hướng dẫn học tô chữ hoa
- Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét chữ hoa:

+ Học sinh quan sát chữ hoa trên bảng phụ và trong vở Tập viết.
+ Giáo viên nhận xét số lượng nét và kiểu nét của chữ mẫu.
+ Giáo viên nêu quy trình viết và hướng dẫn viết (vừa nói vừa tô chữ
trong khung chữ)
- Học sinh tập tô 1-2 chữ hoa cho mỗi chữ trong vở Tập viết.
3/ Hướng dẫn viết vần, từ ngữ ứng dụng
- Học sinh đọc các vần, từ ngữ ứng dụng.
- Học sinh quan sát các vần và từ ngữ ứng dụng viết mẫu trên bảng phụ và
trong vở Tập viết 1, tập hai.
- Giáo viên lưu ý độ cao, nét nối giữa các con chữ, khoảng cách giữa các
chữ.
11


- Học sinh tập viết trên bảng con.
*Lưu ý: Hướng dẫn viết vần và từ ngữ ứng dụng phần Luyện tập tổng hợp
mang tính chất luyện tập, thực hành, giáo viên không nên mất thời gian hướng
dẫn lại về cách viết các nét của từng vần, từng con chữ. Nếu cần, chỉ hướng dẫn
riêng đối với học sinh yếu kém.
4/ Hướng dẫn học sinh viết trong vở Tập viết
- Học sinh tập tô chữ hoa; tập viết các vần; các từ ngữ theo mẫu chữ
trong vở Tập viết.
- Tuỳ theo điều kiện thời gian và trình độ viết của học sinh trong lớp, giáo
viên yêu cầu học sinh viết khoảng 1/2 hoặc 2/3 số chữ, số dòng ở vở Tập viết.
- Giáo viên quan sát, hướng dẫn cho từng em biết cách cầm bút đúng,
có tư thế ngồi đúng; hướng dẫn các em sửa lỗi trong bài viết.
- Giáo viên chấm chữa 5- 6 bài cho học sinh. Sau đó nêu nhận xét để cả
lớp rút kinh nghiệm.
C/ Củng cố, dặn dò:
- Giáo viên nhận xét chung về tiết học, khen những học sinh viết đẹp.Với

mỗi giờ dạy Tập viết, tôi đều thực hiện đầy đủ các bước. Hướng dẫn học sinh
quan sát, nhận xét; giáo viên viết mẫu; học sinh tập viết bảng con, bảng lớp;
hướng dẫn học sinh viết vào vở đến bước chấm bài và chữa bài.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành luyện viết tôi luôn quan tâm theo dõi
hoạt động viết chữ của học sinh để kịp thời nhắc nhở và uốn nắn, giúp đỡ để học
sinh viết đúng hoặc biểu dương những học sinh viết đẹp; giúp học sinh thấy rõ
thành công hay hạn chế trong bài tập viết của các em. Trong quá trình dạy viết,
tôi còn để học sinh tự nhận xét chữ viết, tự sửa chữa cho nhau khi cần thiết.
Những em viết yếu, ngoài sự kèm cặp của cô giáo còn được sự giúp đỡ của các
bạn trong nhóm, trong lớp.
Tốc độ viết cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chữ viết. Thời gian
đầu tôi cho các em viết chậm. Khi viết đẹp tôi mới cho tăng dần tốc độ viết, tạo
cho các em thói quen khi viết song mỗi chữ, mỗi từ, phải nhẩm lại kiểm tra độ
chính xác.
Giải pháp thứ 9: Tổ chức các trò chơi và phong trào thi đua “ Giữ vở sạch Viết chữ đẹp”.
- Tổ chức phong trào thi viết chữ đẹp: Giáo viên thường xuyên tổ chức
phong trào thi viết chữ đẹp cho học sinh. Cứ mỗi tháng một lần, giáo viên tổ
chức cho các em thi viết chữ đẹp. Có tuyên dương, khen thưởng học sinh viết
chữ đẹp và trưng bày bài có nét chữ đẹp trên tường lớp để học sinh học hỏi lẫn
nhau, nhẹ nhàng uốn nắn học sinh viết chữ chưa đẹp
- Để việc dạy - học phân môn Tập viết thành công phải có sự hướng dẫn tỉ
mỉ, từng li, từng tí của giáo viên. Mặt khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa
tuổi học sinh. Không nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ
gây mỏi tay và chán.Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần tôi thường dành
khoảng 10 phút để tổng kết đánh giá việc rèn chữ viết đẹp, giữ vở sạch của học
sinh và tuyên dương những em có tiến bộ. Ngoài việc phát động phong trào thi
đua tôi còn giới thiệu các bài viết đẹp, các trang viết đẹp của học sinh trong buổi
họp cha mẹ học sinh để cha mẹ các em cùng thi đua rèn luyện cho con em mình.
12



2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên vào việc rèn kĩ năng viết
chữ cho học sinh tại lớp 1A là lớp do tôi làm chủ nhiệm. Tôi đã tiến hành kiểm
tra học sinh trên hai lớp 1A và lớp 1B là lớp đối chứng do cô Đặng Thị Tuyết
Mai làm chủ nhiệm.
Bài Tập viết: Tô chữ hoa A, Ă, Â, B ( tuần 25, trang 22,23 tập hai )
- Tập tô: A, Ă, Â, B ( Mỗi chữ một dòng)
- Tập viết: ai, ay, ao, au (Mỗi vần một dòng cỡ vừa).
- Tập viết: mái trường, điều hay, sao sáng, mai sau (Mỗi từ ngữ một dòng cỡ
nhỏ).
Sau khi chấm điểm tôi thu được kết quả sau:
Lớp Số học Viết đúng mẫu, Viết chưa đúng
Viết chưa đúng
sinh
viết đẹp
mẫu, viết đạt
mẫu, chưa đạt
SL
%
SL
%
SL
%
1A
30
10
33.3%
15

50%
5
16.7%
1B
30
7
23.3%
13
43.4%
10
33.3%
Từ kết quả hai bảng số liệu( trước và sau khi áp dụng) và bài viết của học
sinh tôi thấy:
Lần đầu, khi chưa áp dụng biệp pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà tôi
đưa ra thì lớp thực nghiệm chỉ có 10 em viết đúng mẫu, viết đẹp, 15 em viết
chưa đúng mẫu, viết đạt. Trong quá trình viết các em hay mắc lỗi sai về tư thế
ngồi viết, cách cầm bút, để vở. Một số em chữ viết còn tẩy xoá nhiều, vở còn bị
quăn góc, các chữ còn sai nhiều về độ cao, độ rộng, khoảng cách, các nét nối,
điểm đặt bút, điểm dừng bút chưa đúng nên chất lượng chữ viết cũng như chất
lượng vở sạch còn thấp.
Lần thứ hai, sau khi áp dụng biện pháp nâng cao chất lượng chữ viết mà
tôi đưa ra vào dạy Tập viết ở lớp 1A do tôi chủ nhiệm, tôi thấy kết quả có nhiều
chuyển biến. Các bài viết đúng mẫu, viết đẹp tăng lên đáng kể số bài viết chưa
đúng mẫu, chưa đạt giảm. Đa số các em ngồi viết đúng tư thế, cầm bút đúng
cách và viết đúng kĩ thuật. Viết cẩn thận, nắn nót đã thành thói quen của học
sinh. Một số em khi mới vào học đến giờ Tập viết rất ngại nhưng từ khi các em
nắm được kĩ thuật viết chữ đúng các em hồ hởi và phấn khởi, tâm lí vui vẻ thoải
mái hơn khi học môn Tập viết.
Từ kết quả của hai lớp 1A( thực nghiệm), 1B ( đối chứng) tôi thấy kết quả
bài viết lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Từ kết quả trên đã khẳng định

biện pháp rèn chữ viết cho học sinh mà tôi đề xuất là phù hợp và có hiệu quả.
Không những các em viết đẹp, viết đúng mà các em còn có tư thế ngồi viết
đúng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
*. Kết luận:
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, tôi thấy việc rèn luyện kỹ năng viết
đúng, viết đẹp cho học sinh Tiểu học nói chung và rèn kỹ năng viết đúng, viết
đẹp cho học sinh lớp 1 nói riêng là rất cần thiết. Việc áp dụng các phương pháp,
13


biện pháp khéo léo, linh hoạt giúp cho giờ học Tập viết diễn ra một cách nhẹ
nhàng, học sinh hứng thú say mê học tập từ đó nâng cao chất lượng về chữ viết.
Để đạt hiệu quả cao trong việc rèn chữ viết cho học sinh thì người giáo
viên cần nghiên cứu kỹ các mẫu chữ viết trong trường Tiểu học, nghiên cứu kỹ
nội dung bài dạy trong các bài Tập viết, nắm vững mục đích yêu cầu của từng
bài để lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy sao cho phù hợp với đối
tượng học sinh đảm bảo yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Đồng
thời cần tạo điều kiện cho mỗi cá nhân học sinh bộc lộ và phát triển khả năng,
năng khiếu của mình.
Từ kết quả trên đã cho thấy những biện pháp mà tôi đưa ra là thiết thực,
hiệu quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy không có biện pháp nào là vạn năng cả mà
điều quan trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn, vận dụng các biện pháp
linh hoạt hài hoà, hợp lí thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả cao.
*. Kiến nghị:
- Nâng cao chất lượng vở tập viết: giấy quá mỏng, học sinh viết bị nhòe.
- Vở tập viết nên in trên giấy vở ô li để học sinh viết chuẩn hơn (hiện nay
vở tập viết chỉ có dòng kẻ ngang)
- Hiện nay có “vở ô li có mẫu chữ” rất phù hợp với yêu cầu rèn chữ viết
cho học sinh nên đưa vào chương trình rèn chữ viết cho học sinh.

- Nên có qui định thời gian để học sinh sử dụng viết mực đồng loạt
Tập viết là một phân môn khó, đăc biệt khi hướng dẫn học sinh luyện
viết, không phải học sinh nào cũng viết đẹp, viết đúng, viết thạo được ngay mà
nó phải trải qua nhiều công đoạn từ khâu chuẩn bị đồ dùng đến tư thế ngồi viết,
cách cầm bút, để vở và kĩ thuật viết cùng với lòng say mê, kiên trì và nhẫn nại
của người viết thì chữ viết mới đúng, đều và đẹp. Điều đó đòi hỏi mỗi học sinh
phải dày công luyện tập phải trang bị cho mình một đức tính kiên trì, nhẫn nại, tỉ
mỉ và cẩn thận không nôn nóng trong khi luyện viết. Phải hết sức bình tĩnh, thả
lỏng tâm hồn, cơ bắp trong khi viết thì mới mang lại hiệu quả cao. Chính vì vậy
mà trong quá trình thực hiện tôi còn gặp một số khó khăn như: sự bình tĩnh
trong khi viết, thói quen viết nắn nót, say mê, cẩn thận đúng tốc độ ở một số học
sinh còn hạn chế do chưa có sự kiên trì, bình tĩnh trong khi luyện tập. Để có thói
quen đó cần có sự bình tĩnh, kiên trì nhẫn nại trong khi luyện viết. Do vậy kết
quả bài viết của một số em chưa đạt được như mong muốn.
Sáng kiến kinh nghiệm “ Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” là một đề tài
rất rộng cho nên những nghiên cứu mà tôi đưa ra ít nhiều vẫn còn hạn chế không
tránh khỏi những thiếu sót .Trên đây là một số biện pháp nhỏ mà bản thân tôi đã
rút ra trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy ở lớp mình. Kính mong lãnh đạo
các cấp, phòng GD&ĐT Hà Trung, Ban giám hiệu trường Tiểu học Hà Thái,
cùng các đồng nghiệp góp ý, bổ sung để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Lời cam đoan: “ Đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác”.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Thái, ngày 09 tháng 5 năm 2016
Người viết
14


Vũ Thị Oanh


15



×