Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận luật quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.25 KB, 20 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

TIỂU LUẬN
Môn
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ MỚI CỦA LUẬT QUỐC TẾ

Đề tài:
VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG DUY TRÌ
HÒA BÌNH VÀ AN NINH QUỐC TẾ

HỌ VÀ TÊN

: HOÀNG THU HUYỀN

MÃ HỌC VIÊN

:

KHOA

: SAU ĐẠI HỌC

NGÀNH

: TỘI PHẠM HỌC VÀ PNTP

Hà Nội – 2020



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................1
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC LIÊN HỢP
QUỐC...........................................................................2
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Liên hợp quốc. 2
1.2. . Vai trò của Liên hợp
quốc.........................................................................5
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC DUY
TRÌ HÒA BÌNH VÀ AN NINH QUỐC TẾ..............................8
2.1. Thực tiễn trong việc duy trì hòa bình và an ninh
quốc tế........................................................................8
2.2. Một số kiến
nghị..............................................................................
............11
KẾT LUẬN...................................................................15
DANH MỤC THAM
KHẢO............................................................................
16




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐHĐ

: Đại hội đồng

ECOSOC : Hội đồng kinh tế - xã hội
HĐQT


: Hội đồng quản thác

HĐBA

: Hội đồng bảo an

ICJ

: Tòa án công lý quốc tế

LHQ

: Liên hợp quốc

MDGs

: Mục tiêu thiên niên kỷ

NAM

: Phong trào không liên kết


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử loài người, hòa bình luôn là nguyện vọng tha thiết và chính
đáng của quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất và thứ hai đã gây ra quá nhiều mất mát cho nhân loại. Để tránh lặp lại một
cuộc chiến thế giới mới đồng thời đẩy lùi chiến tranh cục bộ và xung đột vũ trang
cũng như mâu thuẫn quốc gia, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa cực đoan
hồi giáo đang xảy ra hàng ngày, đe dọa nghiêm trọng đến nền hòa bình và an ninh

thế giới, các quốc gia phải phát huy khả năng tối đa của chính mình đồng thời
không ngừng thúc đẩy sự hợp tác với nhau không chỉ trong khu vực mà trên phạm
vi toàn cầu để cùng với liên hợp quốc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.Việc
này không thể thiếu vai trò của Liên hợp quốc, từ ngày thành lập LHQ đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong các vấn đề xóa đói giảm nghèo, phát triển
quyền con người, đẩy mạnh giao lưu kinh tế, thương mại, hỗ trợ nhân đạo.
Song cái mà chúng ta ghi nhận sâu sắc nhất trong suốt 3/4 thế kỷ hoạt
động của LHQ, đó là vai trò của tổ chức này trong việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế. Đây cũng là nhân tố thúc đẩy sự hình thành của LHQ và trở thành
mục đích, tôn chỉ hàng đầu cho những nỗ lực trong quá khứ, hiện tại và cả
tương lai của tổ chức đa phương lớn nhất thế giới. Với vai trò là một tổ chức
quốc tế liên chính phủ lớn nhất hiện nay, là sân chơi chung cho các quốc gia ưa
chuộng hòa bình Liên hợp quốc mang lại những lợi ích chưa từng có cho các
quốc gia, nhất là những quốc gia có quy mô nhỏ và trung bình, trong đó có Việt
Nam nhưng đồng thời cũng là thách thức và khó khăn cho tổ chức trong việc
giải quyết về môi trường, về khủng bố, về đói nghèo, về biến đổi khí hậu, về
tranh chấp biển đảo, về bình đẳng giới...v..v.. cần liên hợp quốc phải thể hiện
hơn nữa vai trò của mình trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế để phù
hợp với mục đích trở thành tổ chức quốc tế phổ cập lớn nhất toàn cầu. Với ong
muốn và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của liên hợ quốc, vì vậy

1


tác giả đã chọn đề tài: “vai trò của Liên hợp quốc trong việc giữ gìn hòa bình
và an ninh thế giới” để là đề tài cho tiểu luận của mình.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC LIÊN HỢP
QUỐC.

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Liên Hợp Quốc.
1.1.1. Quá trình hình thành.
Việc LHQ ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu
tố khác nhau, như vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ gìn
hoà bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng
những hậu quả thảm khốc đối với loài người . Với nỗ lực lớn lao của các
nước,LHQ chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương LHQ được
Trung quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa kỳ và đa số
các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi "LHQ" đã được Tổng thống Mỹ
Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên
ngôn của LHQ" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết
tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít. Trước đó là sự thất
bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của LHQ) đã đặt ra yêu cầu phải thiết lập một
thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy trì hoà bình và an ninh
quốc tế. Hội Quốc Liên trở thành một thể chế cứng nhắc, không thể hiện được
chức năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn các
hoạt động bành trướng quyền lực của một số cường quốc. Với ý định chuẩn bị
cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thế
giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc tế sau chiến
tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh - Anh, Mỹ và Liên Xô - đã tiến
hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Teheran (tháng 11/1943) và Yalta
(tháng 2/1945). Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức LHQ tại Hội nghị Yalta
mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng một trật
tự thế giới mới sau chiến tranh.

2


Đến Hội nghị Postdan từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (chủ yếu là
Mỹ và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thỏa thuận thành lập cơ chế để giải quyết

các vând đề sua chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và xác
định lại biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ,
Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thỏa thuận tại Hội nghị
Yalta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị San Francisco tháng 4/1945
và dự thảo Hiến chương LHQ. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức LHQ đã chính
thức được thành lập với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Sự ra đời của
LHQ đã chấm hoàn toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu
Âu dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở
LHQ là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề giữa ba
cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên thường trực HĐBA (còn gọi là P5),
tập hợp các nước phương Tây/phát triển, tập hợp các nước Á–Phi–Mỹ Latinh/đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt.
1.1.2. Mục đích hoạt động của Liên hợp quốc:
Liên hợp quốc được thành lập nhằm mục đích:
- Duy trì hòa bình và an ninh thế giới và để đạt được mục đích đó, thi
hành các biện pháp tập thể có hiệu quả để phòng ngừa và loại trừ mối đe dọa
hòa bình, cấm mọi hành vi xâm lược hoặc phá hoại hòa bình khác, điều chỉnh
hoặc giải quyết bằng phương pháp hòa bình các tranh chấp quốc tế theo đúng
các nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế. Phát triển những quan hệ hữu
nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, các dân tộc tự
quyết và dùng tất cả những biện pháp thích hợp khác để củng cố hòa bình thế
giới.
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và nhân đạo trong việc khuyến khích phát triển
và sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người,
không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
- Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc nhằm đạt
được những mục đích nêu trên.

3



1.1.3. Nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc:
Liên hợp quốc hoạt động theo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền của tất cả các nước thành viên.
- Nguyên tắc các nước thành viên Liên hợp quốc phải làm tròn những
nghĩa vụ mà họ đã cam kết theo Hiến chương.
- Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình,
sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh và công lý.
- Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Nguyên tắc các nước thành viên Liên hợp quốc phải giúp đỡ đầy đủ Liên
hợp quốc trong mọi hành động của Liên hợp quốc theo đúng các điều quy định
của Hiến chương này và không được giúp đỡ bất kỳ một nước nào bị Liên hợp
quốc áp dụng một hành động phòng ngừa hoặc cưỡng chế.
- Nguyên tắc đảm bảo để các nước không phải là thành viên Liên hợp
quốc cũng hành động theo các nguyên tắc này vì nó cần thiết để duy trì hòa bình
và an ninh thế giới.
- Nguyên tắc không cho phép Liên hợp quốc can thiệp vào công việc thực
chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia nào.
1.1.4. Thành viên của Liên hợp quốc
Liên hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của
tất cả các quốc gia thành viên. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định muốn
trở thành thành viên của Liên hợp quốc thì các quốc gia phải thỏa mãn các tiêu
chuẩn sau: thứ nhất phải là quốc gia yêu chuộng hòa bình (peace-loving states)
và thừa nhận những nghĩa vụ ghi trong Hiến chương; thứ hai, phải được Liên
hợp quốc xét có đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những nghĩa vụ đó. Hiến
chương còn quy định việc kết nạp bất kỳ một quốc gia nào vào Liên hợp quốc sẽ
được tiến hành bằng nghị quyết của Đại hội đồng, theo đề nghị của Hội đồng
bảo an.(quy định tại Điều 4 Hiến chương Liên hợp quốc).
Đến nay đã có 197 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, gồm tất cả
các quốc gia độc lập được công nhận trên toàn thế giới. Bên cạnh đó còn có 2

quan sát viên của LHQ là: Vatican và Palestine. Và 2 trường hợp đặc biệt: Đài

4


Loan, Kosovo. Liên hợp quốc sử dụng 06 tiếng ngôn ngữ chính thức: Tiếng Ả
Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung.
1.1.5. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc.
Việt Nam chính thức gia nhập LHQ ngày 20/9/1977. Kể từ khi gia nhập
LHQ, quan hệ của Việt Nam với Liên hợp quốc ngày càng được cải thiện và
phát triển tốt hơn. Ngay khi gia nhập LHQ Việt Nam đã được sự đồng tình và
ủng hộ của các nước thành viên để Đại hội đồng LHQ khóa 32 viện trợ, giúp đỡ
Việt Nam tái thiết sau chiến tranh. Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối
hợp với các nước không liên kết và đang phát triển để đấu tranh và vảo vệ các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ như không can thiệp vào công việc
nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa dùng vũ lực... Mặt khác chúng ta
cũng tranh thủ sự giúp đỡ của LHQ để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước. Sự tham gia đóng góp và vị thế của Việt Nam tại LHQ được
từng bước cải thiện. Lần đầu tiên, ta đã tham gia vào ột số chức vụ của LHQ
như Phó chủ tịch Đại hội đồng LHQ năm 1997, thành viên Ủy ban Nhân quyền
(2001-2003), đặc biệt trong kỳ họp thứ 62 Việt Nam đã được bầu vào cương vị
thành viên không thường trực HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009. Đến tháng 5/2006,
Tổng thư ký LHQ Cô-phi Annan tới thăm Việt Nam. Có thể nói, vị thế và vai trò
của ta tại LHQ càng ngày càng được đánh giá cao. Đây cũng là dịp để chúng ta
nhình nhận vai trò của LHQ trong thế giới ngày nay nhất là việc giữ gìn hòa
bình an ninh thế giới. Tại Hội nghị cấp cao năm 2005 kỷ niệ 60 nă ngày thnàh
lập LHQ các quốc gia trong đó có VIệt NA đã khẳng định rõ vai trò quan trọng
của LHQ, coi tổ chức toàn cầu này là nền tảng không thể thiết cho một thế giới
hòa bình, thịnh vượng và công bằng hơn.
1.2. Vai trò của Liên hợp quốc.

1.1.2. Khái niệm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Theo quy định của Hiến chương LHQ, nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an
ninh quốc tế được đảm bảo thực hiện thông qua Đại hội đồng và HĐBA.
Khái niệm về hòa bình là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không
dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân

5


tộc, các nhóm chính trị xã hội, hòa bình là mối quan hệ hiểu biế, tôn trọng,
bình đẳng và hợp tác giữa các quốc gia dân tộc, giữa con người với con
người, là khát vọng của toàn nhân loại.
Khái niệm an ninh quốc gia là một tiến trình lâu dài và thực tế cuối cùng
sẽ dấn đến hòa bình và giải trừ quân bị bằng cách thay đổi tư duy đã gây ra một
cuộc chạy đua vũ giữa hai siêu cường quốc, ngăn cản kiểm soát vũ khí và giải
trừ quân bị được xem như là gây ra xung đột ở mức cao. An ninh tập thể cần 3
điều kiện tiên quyết để hình thành và hoạt động hiệu quả: Không một quốc gia
nào quá mạnh đến mức một liên hiệp các quốc gia khác không thể tập hợp lực
lượng đủ mạnh để chống lại được quốc gia đó. Tất cả các cường quốc phải có
chung quan điể cơ bản về một trật tự quốc tế ổn định và được chấp nhận; một hệ
thống an ninh tập thể không thể hoạt động hiệu quả khi một cường quốc muốn
đảo lộn trật tự quốc tế đã được xác lập vì lý do hệ tư tưởng hay liên quan đến
quyền lực. Các cường quốc phải có ột sự đoàn kết và tính cộng đồng đạo đức tối
thiểu; những người đưa ra quyết định phải có tầ nhìn chung về hệ thống qốc tế
và tin rằng cần có những nỗ lực nhằm “bảo vệ và thúc đẩy đoàn kết chính trị” để
biến tầm nhìn đó thành hiện thực.
Khái niệm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế: gìn giữ hòa bình là việc
“sử dụng các lực lượng do nhiều quốc gia đóng góp để đạt nhiều mục đích khác
nhau. Quan sát giới tuyến ngừng bắn và giadm sát ngừng bắn, cách ly các lực
lượng xung đột, thúc đẩy thực hiện pháp luật và trật tự, cung cấp hỗ trợ, giúp đỡ

nhân đạo”. Đây là biên pháp giá sát hiệp định đình chiến giữa các bên, trong khi
các nhà ngoại giao cố gắng thương lượng giải quyết hòa bình toàn diện hoặc các
quan chức đang nỗ lực thực hiện giải quyết hòa bình đã thỏa thuận.
1.2.2. Vai trò của tổ chức liên hợp quốc trong việc
duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế lớn nhất hiện nay. Với 197 thành viên
LHQ là tổ chức trung tâm trong các hoạt động hợp tác của các quốc gia trên toàn
thế giới. Điều này làm cho LHQ có vai trò rất lớn trong việc duy trì hòa bình an

6


ninh thế giới và được thể hiện rất rõ qua Hiến chương Liên hợp quốc, các hoạt
động của Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên hợp quốc.
Qua những mục đích của Liên hợp quốc là giữ gìn hòa bình và an ninh
quốc tế; phát triển những quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng, dân tộc tự quyết; thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế như kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo...; trở thành
trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc.
Có thể thấy ngay ở mục đích và tôn chỉ của LHQ là sự duy trì hòa bình và
an ninh thế giới. Vấn đề này xuyên suốt Hiến Chương Liên hợp quốc cũng như
thể hiện rõ ràng trong các hoạt động của Hội đồng bảo an và Tổng thue ký LHQ.
Giữ gình hòa bình và an ninh thế giới thông qua Hiến chương LHQ. Hiến
chương Liên hợ quốc là điều ước quốc tế phổ cập có vai trò quan trọng nahát,
đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ tống luật quốc tế nói chung, cho việc giữ gìn
hòa bình và an ninh quốc tế nói riêng.
Ngay tại lời mở đầu Hiến chương đã khẳng định ục đích của LHQ là duy
trì hòa bình và an ninh thế giới. Để thực hiện việc duy trì và hòa bình an ninh thế
giới, Hiến chương đã quy định rõ các nguyên tắc để đảm bảo việc giữ gìn hòa
bình và an ninh thế giới. Đơn cử như tại Khoản 3, Điều 2 của Hiến chương quy

định tất cả các thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện
pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế và
công lý; LHQ sẽ đảm bảo rằng các quốc gia không phải là Thành viên cũng
hành động theo những nguyên tắc này, nếu như điều đó là cần thiết để duy trì
hòa bình và an ninh thế giới....
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan LHQ trong việc duy trì hòa bình
và an ninh quốc tế được quy định cụ thể trong Hiến chương LHQ (Chương
IV: ĐHĐ; Chương V: HĐBA). Đây là vấn đề hết sức quan trọng, có ảnh
hưởng lớn đến sự bình ổn của thế giới. Các cuộc tranh chấp kéo dài rất dễ dẫn
đến chiến tranh, đe dọa hòa bình và an ninh thế giới. Vì vậy, việc giải quyết
các tranh chấp theo con đường hòa bình thực sự cần thiết. Tại Điều 33 Hiến
chương quy định “Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà kéo dài

7


các cuộc tranh chấp ấy....bằng các biện pháp hpà bình khác tùy theo sự lựa
chọn của mình”. Việc tiến hành hòa bình giải quyết các tranh chấp trong một
số trường hợp còn có sự can thiệp của các cơ quan LHQ nếu thấy cần thiêt, để
ngăn chặn mọi nguy cơ đe dọa hòa bình thế giới.
Hiến chương cũng có quy định tới trường hợp khi hòa bình thế giới bị phá
hoại hoặc có sự xâm lược tại Chương VII Hiến chương thì cần thiết phải ngăn
chặn không cho sự phá hoại nghiêm trọng thêm và phải khôi phục lại hoà bình
an ninh thế giới. Ở phần này, Hiến chương quy định khá rõ thẩm quyền, chức
năng cũng như nhiệm vụ của HĐBA trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc
tế. Đặc biệt, Hiến chương không có bất cứ quy định nào cản trở sự tồn tại của tổ
chức khu vực và ghi nhận vai trò của các tổ chức trong việc giữ gìn hòa bình và
an ninh quốc tế, đồng thời khuyến khích các tổ chức khu vực phát triển hơn nữa
việc hòa bình giải quyết các tranh chấp có tính chất khu vực.
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC DUY TRÌ

HÒA BÌNH VÀ AN NINH QUỐC TẾ
2.1. Thực tiễn trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ sở toàn diện cho hòa bình,
các quốc gia thành viên đề ra mục đích hàng đầu của LHQ là duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế, đồng thời xác định những mục đích quan trịng khác cho các
hoạt động của LHQ là tăng cường quan hệ hữa nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy
hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa nhân đạo và
bảo đảm quyền con người. Từ khi thành lập đến nay LHQ đã tham gia nhiều
nhiệm vụ khác nhau trên thế giới, các lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ đã
đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần chấ dứt nhiều cuộc xung đột tại hàng
chục quốc gia trên thế giới (Capuchia, EnXanvađo, Goatêmala, Môdămbích,
Namibia...) và đóng gói quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị, tạo ra sự
chuyển biến tích cực tại nhiều quốc gia khác như: Xiêra Lêôn, Burunđi,
Libêria.... Lực lượng giữ gìn hòa bình LHQ, hay còn gọi là lính “mũ nồi xanh”,
đã khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong việc đem lại hòa bình tại
nhiều điểm nóng trên thế giới. Hơn 100 quốc gia đã phái binh sĩ của mình phục

8


vụ trong hàng ngũ “mũ nồi xanh” phải giải quyết các vấn đề phức tạp và đa
diện, từ giám sát việc tuân thủ lệnh ngừng bắn, đến tổ chức bầu cử, cải cách hệ
thống cảnh sát và tư pháp, bảo vệ nhân quyền, tiến hành rà phá bom mìn, đảm
bảo cung cấp viện trợ nhân đạo và được trao giải Nobel hòa bình năm 1988.
Hoạt động chống khủng bố quốc tế ngày càng phức tạp và nghiêm trọng,
nó đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và
an ninh quốc tế. Nhận thức được điều đó, LHQ đã có nỗ lực rất lớn để bước đầu
xây dựng các khuôn khổ pháp lý quốc tế, thúc đẩy các hình thức hợp tác giữa
các quốc gia, trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho các quốc gia trong cuộc đấu tranh
chống khủng bố. Cụ thể HĐBA Liên hợp quốc đã thông qua một số nghị quyết

liên quan đến chống khủng bố quốc tế trong đó có nghị quyết 1267 năm 1999 về
việc trừng phạt và cấm vận đối với Osama Bin Lađen, tổ chức Taliban và mạng
lưới khủng bố Al Qaeda. Các biện pháp hòa bình này nhằm mục đích làm ổn
định tình hình trong khu vực xung đột, tạo ra những điều kiện thuận lợi để giải
quyết xung đột một cách hòa bình cũng như duy trì hòa bình. ĐHĐ Liên hợp
quốc đã thông qua các nghị quyết (từ số 2072 đến số 2229) kêu gọi phi thực dân
hóa lãnh thổ Tây Xahara và dành quyền tự quyết dân tộc cho lãnh thổ này thông
qua trưng cầu dân ý, hay nghị quyết số 715 năm 1992 đây là bước tiến trong
việc phối hợp hoạt động của các lực lượng giữ gìn hòa bình với các cơ quan
chuyên môn của LHQ, các tổ chức phi chính phủ.
Hoạt động gìn giữ hòa bình xen lẫn cưỡng chế, HĐBA đã giao nhiệm vụ
cưỡng chế hòa bình cho lực lượng khu vực hoặc lực lượng đa quốc gia do một
nước đứng đầu, theo thời hạn do HĐBA xác định như Pháp chỉ huy ở Ruanđa,
Cốt Đivoa; Nga lãnh đạo ở Grudia, Ôxtrâylia đảm nhiệ ở Đông Timo... Hoạt
động gìn giữ hòa bình tại Đông Timo là một trong những hoạt động gìn giữ hòa
bình tại Đông Nam Á kể từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh. Ngoài ra, LHQ còn
tiến hành một số chiến dịch giữ gìn hòa bình được bổ trợ bằng hành động cưỡng
chế như ở Nam Tư, Haiiti, Xômali... Qua những chiến dịch này đã góp phần
ngăn chặn, hạn chế hậu quả của cuộc nội chiến giữa các cộng đồng tôn giáo, sắc

9


tộc, cùng các hoạt động cứu trợ nhân đạo... góp phần mở rộng vai trò của LHQ
trong quá trình giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới.
Dựa trên các biện pháp an ninh quốc tế và an ninh quốc gia năm 1993, đối
phó với sự “thanh lọc sắc tộc” tại Nam Tư cũ và nạn diệt chủng năm 1994,
HĐBA Liên hợp quốc đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ và
Rwanda. Việc phán xử tại hai tòa án đó đã thiết lập nên cơ sở xác định hành vi
tội phạm cưỡng bức trong những cuộc xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.

Đến nă 1998 ĐHĐ đã thành lập Tòa án Tội phạ Quốc tế (ICC), tại đây “Quy chế
Roma” được thông qua và đi vào hoạt động năm 2002, tiến hành phiên xử đầu
tiên năm 2006. Đây là tòa án quốc tế thường trực đầu tiên chịu trach nhiệ xét xử
những người bị cho là phạm các tội ác nghiêm trọng theo luật pháp quốc tế gồm
cả tội ác chiến tranh và diệt chủng. Lệnh trừng phạt của LHQ đối với Itacq,
Libi.... đã góp phần vào việc chấm dứt các cuộc xung đột vũ trang. Sau sự kiện
11/9/2009 vụ tấn công khủng bố nhằ vào Mỹ đã đe dọa đến an ninh quốc tế.
LHQ đã ra nhiều nghị quyết lên án hành động khủng bố và đóng góp một vai trò
quan trọng thúc đẩy các quốc gia trong trường hợp tác chống khủng bố.
Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong suốt thời gian qua cho thấy Thực
tế hoạt động của LHQ trong hơn 70 năm qua cho thấy, bên cạnh những thành
tựu đạt được như đã nêu trên, bức tranh về hoà bình, an ninh thế giới mà LHQ
đóng vai trò chính vẫn còn những “mảng mầu ảm đạm”, gây lo ngại chung cho
cộng đồng quốc tế như thất bại trong việc ngăn chặn vụ Diệt chủng tai Rwanda
năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một triệu người, vì các thành viên của HĐBA
từ chối thông qua bất kỳ một hành động quân sự nào. Thất bại trong việc can
thiệp vào Cuộc thảm sát Srebrenica năm 1995. Thất bại trong việc cung cấp thực
phẩm tới những người dân đói khát tại Somalia; thực phẩm thường bị các lãnh
chúa địa phương chiếm đoạt. Một nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc bắt giữ các vị
lãnh chúa đó đã dẫn tới Trận Mogadishu năm 1993. Liên hiệp quốc cũng bị cáo
buộc đã cố tình làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của nhiều người trên khắp
thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi.

10


Những ví dụ hiện tại gồm việc Liên hiệp quốc không hành động gì trước
chính phủ Sudan tại Darfur, việc thanh lọc sắc tộc của chính phủ Trung Quốc tại
Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine. Chương trình đổi dầu lấy
lương thực được Liên hiệp quốc đưa ra năm 1995. Trước tiên, hoạt động của các

cơ quan của LHQ chưa đảm bảo sự cân bằng trong việc đưa ra quyết sách liên
quan tới hoà bình và an ninh thế giới. Sự lạm quyền của HĐBA có lẽ cũng xuất
phát từ Hiến chương của LHQ còn tồn tại một số điểm bất cập trước những lời
cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và tham những. Hiện nay, những
thách thức mới của tình hình thế giới đòi hỏi Liên hiệp quốc phải điều chỉnh, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng gìn giữ hòa bình trên các khâu,
các mặt, như chuẩn hóa các quy trình hoạt động; cơ chế đóng góp tài chính, nhân
lực; đặc biệt là ngăn chặn tình trạng lạm dụng danh nghĩa Liên hiệp quốc trong
các hoạt động can thiệp, phối hợp với các tổ chức khu vực để thực hiện sứ mệnh
gìn giữ hòa bình…; trong đó, việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc đóng vai trò quan trọng nhất.
2.2. Một số kiến nghị.
2.2.1. Cải cách cơ cấu và hoạt động của Liên hiệp quốc: Trước những thay
đổi sâu sắc của tình hình thế giới, ngày càng có nhiều yêu cầu Liên hiệp quốc phải
thay đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp và hiệu quả hơn.
Về vấn đề hòa bình và an ninh, Phó Tổng thư ký phụ trách các hoạt động gìn giữ
hòa bình của Liên hợp quốc Alain Le Roy mới đây công bố kế hoạch hoạt động
gìn giữ hòa bình, có tên là "Những chân trời mới" nêu rõ, nhu cầu gìn giữ hòa
bình tăng mạnh, nhu cầu phải bảo vệ thường dân và nhiệm vụ kiến tạo hòa bình.
Một vấn đề cấp bách nhưng cũng rất khó khăn trong việc cải cách Liên hợp quốc
là cải tổ HĐBA hiện gồm năm thành viên thường trực có quyền phủ quyết và 10
thành viên không thường trực, đề xuất mở rộng Hội đồng bảo an gồm thiết lập
một cơ chế thành viên không thường trực mới với nhiệm kỳ dài hơn từ ba đến 15
năm, thúc đẩy nhanh tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDG), cải tổ Liên hiệp quốc và thúc đẩy phát triển bền vững thân thiện với môi
trường. Xong, thế giới cần tiếp tục thu hẹp khoảng cách giữa các nước trong cuộc

11



chiến chống đói nghèo, tỷ lệ tử vong của trẻ em và sức khỏe các bà mẹ. Những
hành động của Liên hợp quốc cần phải có tính pháp lý rộng rãi và là kết quả của
các tiến trình toàn diện, cần cải thiện các cơ chế thông tin, tư vấn, và hợp tác giữa
Liên hiệp quốc và các nhà hành động khác cũng như các công cụ chi phối toàn
cầu. Các nước thành viên Liên hiệp quốc cũng phải đảm bảo có hành động quyết
định để cải tổ nội bộ Liên hiệp quốc, trong đó cải tổ Hội đồng bảo an đóng vai trò
quan trọng. Nâng cao nhận thức về sự cần thiết các cơ cấu kinh tế tôn trọng hơn
đối với môi trường và các thế hệ tương lai. Quá trình cải tổ Hội đồng bảo an cần
được tiến hành với mục đích xây dựng một “Hội đồng bảo an có tính đại diện
cao hơn, dân chủ, hiệu quả và minh bạch, khắc phục được những nhược điểm
trong hoạt động của cơ quan này”. Để đạt được mục tiêu trên, việc cải tổ Hội
đồng bảo an cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau: Ưu tiến những nước đóng
góp nhiều nhất đối với Liên hiệp quốc trên các mặt tài chính, quân sự và ngoại
giao; mở rộng sự tham gia của các nước đang phát triển để tăng thêm tính đại diện
của Hội đồng bảo an; không được làm tổn hại đến hiệu quả của Hội đồng bảo an
và cuối cùng là phải làm cho Hội đồng bảo an dân chủ hơn, trách nhiệm hơn. Cải
tổ Hội đồng bảo an sẽ là vấn đề gai góc nhất.
2.2.2. Những vấn đề chính trong quá trình cải tổ. Mở rộng thành viên
HĐBA để thích ứng vớ một thế giới mới là yêu cầu thực tế khách quan. Cải tổ
quyền phủ quyết (veto) Quyền phủ quyết được coi là công cụ quan trọng nhất
của các nước thành viên thường trực trong việc thực hiện duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế. Quyền này đồng thời cũng được thừa nhận như một công cụ để
bảo vệ quyền lợi của các nước lớn. Tuy nhiên, việc sử dụng quyền phủ quyết
hiện tại không thật sự đáp ứng được những mong muốn của Liên hiệp quốc, có
phần bị lạm dụng và tỏ ra không phù hợp với nguyên tắc công bằng. Quyền phủ
quyết các thành viên thường trực Hội đồng bảo an cần có sự thay đổi theo hướng
giảm tính tuyệt đối: Để bác bỏ một quyết định cần có phiếu phủ quyết của từ hai
đến ba thành viên thường trực thay vì một phiếu duy nhất như hiện nay. Cải cách
này cũng đảm bảo tăng cường tính dân chủ trong hoạt động của Hội đồng bảo
an. Cải tổ phương thức làm việc: Yêu cầu của dân chủ hóa và minh bạch hoạt


12


động của HĐBA. Bên cạnh việc mở rộng cơ cấu thành viên, yếu tố trọng yếu để
có thể thích ứng với tình hình hiện nay là làm cho Hội đồng bảo an mang tính
hiệu quả, công khai, minh bạch hơn, nhất là về phương thức làm việc. Hội đồng
bảo an nên tăng cường những hình thức họp công khai với sự tham gia đông đảo
của các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, tăng cường những hình thức họp
cho phép các bên liên quan và các bên quan tâm đến vấn đề mà HĐBA giải
quyết được nêu ý kiến và tham gia tranh luận. Biện pháp này có tác dụng gia
tăng áp lực đối với các ủy viên Hội đồng bảo an, hạn chế việc họ lợi dụng hoạt
động của Hội đồng vì lợi ích cá nhân của mình. Song song với đó là giảm bớt
các phiên họp kín, với thành phần hạn chế. Cải tổ mối quan hệ giữa Hội đồng
bảo an với các cơ quan khác của Liên hiệp quốc. Hiện nay, Hội đồng bảo an
được giao thẩm quyền rất lớn, quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đời
sống kinh tế nhưng trách nhiệm của nó lại không tương xứng với quyền lực
được trao. Rất khó để có thể truy cứu trách nhiệm của ủy viên Hội đồng bảo an,
nhất là các ủy viên thường trực khi họ đưa ra những quyết định sai trái hay các
giải pháp không hiệu quả. Cần phải có cơ chế kiềm tỏa và chế ước quyền lực
dường như vô hạn này. Chẳng hạn như cơ chế cho phép Đại hội đồng xem xét
lại các nghị quyết và quyết định của Hội đồng bảo an trong một số trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng, cho phép Đại hội đồng đánh giá hiệu quả hoạt động và có
những biện pháp đòi hỏi Hội đồng bảo an phải có những động thái tích cực hơn
về một số tình huống và tranh chấp cụ thể. Bên cạnh đó cần nâng cao vai trò của
Ban Thư ký, đặc biệt là Tổng thư ký và Tòa án công lý đối với hoạt động của
HĐBA, cần tổ chức nhiều hơn các cuộc họp báo và các cuộc họp công khai.
Xem xét những cách thức để thu hút sự trợ giúp từ Ban thư ký, nhóm làm việc,
các chuyên gia, các nhà hoạt động chính sách và các tổ chức phi chính phủ. Tư
vấn thường xuyên và kịp thời các quốc gia thành viên và cả các quốc gia không

là thành viên HĐBA, coi đó như là thủ tục hoạt động chính thức của Hội đồng
bảo an. Những quyết định cần sự thực hiện của tất cả các thành viên thì Hội
đồng bảo an phải xem xét ý kiến của tất cả các thành viên và đảm bảo rằng đó là
ý kiến và nguyên vọng của họ, có tính đến khả năng thực hiện quyết định được

13


tính đến trong quá trình ra quyết định. Chương trình và kết quả các cuộc họp cần
công bố kịp thời và công khai hơn nữa, các báo cảo của Hội đồng bảo an cũng
cần có nhiều phân tích và luận giải cho cơ sở của các quyết định, nhất là trong
trường hợp sử dụng quyền phủ quyết. Cần thiết có một đạo luật về quyền phủ
quyết quy định cụ thể trong những trường hợp nào được dùng quyền phủ quyết,
trường hợp nào không sử dụng quyền phủ quyết để hành động. Đồng thời, đạo
luật này còn xác định trách nhiệm pháp lý đối với các thành viên HĐBA khi
không thực hiện quyền phủ quyết hay lạm dụng quyền phủ quyết vì lợi ích của
quốc gia mình. Đây được coi là biện pháp nâng cao giá trị sử dụng và hiệu quả
hành động của quyền phủ quyết, đề xuất cải tổ và tăng cường quyền hạn cho
một số cơ quan chức năng, trong đó có Ủy ban củng cố hòa bình và Hội đồng
nhân quyền nhằm thúc đẩy nhân quyền và nhà nước pháp quyền tại Châu Phi,
trong đó có việc hỗ trợ tổ chức bầu cử, củng cố các thể chế dân chủ
3.3.5. Cải tổ Ban thư ký Tại khoá 51 Đại hội đồng Liên hiệp quốc 1997,
Tổng thư ký đã trình bày một chương trình cải tổ Liên hiệp quốc trong đó có
Ban thư ký. Theo báo cáo của Tổng thư ký Liên hiệp quốc tại khoá 53 Đại hội
đồng (1998), những việc chính sau về cải tổ Liên hiệp quốc đã được thực hiện:
Lập chức Phó Tổng thư ký Liên hiệp quốc; Ban thư ký đã được sắp xếp lại
thông qua sáp nhập hoặc giải thể một số đơn vị: củng cố Vụ kinh tế - xã hội
bằng cách sáp nhập 3 ban riêng trước đây; định hướng lại Vụ thông tin, đơn giản
hoá hệ thống hỗ trợ kỹ thuật...; Giảm gần 1000 biên chế của Ban thư ký vào
tháng 1/1998, biên chế hiện nay còn hơn 9000 nhân viên. Cắt giảm 123 triệu

đôla ngân sách 1998-1999. Giảm 1/3 chi phí hành chính và chuyển số tiền đó
sang các chương trình kinh tế, xã hội có ích cho các nước đang phát triển. Giảm
công văn giấy tờ 25%; Xây dựng bộ tiêu chuẩn về hành vi cho các nhân viên
Liên hiệp quốc. Năm 2013, Liên hiệp quốc đã ưu tiên hành động trong các lĩnh
vực như phát triển bền vững; hòa bình và an ninh, nhân quyền, hỗ trợ nhân đạo,
giải 140 trừ quân bị, công lý, sự phát triển của Châu Phi, kiểm soát ma túy, ngăn
chặn tội phạm và chiến đấu chống chủ nghĩa khủng bố. Trong các ưu tiên hành
động này, Tổng thư ký Liên hiệp quốc (Ban KiMoon) đã nhấn mạnh đến việc

14


phát triển bền vững, hỗ trợ các nước trong giai đoạn chuyển giao, xây dựng một
thế giới an toàn và trao quyền nhiều hơn cho phụ nữ cũng như thanh niên. Trên
đây là những đề xuất và đánh giá nhằm tăng cường vai trò của Liên hiệp quốc
trong việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới trong tình hình mới. Để có thể
thực hiện được mục đích cải tổ, cần phải có thời gian và nỗ lực chung của cộng
đồng quốc tế nói chung, các quốc gia thành viên nói riêng.

KẾT LUẬN
Các tổ chức đa phương, cũng giống như các tổ chức xã hội khác, đều tồn
tại và phát triển trong một môi trường đầy cạnh tranh. Như bất kỳ tổ chức nào,
Liên hiệp quốc luôn cần phải thích nghi với những thay đổi của thời đại, để có
thể tiếp tục hoàn thành sứ mệnh giữ gìn hòa bình, thúc đẩy hợp tác, hữu nghị
toàn cầu. Việc cải tổ Liên hiệp quốc là cần thiết, mang tính tổng thể, phải được
thực hiện trong khuôn khổ nhằm tăng cường quyền lực cho Đại hội đồng, cho
Hội đông bảo an, dựa trên sự minh bạch và các nguyên tắc dân chủ và được tiến
hành phù hợp với mục đích thực sự của Liên hiệp quốc là gìn giữ hòa bình và an
ninh quốc tế. Là một thành viên tích cực của Liên hiệp quốc, Việt Nam luôn xác
định rõ sự cần thiết tham gia các hoạt động của Liên hiệp quốc một cách tích

cực, trách nhiệm và hiệu quả, chủ động phối hợp các quốc gia thành viên khác
giải quyết các vấn đề toàn cầu vì hòa bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển.
Việt Nam đã tích cực ủng hộ quá trình cải tổ Liên hiệp quốc, Hội đồng bảo an
trên cơ sở Hiến chương Liên hiệp quốc, bảo đảm vai trò các nước đang phát
triển và quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã và đang tích cực
triển khai thực hiện có hiệu quả những cam kết đề ra tại Hội nghị cấp cao Thiên
niên kỷ, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các nước đang phát triển về thực hiện
Mục tiêu Thiên niên kỷ. Việt Nam đang ngày càng khẳng định là một thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế và trong tổ chức Liên hiệp quốc.
Trong phạm vi giới hạn của tiểu luận, cũng như khả năng nghiên cứu có
hạn, tác giả cố gắng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần vào việc cải tổ Liên
15


hiệp quốc, nhằm nâng cao vị thế và quyền uy của Liên hiệp quốc trong việc đảm
bảo hòa bình và an ninh quốc tế.

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Lê Văn Bính (2005), Luật điều ước quốc tế, NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2004), “Báo cáo tổng kết sau 5 năm thực
hiện Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế”, Hà Nội. 4.
3. Chính phủ (1999), Nghị định 161/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về ký kết và
thực hiện điều ước quốc tế năm 1998, Hà Nội. 5.
4. Nguyễn Bá Diến (2013), Giáo trình công pháp quốc tế, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 6.
5. Nguyễn Bá Diến (2005), Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7.
6. Nguyễn Bá Diến (2007), “Vấn đề phân định biển trong Luật biển

quốc tế hiện đại”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật,
T.XXIII, (số 1), Hà Nội. 8.
7. Đinh Quý Độ (2007), “Vấn đề cải tổ Liên hiệp quốc trong bối cảnh
quốc tế mới hiện nay”, Hà Nội. 9.
8. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Hồng Quân (2008), Liên hiệp quốc và
lực lượng giữ gìn hòa bình Liên hiệp quốc, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội. 10.
9. Chu Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Kim Ngân (2010), Giáo trình Luật
quốc tế, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Hồng Thao, Đỗ Minh Thái, Nguyễn
Thị Mai (2008), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16


11. Lê Văn Bính (2005), “Tìm hiểu chế định giải thích điều ước quốc
tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

17



×