Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tạo cảm xúc cho học sinh trong giờ dạy lịch sử việt nam ở trường phổ thông bằng hình tượng người anh hùng cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THCS&THPT THỐNG NHẤT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TẠO XÚC CẢM CHO HỌC SINH TRONG GIỜ DẠY
LỊCH SỬ
VIỆT NAM Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG BẰNG HÌNH
TƯỢNG
NGƯỜI ANH HÙNG CÁCH MẠNG

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Lịch sử

1


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.3. Các giải pháp
2.4. Hiệu quả


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
2
2
2
3
3
5
6
14
15
15
16
17

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Dưới thời đại Hồ Chí Minh, Người đặc biệt quan tâm đến việc “ Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của
Đảng ( 1991) đã xác định mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm “ nâng cao dân
trí, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động trí thức có tay nghề, có

năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [1, tr75]. Đến Đại hội lần VIII ( 1996)
khẳng định “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Đây là phương hướng quan
trọng đào tạo thế hệ trẻ, kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng đi theo con
đường mà Đảng và Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đấu tranh giành những thắng lợi
rực rỡ. Phương châm giáo dục của nước ta hiện nay: “ Thể lực, tâm lực và trí
lực” ( Con người Việt Nam có một thể lực cường tráng, tâm hồn trong sáng, trí
tuệ anh minh) đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại
hoá của đất nước. Cũng như các môn học khác trong trường phổ thông, môn lịch
sử cũng góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho học sinh-nhân
cách của con người Việt Nam thời hiện đại.
Việc dạy sử xưa nay vẫn thế đều với tinh thần “ ôn cố tri tân” ( lấy xưa
phục nay). Có ý nghĩa quan trọng vào việc giáo dục truyền thống, lòng tự hào và
trách nhiệm của người học đối với quê hương, Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay dất nước đang trong thời kì công nghiệp hoá – hiện đại hoá, hội nhập
quốc tế.
Như chúng ta đã biết Lịch sử là do con người sáng tạo ra. Vì vậy, không có
được lịch sử mà thiếu yếu tố con người. Mặt khác sự hoạt động của các nhân vật
lịch sử phản ánh mức độ nhất định lịch sử của một dân tộc, của quần chúng nhân
dân. Vì vậy, tài liệu về tiểu sử của nhân vật có tác dụng cụ thể hoá một số sự
kiện lịch sử. Hơn nữa lịch sử là tồn tại khách quan, là những sự việc, hiện tượng,
quan hệ, ...có thật, đã diễn ra, không thể “phán đoán” để tái hiện lịch sử. Để giúp
học sinh biết được hiện thực lịch sử, nhất thiết họ phải được thông tin về quá
khứ lịch sử với những nét cụ thể của nó. Muốn làm được điều đó, người dạy sử
không chỉ sử dụng các phương tiện, đồ dùng, tài liệu liên quan, phương pháp
dạy học phù hợp mà còn phải dùng lời nói sinh động để cung cấp cho học sinh
những sự việc cụ thể, có hình ảnh đủ để khôi phục lại bức tranh quá khứ đúng
như nó tồn tại.
Ưu thế của bộ môn lịch sử trong trường Phổ thông đó là giáo dục, tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ,... cho học sinh. Những con người, những

việc thực sự của quá khứ có sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ với thế
hệ trẻ. Chính những tấm gương anh dũng tuyệt vời của các chiến sĩ đấu tranh, hi
sinh cho độc lập tự do của Tổ Quốc đã có tác dụng nêu gương cho học sinh học
tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước, hình thành lòng yêu
nước ở các em.
Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử ở trường phổ thông, tôi nhận thấy
chương trình học còn rất “nặng”, chủ yếu bắt người học ghi nhớ muôn vàn sự
3


kiện khô cứng. Điều đó buộc học sinh phải ghi nhớ một cách “máy móc” các sự
kiện lịch sử. Làm cho học sinh cảm thấy “sợ” môn học và coi môn học là một
“môn khủng”, nên việc học trở nên gượng ép. Chất lượng môn học không được
như mong muốn, trở thành vấn đề nan giải của nghành giáo dục. Vậy tại sao
chúng ta không làm cho học sinh hiểu sử một cách sâu sắc, tạo ấn tượng, “khắc
cốt ghi tâm” cho các em. Với mong muốn đó nên tôi quyết định chọn đề tài:
“Tạo xúc cảm cho học sinh trong giờ dạy Lịch sử Việt Nam ở trường phổ
thông bằng hình tượng người anh hùng cách mạng” làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình. Tôi tin tưởng rằng kinh nghiệm nhỏ này của tôi sẽ giúp được
phần nào trong việc giảng bài toán khó của “ Làng sử” về việc dạy và học sử ở
trường phổ thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Tạo xúc cảm cho học sinh trong giờ dạy Lịch sử
Việt Nam ở trường phổ thông bằng hình tượng người anh hùng cách mạng”
góp phần giải quyết những khó khăn của môn lịch sử ở trường phổ thông trong
thời đại ngày nay, khi người học sử còn cảm thấy ngại học môn học này. Đưa ra
phương pháp hiệu quả gây hứng thú cho người học, giúp người học chủ động,
sáng tạo trong tiếp nhận kiến thức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Thông qua hình ảnh người anh hùng cách mạng nhằm tạo xúc cảm, hứng

thú học tập cho học sinh trong giờ học Lịch sử Việt Nam Lịch hiện đại trong
chương trình phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu, phân tích, đánh giá, thống kê, so sánh, nhận định, rút ra kết luận.

4


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ở mỗi bài học lịch sử đều cần phải khắc hoạ cho học sinh các nhân vật lịch
sử cụ thể, kể cả nhân vật chính diện lẫn phản diện. Lịch sử là do con người sáng
tạo ra. Vì vậy, không thể có được lịch sử mà thiếu đi yếu tố con người. Mặt khác
sự hoạt động của các nhân vật lịch sử phản ánh mức độ nhất định lịch sử của một
dân tộc, của quần chúng nhân dân. Vì vậy tài liệu về tiểu sử của nhân vật có tác
dụng cụ thể hoá một số sự kiện lịch sử.
“Việc sử dụng tài liệu và tiểu sử của nhân vật lịch sử được tiến hành
bằng nhiều cách. Đối với những bài mà kiến thức cơ bản mà gắn bó chặt chẽ với
một nhân vật lịch sử thì phải phác hoạ cho học sinh nhửng nét tiểu sử quan trọng
của nhân vật đó, giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung của bài” [1, tr57]. Có những
trường hợp không cần thiết phải trình bày toàn bộ tiểu sử của nhân vật mà chỉ cần
nêu đặc trưng, tính cách của nhân vật đó.
Cùng với tất cả các môn học khác, việc dạy học lịch sử góp phần giáo dục
thế hệ trẻ, theo mục tiêu đào tạo đã được xác định. Hiệu quả giảng dạy của môn
lịch sử tuỳ thuộc vào quan niệm, ở việc khai thác nội dung khoá trình và những
biện pháp sư phạm phù hợp.
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có khả năng giáo dục cho học sinh
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhân dân ta đã xây dựng những truyền thống
đẹp đẽ về lòng yêu nước, yêu thương đồng bào, trọng nhân nghĩa, quý lao động,
anh hùng, dũng cảm... Vì vậy cần giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống dân tộc,

tinh hoa nhân loại. Phải nắm vững kiến thức lịch sử và biết truyền thống đấu tranh
kiên cường của ông cha ta, từ đó xét rõ trách nhiệm trong cuộc sống hiện tại. Tuy
nhiên truyền thống dân tộc, nổi bật là truyền thống yêu nước. Đấy là sở trường,
ưu thế của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam trải qua mấy ngàn năm đều tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước. Trong hai nhiệm vụ ấy, nhân dân ta đều
biểu lộ lòng yêu nước thiết tha, hi sinh cho sự phồn thịnh và nền độc lập tự chủ
của Tổ Quốc. Bằng những sự kiện cụ thể, những cuộc đấu tranh liên tục, anh
dũng chống giặc ngoại xâm gíành độc lập. Giáo viên sẽ tạo cho học sinh những
biểu tượng cụ thể về những con người, những hoạt động yêu nước qua các thời
đại.
Những sự kiện cụ thể, những nhân vật lịch sử cụ thể trong khoá trình lịch
sử dân tộc làm cho học sinh thấy rõ rằng cuộc đấu tranh lâu dài và liên tục của
dân tộc ta để dựng nước và giữ nước. Chứng minh chúng ta có thể làm chủ đất
nước, ý thức dân tộc mạnh mẽ, ý thức đoàn kết chặt chẽ, ý thức về chủ quyền
quốc gia được hình thành rất sớm. Các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử đã chứng
minh lòng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của người Việt Nam từ ngàn
xưa, cao nhất để đánh giá người dân đối với Tổ Quốc mình. Đây là nét nổi bật của
con người Việt Nam truyền thống. Chân lí “không có gì quý hơn độc lập tự do”
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, khái quát cần được chứng minh bằng những
sự kiện cụ thể, những con người cụ thể.
5


Ngày nay đất nước đã hoàn toàn giải phóng, thống nhất, đi lên chủ
nghĩ xã hội, đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới, lòng yêu nước được thể hiện
ở việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Các khoá trình lịch sử ở trường phổ thông sẽ
giúp học sinh hiểu rằng nhân dân ta đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh kiên cường
mới có thắng lợi ngày nay. Và trách nhiệm của thế hệ trẻ là gìn giữ và phát huy
thành quả đã đạt được. Đó là biểu hiện cao của lòng yêu nước chân chính.

Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc “bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau”. Tại Đại Hội VIII (6-1996) khẳng định “Giáo Dục
là quốc sách hàng đầu”. Đây là phương hướng quan trọng chỉ đạo việc đào tạo thế
hệ trẻ, kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng đi theo đường mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đấu tranh giành những thắng lợi rực rỡ. Hiện nay,
phương trâm giáo dục của Việt Nam đó là đào tạo con người vừa “ thể lực, tâm
lực, trí lực” tạo nhân cách của con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập của đất nước.
Nhà trường Phổ thông chịu trách nhiệm quan trọng cùng với xã hội
hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy thế hệ trẻ, trong điều kiện hiện tại. Môn lịch sử
với chức năng nhiệm vụ của mình góp phần tích cực vào công việc này.
“Cảm xúc hay xúc cảm là một hình thức trải nghiệm cơ bản của con
người về thái độ của chính mình đối với sự vật, hiện tượng của hiện thực khách
quan, với người khác và với bản thân. Sự hình thành cảm xúc là một điều kiện tất
yếu của sự phát triển con người như là một nhân cách. Cảm xúc có nhiều loại:
cảm xúc đạo đức, cảm xúc thẩm mỹ, cảm xúc trí tuệ..”[10]. Một đặc trưng của
cảm xúc là có tính đối cực: yêu và ghét, ưa thích và không ưa thích, xúc động và
dửng dưng...Cảm xúc như là sự rung động về một mặt nhất định của con người
đối với các hiện tượng nào đó của hiện thực.Cảm xúc có đặc điểm là mang tính
chất chủ quan.
Các nhà tâm lí học nghiên cứu và chỉ ra rằng hứng thú có một vai trò
quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Nó là động cơ thúc đẩy con
người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Khi được làm việc phù hợp với hứng
thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu
quả cao. Trong hoạt động học tập, hứng thú có vai trò hết sức quan trọng, thực tế
cho thấy hứng thú đối với các bộ môn của học sinh tỉ lệ thuận với kết quả học
tập của các em.
Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác dụng quan trọng không chỉ về trí
tuệ, tình cảm, tư tưởng. Môn lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giảng tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ,... “Bởi những con người là việc thực của quá khứ

có sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ với các thế hệ trẻ” [1;tr90]. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một tấm gương sáng, một hành động tốt bằng cả
hàng trăm bài diễn thuyết”. Giáo viên có thể lấy những tấm gương anh dũng
tuyệt vời của các chiến sĩ đấu tranh hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc để
nêu gương cho học sinh học tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất
nước. Xây dựng niềm tin vững chắc vào cách mạng trên cơ sở nhận thức đúng

6


sự khách quan, hợp quy luật của xã hội loài người. Giáo dục cho các em truyền
thống tốt đẹp của đất nước Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Đặc điểm về trường, lớp:
- Nhà trường còn gặp nhiều khó khăn về trang thiết bị dạy học.
- Giáo viên dạy Sử ở nhiều trường phổ thông còn nhiều vướng mắc trong
việc cuốn hút học sinh thích học môn của mình, đặc biệt một bộ phận giáo viên
ngại đầu tư vào giờ dạy nên không gây hứng thú cho học sinh mà thậm chí còn
có tư tưởng chán nản, buông xuôi theo thời cuộc…
- Về học sinh thì không thích học môn Sử vì cho rằng đó chỉ là “môn
phụ”, không quan trọng, nội dung kiến thức quá dài, nhiều sự kiện, khô cứng,
khó nhớ...
- Phụ huynh: Nếu con em mình chọn thi môn Sử trong các kì thi học sinh
giỏi thì phản đối kich liệt vì không thực tế, học chẳng để làm gì...
* Một số kết quả qua khảo sát thực trạng:
- Giáo viên đã hoàn thành được chương trình dạy học theo đúng phân
phối chương trình. Học sinh cũng “hoàn thành” việc học của mình, các bài kiểm
tra, bài thi, nhưng có điều kết quả không cao. Hiện tượng quay cóp trong thi cử
còn rất nhiều, chất lượng bài làm không như mong muốn, trở thành điều nhức
nhối của giáo viên dạy và của ban giám hiệu Nhà trường. Điều đáng buồn hơn

nữa là khi hỏi về một số sự kiện trọng đại của đất nước thì một số em lại không
biết tí gì, một số em có biết nhưng lại chẳng hiểu gì về sự kiện đó cả.
* Một số tồn tại:
- Một số giáo viên dạy sử do tác động của thời cuộc đã không còn tâm
huyết với môn học, nên không có sự đầu tư, chăm chút cho bài dạy. Sự chuẩn bị
chu đáo cho bài dạy chỉ tập trung ở tiết thanh tra, thao giảng mà thôi. Không có
sự đầu tư giáo án, chuẩn bị đồ dùng dạy học, áp dụng công nghệ thông tin vào
dạy học dẫn tới khi dạy trên lớp chủ yếu đọc các sự kiện chính trong sách giáo
khoa cho học sinh ghi – “dạy chay”, khiến cho giờ học càng trở nên khô cứng,
buồn tẻ, không cuốn hút được học sinh dẫn tới các em càng chán học.
- Về học sinh thì không thích học môn Sử vì cho rằng đó chỉ là “môn
phụ”, không phải môn khối, không quan trọng, nội dung kiến thức lại quá dài,
nhiều sự kiện, khô cứng, khó nhớ... Còn phụ huynh, nếu con em mình chọn thi
môn Sử trong các kì thi học sinh giỏi thì phản đối kịch liệt vì không thực tế, học
chẳng để làm gì...
- Trong chương trình của sách giáo khoa viết còn nặng về kiến thức, quá
nhiều sự kiện lịch sử, cứng nhắc trong khi số tiết dạy lại quá ít khiến giáo viên
gặp rất nhiều khó khăn khi dạy. Chính sự bó hẹp về thời gian, trong khi nội dung
bài học lại nghiêng về việc cung cấp quá nhiều các sự kiện, các vấn đề lịch
sử...giáo viên không còn cách nào khác đó là phải đuổi thời gian cho kịp chương
trình. Chẳng hạn Bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực đân Pháp
xâm lược kết thúc 1953 – 1954” thường dạy trong 2 tiết (32,33 – Lich sử 12
theo PPCT). Giáo viên phải dạy thật nhanh mới cung cấp hết được các sự kiện
7


trong sách giáo khoa cho học sinh: Âm mưu của Pháp – Mĩ trong kế hoach Na va
; Chiến cuộc đông xuân 1953- 1954, đặc biệt chiến dịch Điện Biên Phủ; Hiệp
định Giơnevơ; Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Có lần tôi vừa dạy song chiến dịch Điện Biên Phủ, có một học sinh

đã đứng lên hỏi tôi “ Thưa cô! Tưởng đánh giặc khó như thế nào chứ, đánh như
vậy bọn em cũng đánh được, dễ ợt”. Tôi giật mình trước câu hỏi đó của trò. Tôi
hiểu một điều chính thời gian không đủ, lượng kiến thức lại quá nhiều, khô cứng
dẫn đến tôi hay các đồng nghiệp của tôi đã không làm cho học sinh hiểu được
sâu sắc về chiến dịch mà nó còn mang tính qua loa, hời hợt...
2.3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tạo xúc cảm trong giờ dạy
Tạo xúc cảm, ấn tượng cho học sinh trong một giờ dạy lịch sử dân tộc cần
phải thực hiện các bước sau:
- Trước hết làm thay đổi nhận thức của giáo viên và học sinh về môn học
này, coi môn Lịch sử là một môn khoa học. Muốn vậy người thầy phải luôn nghiêm
túc với tiết dạy của mình. Luôn có sự tìm tòi, sáng tạo trong giờ dạy để gây được
hứng thú cho người học. Để làm được điều này đòi hỏi người thầy phải có trình độ
chuyên môn sâu về chuyên ngành Lịch sử. Còn bản thân học sinh phải luôn tự giác,
chủ động tìm tòi, khám phá chinh phục tri thức nhân loại...
- Người dạy phải có sự cải tiến về phương pháp dạy học: Ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học, giáo viên phải thiết kế giáo án điện tử nhưng không
quá lạm dụng mà chỉ làm cho giờ dạy phong phú, đầy sự thuyết phục qua một số
tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu... Giáo viên nên sử dụng các phương pháp dạy
học hiện đại, phù hợp: Phương pháp trực quan: quan sát tranh ảnh, lược đồ; Sử
dụng kỉ thuật dạy học: các mảnh ghép, giáo viên kết hợp phương pháp đối thoại,
trao đổi, nêu vấn đề, thảo luận, tích hợp, phân tích, nhận định...để phát triển
năng lực của người học...
- Đặc biệt giáo viên dùng ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh,
lôi cuốn và đầy thuyết phục để dẫn dắt học sinh “trở về” với quá khứ lịch sử,
truyền tải kiến thức cho học sinh một cách sinh động, hấp dẫn, ấn tượng. Lời nói
có ý nghĩa giáo dục rất lớn, nó tác động đến tình cảm, hình thành tư tưởng cho
học sinh...Vì vậy trong dạy học lịch sử lời nói bao giờ cũng gắn liền với tư cách
đạo đức, tư tưởng của giáo viên. Không thể nhiệt tình ca gợi những hành động
anh hùng của nhân dân trong chiến đấu nếu người giáo viên không dung cảm

trước những hành động ấy. Không thể giáo dục học sinh căm thù giai cấp thống
trị, quân xâm lược nếu giáo viên không thực sự căm thù chúng. Lời nói nhiệt
tâm, chân thành tăng thêm tác dụng giáo dục; Lời nói lạnh nhạt, hững hờ làm
giảm nhẹ hoặc gây phản tác dụng giáo dục..
- Giáo viên cũng xác định tốt mục tiêu của bài dạy. Từ đó xác định trọng
tâm kiến thức của bài để rồi khắc sâu cho học sinh, tạo ấn tượng cho các em qua
những câu chuyện về các anh hùng cách mạng hay nhân vật lịch sử. Với những
tấm gương hi sinh anh dũng của các anh hùng cách mạng đã gây ấn tượng, sự
xúc động thực sự ở học sinh. Nó có tác động sâu sắc đến tâm tư tình cảm của

8


các em, kích thích tư duy của các em, khiến các em không thể nào quên. Một
người giáo viên dạy sử nếu biết kết hợp tốt các phương pháp, phương tiện dạy
học, sử dụng lời nói sinh động đầy hình ảnh và đặc biệt biết tạo “điểm nhấn”
cho giờ dạy của mình bằng người thật, việc thật thì chắc chắn rằng giờ dạy sẽ để
lại rất nhiều ấn tượng cho học sinh, tác động đến tâm tư tình cảm của các em,
giúp các em hình thành nhân cách của mình...
- Lịch sử Việt Nam từ xưa đến nay gắn liền với công cuộc dựng nước và
giữ nước, vì thế lịch sử dân tộc luôn gắn liền với những vị anh hùng dân tộc,
dưới thời đại Hồ Chí Minh gọi là anh hùng cách mạng. Việc lựa chọn những tấm
gương anh hùng trong dòng chảy lịch sử dân tộc phải mang tính chất điển hình,
làm sáng tỏ được trọng tâm kiến thức của bài học. Nhấn mạnh cho học sinh về
vấn đề hay sự kiện lịch sử cần truyền tải:
+ Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến thế kỷ X có thể sử dụng hình
tượng anh hùng dân tộc, các danh tướng gây xúc cảm cho học sinh trong giờ
học: Hai bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bí, Mai Thúc Loan, Khúc Thừa Dụ, Dương
Đình Nghệ, Ngô Quyền...[4]
+ Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX có thể sử dụng hình tượng

anh hùng dân tộc, các danh tướng gây xúc cảm cho học sinh trong giờ học: Đinh
Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lí Thường Kiệt, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc
Toản, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Lai, Nguyễn Huệ....[4]
+ Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918 có thể sử dụng hình tượng anh
hùng dân tộc, cáâình yêu nước gây xúc cảm cho học sinh trong giờ học: Nguyễn
Trung Trực, Trương Định, Hoàng Diệu, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng,
Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh...
+ Lich sử Việt Nam từ 1919 đến 1975 có thể sử dụng hình tượng anh
hùng cách mạng: Lí Tự Trọng, Võ Thi Sáu, Cù Chính Lan, La Văn Cầu. Nguyễn
Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh, Vừ
A Dính, Trần Cừ, , Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diệm, Phan Đình Giót, Nguyễn Viết
Xuân, Trần Văn Đang, Nguyễn Văn Trỗi...
2.3.2. Giáo án thực nghiệm: Tiết 1 của bài 20 – Tiết 32 theo Phân phối chương
trình Lịch sử lớp 12: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc 1953 – 1954”
I. Mục tiêu bài học.
1. Kiến thức: giúp học sinh nắm được.
- Âm mưu mới của Pháp - Mĩ ở Đông Dương được thực hiện trong kế
hoạch Na va (5/1953). Đây là sự cố gắng rất lớn của Pháp - Mĩ nhằm giành
thắng lợi quyết định chuyển bại thành thắng "Kết thúc chiến tranh trong danh
dự" ở Đông Dương.
- Chủ trương kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954 của ta nhằm phá
kế hoạch Na Va của Pháp Mĩ bằng cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 1954 và bằng chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) giành thắng lợi quân sự quyết
định.
9


2. Kĩ năng: - Rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ, phân tích, đánh giá, nhận
định các sự kiện lịch sử.

3. Thái độ: Bồi dưỡng học sinh lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, Tinh thần tự
hào dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết với nhân dân Đông Dương, đoàn
kết quốc tế. Giáo dục các em lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

4. Định hướng năng lực học sinh
Năng lực chung: phát triển ngôn ngữ; Năng lực riêng: lập biểu đồ, năng lực
quan sát tranh ảnh, tư duy phân tích, lập niên biểu, liên hệ thực tiễn, đánh giá...

II. Thiết bị, tài liệu
- Máy chiếu, màn chiếu , loa
- Bản đồ chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và bản đồ chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ.
- Tranh ảnh tài liệu về Điện Biên Phủ, Ảnh anh hùng Phan Đình Giót, Tô
Vĩnh Diện, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
III. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy và học
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ: Hãy nêu những thành tựu đạt được trong phát triển hậu
phương từ sau ĐH đại biêủ toàn quốc lần thứ II của Đảng?.
3. Bài mới.

Hoạt động của thầy, trò
Hoạt động 1: Chia lớp 3 nhóm:
- Nhóm 1: Sau 8 năm trở lại xâm lược Việt
Nam, thực dân Pháp gặp những khó khăn gì?
Để giải quyết khó khăn này th]cj dân Pháp đã
làm gì?
- Nhóm 2: Cho biết âm mưu của Pháp - Mĩ
trong việc thực hiện kế hoạch Na va.? Nội
dung cơ bản của kế hoạch Nava?
- Nhóm 3: Nhận xét gì về kế hoạch Na va?

Đại diện các nhóm thông báo kết quả làm
việc của nhóm mình.
- Giáo viên nhạn xét và chốt ý.

Nội dung kiến thức cần đạt
I. Kế hoạch Na va của Pháp và
Mỹ.
- Hoàn cảnh:
Trong thế thua, thế bị động,
Pháp muốn kết thúc chiến
tranh trong vinh dự...
- Mục đích:
+ Xoay chuyển cục diện
chiến tranh Đông Dương.
+ Chuyển bại thành thắng
trong vòng 18 tháng kết thúc
chiến tranh trong danh dự.
- Nội dung:
+ Bước 1: thu đông 1953,
Xuân 1954 giữ thế phòng ngự
chiến lược ở miền Bắc, tiến
công chiến lược miền Nam.
+ Bước 2: Thu đông 1954,
chuyển lực lượng ra Bắc, thực
hiện tiến công chiến lược miền
Bắc, giành thắng lợi quyết định,
kết thúc chiến tranh.
10



Nhận xét: Kế hoạch Na va ra
đời trong thế thua và thế bị
động, đây là âm ưu cao nhất
của Pháp – Mĩ...
Hoạt động 2:
- Giáo viên: Theo kế hoạch Na Va chúng tập
trung quân chủ yếu ở Bắc Bộ, xây dựng những
binh đoàn mạnh (27 binh đoàn) hòng giáng cho
ta những quả đấm thép.
Do đó 9/1953 Hội nghị chính trị Trung
Ương Đảng họp đề ra kế hoạch tác chiến Đông
Xuân 1953 - 1954 với quyết tâm giữ vững quyền
chủ động đánh địch trên cả 2 mặt trận - Chính
diện và sau lưng địch.
? Cho biết chủ trương chiến lược của ta trong
chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954.
Gv dùng máy chiếu lược đồ : chiến trường Đông
Dương Đông Xuân 1953 - 1954 thuật diễn biến:
Giáo viên chiếu hình ảnh anh hùng Bế Văn
Đàn:

Bế Văn Đàn, dân tộc Tày, sinh năm 1931 tại
huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Nhập ngũ từ
tháng 1 năm 1948 anh tham gia nhiều chiến
dịch, luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực
vượt qua mọi khó khăn ác liệt, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao. Trong trận Mường Pồn
(Lai Châu) tháng 12/1953, trong tình thế hiểm
nghèo khi bị địch phản công, Bế Văn Đàn đã
lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội bắn,

đẩy lùi kẻ thù. Anh đã anh dũng hy sinh khi hai
tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình.

II. Cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953 - 1954 và
chiến dịch ĐBP 1954.
1. Cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953 - 1954.
a) Chủ trương chiến lược của
ta.
- Phương hướng chiến lược :
Tập trung lực lương đánh vào
những hương quan trong mà
địch tương đói yếu , nhăm tiêu
diệt bộ phận sinh lực địch, giải
phóng đất đai, buộc địch phải
phân tán lực lượng ở những
điểm sung yếu.
b) Cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953 - 1954 của
ta.
- Đầu 12/1953 ta đánh mạnh ở
Lai Châu  buộc địch phải cho
quân nhảy dù giữ chốt ĐBP.
- Đầu 12/1953 Liên quân Việt Lào chiến thắng ở Trung Lào.
- Cuối 1/1954 Liên quân LàoViệt thắng lớn ở Thượng Lào.
- Cuối tháng 1  đầu tháng
2/1954 ta thắng địch ở Bắc Tây
Nguyên.
=> Kế hoạch Na Va bước

đầu bị phá sản.

11


? Với các cuộc tấn công của ta buộc địch phải
phân tán như thế nào.
(Đồng Bằng Bắc bộ - Tây Bắc - Trung Lào,
Thượng Lào - Tây Nguyên)
? Tại sao thực dân Pháp chọn Điện Biên Phủ để
xây dựng thành tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh
nhất Đông Dương.
? Pháp Mĩ đã làm gì để xây dựng Điện Biên Phủ
trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương.
? Em có nhận xét gì về sự chuẩn bị của giặc.
? Cho biết chủ trương của ta trong chiến dịch
Điện Biên Phủ.
Giáo viên: Chiếu hình ảnh Đại tướng Võ
Nguyên Giáp và nói về quyết định tuyệt vòi
nhất trong đời cầm quân của Đại tướng:
chuyển từ phương châm“ đánh nhanh, giải
quyết nhanh” sang “ đánh trắc, tiến
chắc”....
[5,tr243; 7]

2. Chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ (1954)
* Chủ trương của ta:
- Đầu 12/1953 ta quyết

định mở chiến dịch ĐBP nhằm:
+ Tiêu diệt lực lượng địch.
+ Giải phóng Tây Bắc, tạo
điều kiện giải phóng Bắc Lào.

* Sự chuẩn bị cho chiến dịch:

? Nêu những hiểu biết của em về sự chuẩn bị cho
chiến dịch ĐBP.
Giáo viên chiếu hình ảnh anh hùng Tô Vĩnh
Diệm và kể về tấm gương hy sinh vô cùng
anh dũng đã ngã xuống để bảo vệ pháo tại
dốc Chuối( 2- 1954):

12


Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, ở xã Nông
Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Anh
sinh ra trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã
phải đi ở cho địa chủ. Năm 1946 anh tham gia
dân quân ở địa phương, đến năm 1949 anh xung
phong đi bộ đội. Tháng 5/1953, quân đội ta
thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị
đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu
đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ...Qua 5 đêm
kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp cong và
rất nguy hiểm, Tô Vĩnh Diệm cùng đồng chí
pháo thủ Lê Văn Chi xung phong lái pháo. Đến
nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh

xuống dốc, Tô Vĩnh Diệm vẫn bình tĩnh giữ càng
lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn
dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh,
đồng chí Chi bị hất văng ra dơi xuống vực.
Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó, Tô Vĩnh
Diện hô anh em “Thà hy sinh quyết bảo vệ
pháo”, và anh buông tay lái xông lên phía
trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ
đó các anh em đồng đội kịp ghìm giữ pháo lại.
Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của anh
đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn
thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến
đấu thắng lợi. Ngày 7/5/1955, Tô Vĩnh Diện
được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa truy tặng Huân chương Quân công hạng
Nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân [3;tr92].
* Đợt tấn công thứ nhất : Ta tiến công địch ở
phân khu phía Bắc.

* Diễn biến.
13


Giáo viên khắc hoạ lại tấm gương hy sinh của
anh hùng Phan Đình Giót đã lấy thân mình
lấp lỗ châu mai trong trận đánh vào cứ diểm
Him Lam của quân ta:

- Đợt 1: (13  17/3/1954) ta

đánh chiếm phân khu Bắc.
- Đợt 2 : (30/3  26/4/1954)
quân ta tiến công tiêu diệt căn
cứ phía Đông phân khu trung
tâm.
- Đợt 3: 1/5  7/5/1954) ta
đánh các căn cứ còn lại ở phân
khu trung tâm và phân khu
Nam.
=> 17h 30 ngày 7/5/1954 chiến
dịch toàn thắng.

Đó là buổi chiều 13 tháng 3 năm 1954, bộ đội
Đại đội 58 của ta mở màn trận đánh chiến dịch
Điện Biên Phủ tại cứ điểm Him Lam. Cuộc
chiến không cân sức giữa bộ đội ta và quân địch
diễn ra vô cùng ác liệt. Những trận “bão lửa”
liên tiếp của địch trút xuống, bộ đội ta bị thương
vong khá nhiều. Các chiến sĩ của ta phải giành
giật đánh chiếm lấy từng cứ điểm, từng mỏm đồi
trên Điện Biên Phủ. Súng đạn của quân Pháp từ
lỗ châu mai bắn ra xối xả, liên tiếp khiến nhiều
chiến sĩ của ta liên tục hi sinh. Để đánh chiếm
lấy những cứ điểm quan trọng, bộ đội ta đã
chuyển sang dùng bộc phá để đánh lô cốt địch.
Trên chiến trường, chiến sĩ Phan Đình Giót
cũng hừng hực khí thế đánh giặc như bao chiến
sĩ khác. Cuộc giằng co kéo dài đến hơn 22 giờ
đêm, khi Phan Đình Giót ôm quả bộc phá thứ 10
để nổ tung lô cốt địch thì bị thương vào đùi. Lúc

đó, bộ đội ta bị thương nhiều vô kể. Anh hùng
Phan Đình Giót được chuyển về phía sau để
băng bó vết thương.Từng loạt đạn vẫn rít và bay
qua trên đầu, nhưng khi vừa băng bó xong, máu
chưa ngừng chảy thì anh hùng Phan Đình Giót
đã ôm hai quả bộc phá liên tiếp lao lên. Anh
cầm theo tiểu liên xung phong mở đường cho
đồng đội lên đánh lô cốt đầu cầu và lô cốt số 2.
Sau đó, hỏa lực của quân Pháp từ lô cốt số 3
14


bắn ra liên tiếp khiến cho đơn vị của ta bị dồn ứ
lại. Nhiều chiến sĩ xung phong lao lên đều hi
sinh trước họng súng của kẻ thù. Bất ngờ, Phan
Đình Giót vùng dậy, ôm bộc phá lao lên rồi bịt
kín lỗ châu mai của quân địch, cách nơi anh
đang băng bó khoảng 200m. Tiếng súng đạn
bỗng im bắt, nhưng chiến sĩ Phan Đình Giót đã
hi sinh, toàn thân anh bị bom đạn kẻ thù bắn
nát” Khi lỗ châu mai bị che lấp, hỏa điểm của
quân Pháp bị dập tắt, bộ đội ta đã nhanh chóng
xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam trong ngày
13 tháng 3. Đây là trận đánh mở màn thắng lợi
trong chiến dịch Điện Biên Phủ..[8]
* Đợt tấn công thứ 2:
? Mục đích của ta đánh sân bay Mường Thanh
làm gì.
(Cắt đứt còn đường tiếp tế duy nhất = hàng
không của địch).

* Đợt tấn công thứ 3:
Ta đã kết thúc chiến dịch như thế nào?
* Kết quả, ý nghĩa :
* Thảo luận nhóm:
=> Tập đoàn cứ điểm Điện
+ Nhóm 1: Trình bày kết quả của chiến Biên Phủ là 1 công trình cứ dịch
ĐBP 1954. Chiến thắng ĐBP thắng lợi có ý điểm mạnh nhất Đông Dương
nghĩa lịch sử ta lớn như thế nào.
đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
+ Nhóm 2: Tác động của chiến thắng Điện
- Đập tan hoàn toàn kế
Biên Phủ đến cuộc kháng chiến chống Pháp?
hoạch Na va của Pháp Mĩ, giáng
-Nhóm trưởng trình bày, giáo viên nhận xét, đòn quyết định vào ý trí xâm
kết luận.
lược của thực dân Pháp, làm
xoay chuyển cục diện chiến
tranh ở Đông Dương, tạo điều
kiện thuận lợi cho cuộc đấu
tranh ngoại giao giành thắng lợi.
4 - Củng cố: GV: Hệ thống lại kiến thức cơ bản trong tâm của bài bằng
Sơ đồ tư duy bài học.
* Bài tập: Tại sao lại khẳng định chiến thắng Điện Biên Phủ đã quyết định
việc chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương? Cảm nghĩ của em
về các tấm gương hy sinh của chiến sĩ cách mạng?
5 - Dặn dò: Về nhà học bài cũ và bài tập đầy đủ. Tìm hiểu thêm về các
anh hùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đọc trước mục III và IV của bài.
2.4. Hiệu quả
1
5



Đã áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm ở lớp 12A1, 12A3, 12A4
Khi tôi thực hiện giáo án đã tạo được ấn tượng sâu sắc cho học sinh, các
em thực sự đã rất xúc động khi nghe tôi kể về các tấm gương hy sinh anh dũng
của các chiến sĩ. Sự xúc động đó được thể hiện trên ánh mắt và gương mặt của
các em. Sự tự hào đó có em đã thốt thành lời “ Cô ơi! Các chiến sĩ của chúng ta
thật kiên trung. Em rất khâm phục lòng dũng cảm và sự hy sinh cao cả của các
anh hùng cách mạng. Xúc động lắm cô ạ!”. Tôi đã trả lời các trò: “ Ừ! Cô mong
các em biết trân trọng sự hy sinh của những lớp người đi trước cho Tổ quốc
được độc lậ, tự do. Các em hãy phấn đấu hết mình để xứng đáng với sự hi sinh
đó nhé!”
Kết quả đat được như mong muốn, hầu hết học sinh hiểu bài và rất ấn
tượng, thích thú với giờ học, các em rất xúc động trước tài năng và sự hi sinh
cao cả của các chiến sĩ cách mạng. Phần lớn các em hiểu được sâu sắc chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Để chiến thắng kẻ thù dân tộc ta phải đổ biết bao
máu xương mới có ngày hôm nay. Các em cũng hiểu được thế hệ trẻ ngày nay
phải có trách nhiệm với quê hương đất nước, phải học tập, rèn luyện trở thành
người có ích cho xã hội, tiếp nối truyền thống của cha ông. Sau đây là kết quả
đối chứng:
Lớp ( Sĩ số)
Nội dung
Trước
khi áp
dụng

SKKN

Không thích
Thích

Rất thích
Không thích
Thích
Rất thích

12A1( 41 HS)

12A3( 42 HS)

12A4 ( 42 HS)

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

25
11
5
5
15
21


%
60,9
26,8
12,3
12,3
36,5
51,2

29
10
3
3
14
25

%
69
24,3
6,7
6,7
33,3
60

31
9
2
6
17
19


%
73,8
21,4
4,8
14,2
40,4
45,4

Sau khi
áp
dụng
SKKN
( Giáo viên phát phiếu kiểm nghiệm trước và sau giờ dạy thực nghiệm )

16


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Với cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” và cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là là một tấm gương đạo đức, tự
học và sáng tạo”, cùng với phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”. Luôn nắm vững phương châm giáo dục thời đại ngày nay: “ Giáo
dục thể lực, tâm lực và trí lực” với tư cách là một giáo viên bộ môn , tôi luôn
suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp dạy học sao cho học sinh của mình có thể
nắm bắt kiến thức một cách dễ hiểu nhất, ấn tượng nhất, xúc cảm nhất, giúp các
em có hứng thú với bộ môn, tránh được áp lực khi học môn này. Qua những tấm
gương hi sinh đầy anh dũng của các anh hùng cách mạng, tôi muốn học sinh của
mình nhìn nhận lịch sử dân tộc một cách chính xác với một tâm thế tự hào, kính
trọng và biết ơn. Hơn thế nữa, tôi muốn học sinh của mình phải hiểu được đất

nước ta có ngày hôm nay là nhờ vào sự hi sinh cao cả của lớp người đi trước, đã
phải đổ biết bao máu xương mới có độc lập, tự do cho Tổ quốc. Các em không
những khâm phục mà còn phải trân trọng, phát huy truền thống cách mạng trong
thời đại ngày nay, trở thành con người có trách nhiệm với quê hương ,Tổ quốc.
Từ đó hình thành nhân cách của mình đáp ứng được yêu cầu hội nhập và phát
triển của đất nước.
Trên thực tế ở các trường phổ thông hiện nay đặc biệt là khối Trung học
phổ thông đang phải đối mặt với tình trạng học sinh chán Sử, ghét Sử. Đó là
thực tế đáng suy ngẫm. Làm sao để biến giờ Sử khô khan thành một giờ học hấp
dẫn, ấn tượng và đầy xúc cảm, khiến học sinh yêu thích môn học này là niềm
trăn trở của không ít giáo viên dạy Sử. Muốn làm được điều đó người dạy phải
có những biện pháp giúp học sinh yêu thích môn lịch sử. Điều quan trọng và cần
thiết nhất là phải tạo cho các em niềm khát khao tìm hiểu, biết tự đánh giá và
nhận xét khách quan các sự kiện hay nhân vật lịch sử nào đó, khiến các em đam
mê thực sự chứ không bị gò bó hay ép buộc bởi bất cứ một lí do nào. Vậy thì
việc tạo xúc cảm trong giờ học Sử Việt Nam qua hình tượng người anh hùng
cách mạng sẽ là một giải pháp hay và hữu hiệu. Bởi nó đã giải quyết được căn
bản tình trạng chán học Sử của học sinh. Phần lớn các em bị cuốn hút, đầy hứng
thú, tạo sự xúc động mạnh tới tâm tư tình cảm của các em. Bản thân các em chủ
động tiếp nhận kiến thức, hào hứng đón giờ học.
Muốn làm được điều đó, người dạy phải thực sự yêu nghề, phải có tâm,
có tầm với nghề. Có như vậy, người giáo viên mới luôn tìm tòi những giải pháp,
không ngừng trau rồi kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn, áp dụng những
phương tiện dạy học hiện đại, những phương pháp ưu việt để đưa đến cho học
sinh những giờ học thực sự ấn tượng đầy xúc cảm, đạt kết quả tốt nhất. Đặc biệt,
người giáo viên nên dùng lời nói sinh động đầy hình ảnh tạo hình tượng người
anh hùng cách mạng gây được xúc cảm rất lớn với học sinh, để lại cho các em
rất nhiều ấn tượng. Bản thân các em sẽ “ khắc cốt ghi tâm” những sự kiện lịch
sử hào hùng nhất của dân tộc. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến nay thời
nào cũng có những anh hùng dân tộc, những danh tướng, anh hùng cách mạng

17


(thời hiện đại). Vì thế trong phần lớn các tiết day Lịch sử Việt Nam ở khối Trung
học phổ thông hay Trung học cơ sở đều có thể áp dụng việc tạo xúc cảm cho học
sinh trong giờ dạy bằng hình tượng người anh hùng dân tộc hay anh hùng cách
mạng (Chương trình Lịch sử khốisrung học cơ sở vàsrung học phổ thông đồng
tâm với nhau).
3.2. Kiến nghị
Qua thực hiện Sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin được đề xuất các kiến nghị
sau:
Đối với các ban ngành: Nên tuyển dụng giáo viên bộ môn đúng chuyên
ngành được đào tạo; Cần phải thay đổi Sách giáo khoa, việc viết sách phải tạo
được sự hấp dẫn đối với người học, không khô cứng, không quá tham nhiều sự
kiện; Thay đổi chế độ thi cử, về lâu dài cần đưa môn Sử trở thành môn thi bắt
buộc; Tăng số tiết dạy cho môn Sử; Cần cấp phát những thiết bị dạy học hiện
đại, những thước phim tư liệu lịch sử chính thống; Áp dụng những phương pháp
dạy học hiện đại và phù hợp với đặc điểm bộ môn...
Về phía nhà trường: Cần tuyên truyền sâu rộng thông qua hoạt động
ngoại khoá nhiều hơn nữa về kiến thức Lịch sử ở các tiết giáo dục ngoài giờ lên
lớp, chào cờ, sinh hoạt tập thể của Đoàn- Đội; Tổ chuyên môn thường xuyên tổ
chức các chuyên đề nâng cao chất lượng bộ môn, kinh nghiệm trong giảng
dạy...; Đối với giáo viên phải có tâm với nghề, không ngừng học hỏi, nâng cao
trình độ chuên môn, tiếp cận những phương pháp dạy học mới và đưa công nghệ
thông tin vào giảng dạy; Đối với học sinh cần phải thay đổi nhận thức với môn
học và luôn tự giác, chủ động trong học tập...
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay, đặc biệt trong quá
trình đất nước hội nhập thì môn Lịch sử nhất là quốc sử càng cần được coi
trọng. Có như vậy, mới giúp được thế hệ trẻ xây dựng nhân cách, bản lĩnh con
người Việt Nam để giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trước sự

giao thoa với văn hoá thế giới. Phải đặt môn Lịch sử đúng tầm của nó thì mới
phát huy được hết vai trò và ý nghĩa của môn học này ./.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Vũ Văn Thành

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hương

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học lịch sử, Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị. NXB Giáo
Dục, năm 2001.
2. Kênh hình trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông (Lịch sử Việt nam),
Nguyễn Thị Côi, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2001.
3. Điện Biên trong tôi, Đoàn Hoài Trung, NXB Thanh niên, năm 2004.
4. Danh tướng Việt Nam, Tập 1,2,3, Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo dục 1997,
1999.
5. Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống
Pháp, chống Mỹ ( 1945- 1954), tập 1, Bộ quốc phòng lịch sử quân đội Việt
Nam. NXB Quân đội nhân dân, năm 1993.
6. Ký ức phóng viên chiến tranh (Nhiều tác giả), NXB Quân đội nhân dân, năm
2005.

7. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và khoảnh khắc lịch sử ở Điện Biên Phủ, Báo
Thời sự, ngày 6/5/2014.
8. Những anh hùng nổi tiếng trong chiến thắng Điện Biên Phủ, Báo Pháp luật,
ngày 31/3/2015.
9. SGK Lịch sử lớp 6,7,8,9,10,11,12. NXB Giáo dục Việt Nam 2010.
10. Báo điện tử WIKIPEDIA (Bách khoa toàn thư mở).

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT,
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ
C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS và THPT Thống Nhất
Cấp đánh
TT
1.

Tên đề tài SKKN
Sö dông ph¬ng tiÖn
, ®å dïng vµ tµi liÖu
d¹y häc trong bài 18:
“ Phong trào giải phóng dân

giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Sở GD- ĐT
Thanh Hóa
Số 12/ QĐSGD&ĐT
ngày
6/01/2010

Kết quả
đánh giá
Năm học
xếp loại đánh giá xếp
(A, B,
loại
hoặc C)
C
2008- 2009

tộc 1939- 1945” ( Chương
trình Lịch sử 12)

20



×