Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.95 KB, 55 trang )

Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
ĐỀ CƯƠNG MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (THEO NGÂN HÀNG ĐỀ THI)
Câu 1: Các tiền đề tư tưởng, lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Có ba tiền đề tư tưởng – lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Một là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, đoàn kết, là sự cần cù, sáng tạo trong lao động,
anh dũng kiên cường trong chiến đấu, là ý chí vươn lên vượt qua khó khăn, thử thách, là
tinh thần tương thân, tương ái … Trong các giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là
giá trị xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam, là tư tưởng, tình cảm cao quý và thiêng liêng
nhất, là chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của dân tộc, là cội nguồn trí tuệ sáng tạo và lòng
dũng cảm của con người Việt Nam.
Hai là: Tinh hoa văn hóa nhân loại:
* Văn hoá phương Đông:
Về Nho giáo: Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước, từ rất sớm đã chịu
ảnh hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà Nho yêu nước ở quê hương. Người
tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế,
hành đạo giúp đời, là khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa đồng, là triết lý
nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và Người đã phê phán loại
bỏ những yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó.
Về Phật giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng tốt
đẹp của Phập giáo như: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân, nếp sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao động,
phê phán lười biếng, chủ trương gắn bó với dân, với nước.
Khi trở thành người mác xít, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu chủ nghĩa “Tam Dân” ( dân tộc
độc lập; dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn, vì thấy trong đó
“những điều thích hợp với điều kiện nước ta”.
* Văn hoá phương Tây:
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền văn hóa dân
chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do, bình
đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và


dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791.
Ba là: Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn hóa tinh
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy qua hoạt động
thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên cứu chủ
nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp macxít, nắm lấy cái
tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt
Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp
Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ đó
tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
Trong các tiền đề trên, chủ nghĩa Mác- Lê nin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ
nghĩa Mác- Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, là
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,cách mạng nhất, đã chỉ ra con đường giải
phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta.

Câu 2: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh?
(1). Tư tưởng HCM soi sáng con đường và phát triển dân tộc:


Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam:

TTHCM là sản phẩm của thời đại, nó trường tồn, bất diệt và đã trở thành một bộ phận

của văn hoá dân tộc, có sức hấp dẫn, lâu bền và phổ biến là tài sản vô giá của dân tộc ta.
Bởi vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hoá, tư
tưởng vĩnh cữu của loài người, trong đó chủ yếu là CNML, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề
của thời đại, của sự nghiệp cách mạng VN và thế giới.
Tính sáng tạo của HCM thể hiện ở chỗ: vừa trung thành với những nguyên lý phổ biến
của CNML, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý đó, Người đã mạnh
dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất
những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu
quả.
Nét đặc sắc nhất trong TTHCM là những vấn đề xung quanh việc giải phóng dân tộc và
định hướng cho sự phát triển của dân tộc.
TTHCM đã được kiểm nghiệm trong quá khứ. Ngày nay, tư tưởng đó vẫn đang soi sáng
con đường CMVN.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41


Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam:

Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ
dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951) trở lại đây đã
liên tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức,
phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ
của mình: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động".
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng của Người giúp chúng ta nhận thức đúng

những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và
đảm bảo quyền con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch đường lối cách mạng
đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn dân tộc ta đi tới thắng lợi.
(2). Tư tưởng HCM đối với sự phát triển của thế giới:


Tìm ra giải pháp đấu tranh giải phóng loài người:

Đóng góp lớn nhất của HCM đối với thời đại là từ việc xác định con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định một con đường CM, một hướng đi, một phương
pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu.
Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề "làm thế nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa";
xác định CNĐQ là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp bức, Ng kêu gọi lao động toàn
thế giới, nhất là các nước thuộc địa cần phải đại đoàn kết, đại hòa hợp.
Từ rất sớm, với việc nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, nắm bắt chính xác xu
thế phát triển, đặc điểm của thời đại, HCM đã đề ra đường lối chiến lược, sách lược và
phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.
Rồi từ kinh nghiệm của nước mình, Người đi đến khẳng định: "... trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của GCVS và đảng của nó, dựa vào
quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân
dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế
giới, trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng
lợi.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Những chân lý trên đây của HCM đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần
vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.



Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:

Chủ tịch HCM là vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại của nhân dân VN, là nhà hoạt
động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ kiên cường
của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Chính Người đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc VN, đưa dân tộc ta trở
thành tấm gương cổ vũ tinh thần đấu tranh của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Trong lòng nhân dân thế giới tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, Hồ Chủ tịch sống mãi. Bạn
bè năm châu hết lòng kính trọng, khâm phục và ca ngợi Người, coi Người là lãnh tụ của
thế giới thứ ba, là nguồn cổ vũ đối với tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do.

Câu 3: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa?
a) Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa:
 Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc:
Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung. Xuất phát từ như cầu khách quan
của dân tộc VN, đặc điểm của thời đại, Người giành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch
ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
xoá bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài; giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
HCM viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa...tố cáo
CNTD, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự
xấu xa của chế độ bóc lột giết người, CNTBTD luôn luôn trang điểm cho cái huy chương
mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, bình đẳng...” Trong những bài
có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc,
sự bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực KT, VH, GD.
Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với CNDQ thực dân là mâu thuẫn
chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn không thể điều hòa được.
Nếu Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống CNTB, Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh

chống CNĐQ, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống CN thực dân. Mác
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
và Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước TBCN, thì Hồ Chí Minh bàn
nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
 Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc:
Từ thực tiễn của phong trào cứu nước của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định
phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại là CNXH.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một việc làm hết sức mới mẻ:
từ một nước thuộc địa đi lên CNXCH phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau.
Con đường đó, như trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Thực chất là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng chống đế
quốc và chống phong kiến cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác biệt với
các nước đã phát triển đi lên CNXH ở phương Tây. Đây là nét độc đáo trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
b) Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa:
- Hồ Chí Minh đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những
nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra
có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do
và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Người khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Từ quyền con người ấy, Người đã khái quát và nâng cao thành quyền của các dân tộc:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
• Nội dung của độc lập dân tộc:
Là người dân mất nước, nhiều lần được chứng kiến tội ác dã man của chủ nghĩa thực dân
đối với đồng bào mình và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Hồ Chí Minh thấy
rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng chủ yếu là do dân tộc đó mất độc lập. Vì vậy,

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
theo Người, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền bình đẳng thực sự phải tự đứng lên
đánh
đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn cho dân tộc mình.
Nền độc lập hoàn toàn, độc lập thật sự của một dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải
được thể hiện đầy đủ ở những nội dung cơ bản sau đây:
+ Độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm
của dân tộc. Độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất. Người đã
từng nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
mong muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Trong “Bản Yêu sách tám điểm” gửi Hội nghị Vec-xay năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nội dung cốt lõi trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 là: Độc lập, tự do cho
dân tộc.
Trực tiếp chủ trì Hội nghị TW8 (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào và chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng là cao hơn hết thảy”.
Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm: “ Dù
hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho
được độc lập dân tộc”.

Trong “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Người long trọng
tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau
Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ
độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ Quốc và độc lập cho
đất nước”.
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền
được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một
chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải cam kết:
“Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
+ Dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, mọi vấn
đề thuộc chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Người khẳng định: Nước Việt
Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không
chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân

An-Nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng
thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc - làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
+ Trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc
lập chẳng có nghĩa gì. Nghĩa là độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc, cơm no, áo
ấm của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn
độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập
khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. => Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là
học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, đồng
thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
c) Chủ nghĩa dân tộc - một động lực lớn của đất nước:

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây ra sức
tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
với những chính sách tàn bạo.

Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sứ áp bức, bóc lột của
CNDQ đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức
càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động , mà cả giai cấp và tầng lớp trong xã hội
(tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một
dân tộc mất độc lập, tự do.
Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của đất nước”. Vì thế, “Người ta sẽ không làm gì được cho người
An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”
Người kiến nghị về cương lĩnh hành động của quốc tế cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…
nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc
địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Theo HCM, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm
trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước
và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước VN độc lập, thống nhất, dân
chủ, tự do”.Trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc chân chính “Là một bộ
phận của tinh thần quốc tế”, khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản
động.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính.
Muốn cách mạng thành công thì người cộng sản phải biết nắm lấy và phát huy.Và Người
cho đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.

Câu 4: Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề thuộc địa và vấn
đề giai cấp?

(1) Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau:
54



Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân
tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể
hiện:


Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản trong quá trình Cách mạng Việt Nam;

 Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông

dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng;
 Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng

của kẻ thù;
 Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân;
 Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

(2) Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Khác với con đường cứu nước của ông
cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư
bản đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai
cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng

được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"[1].

Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu
giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và
hạnh phúc của con người.

Hồ Chí Minh nói: "Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"2. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.

Người khẳng định: "Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì
có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm".

(3) Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp:
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn
đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích của dân tộc.
Tháng 5-1941. Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi

của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được"[2].
(4) Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác:
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của
dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng
Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của
nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: "Giúp bạn là tự giúp mình"

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi
chung của cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể
hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Ăngghen từng nói: Những tư tưởng dân
tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cùng là những tư tưởng quốc tế chân
chính.

Câu 5: Phân tích nội dung luận điểm sau của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng
dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.


Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều
con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư
tưởng khác nhau.
Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra
vô cùng anh dũng, với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng dậy", nhưng rốt cuộc
đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra". Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam
vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu
cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha.
Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước
beo cửa sau"; con đường của Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng
thương" ; con đường cùa Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang
nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh
không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu
ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận
và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản
Mỹ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
tư sản Pháp. Người nhận thấy: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì
nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa". Bởi lẽ đó, Người không đi theo
con đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng

vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[1].
Người "hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba đã
"bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong lý luận của V.I.Lênin một
phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.
Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết: "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"[2].

Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng
tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác
Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: "Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"...
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"[3].

Câu 6: Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc?

(1). Về vấn đề dân tộc:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất
của vấn đề dân tộc thuộc địa bao gồm: (giống câu 3).
(2). Về cách mạng giải phóng dân tộc:

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt

thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường của
cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn
Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định
một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là
một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh
bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách
mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển
nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành
công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”(2).
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công
nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở
liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc
của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
54



Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó
là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong
một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu
tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân vì
mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...(12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế
quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc
cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(13).
Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút
lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”(14).
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem
thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô
sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của
các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 61924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh
của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”(15);“nọc độc và sức sống của con rắn độc tư
bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc
địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).

54



Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công cuộc
giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực
của bản thân anh em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc
và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm
1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ
với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã
được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã
đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi
nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò
của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học
kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào
yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định:
Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể

là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một
cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng
chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị
của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát
động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền
trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về
cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường
lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta
đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.

Câu 7: Những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc?
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính
trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch
định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.
 Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa:

+ Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc:
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính

trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch
định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn không rập khuôn máy
móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết hợp hài hòa
vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã
hội chủ nghĩa.
Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực tiễn xã hội thuộc
địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa xây dựng
nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những
quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức gay gắt.
Trong những năm 1923-1924, 1927-1928 và 1934- 1938, Quốc tế Cộng sản không ủng
hộ mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc chủ nghĩa”. Những năm 1930-1935 tư tưởng đó
bị phê phán trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và trên báo chí ở nước ngoài. Song,
thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng
đắn.
+ Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc:
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc đáo
và sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh đã
xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng
thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến
lược, sách lược và phướng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó

là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta.
 Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng

sản Việt Nam
+ Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng soi đường cho lớp
thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn cờ hướng đạo
phong trào cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cùng với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đó được những người Việt Nam yêu nước tiếp thu như một
ánh sáng chân lý của chính mình, “giống như người đang khát mà có nước uống, đang
đói mà có cơm ăn”.
Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, góp
phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước mới, làm cho phong trào yêu
nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản.

54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Xam rồi đem chủ nghĩa Mác –
Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho họ dẫn dắt họ đi theo con
đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt cách mạng đảng, từ lập trường tư sản đã
chuyển sang lập trường vô sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp gỉai phóng và phát triển dân
tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam:
Trước hết, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của
Hồ Chí Minh là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho
phong trào yêu nước chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản và cũng trở thành một
trong những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hai là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá
vào giai cấp công nhân, soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân đấu tranh, làm cho giai
cấp công nhân ngày càng giác ngộ, phong trào công nhân Việt Nam phát triển mạnh theo
phương hướng từ tự phát đến tự giác và trở thành một điều kiện dẫn tới sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, nhất là những tư tưởng
hình thành trong những năm 20 của thế kỷ XX là sự chuẩn bị tích cực về mặt tư tưởng
chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng:

+ Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng độc lập,
tự do của quần chúng nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại đặt nền
móng vững chắc để xây dựng nền Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đầu năm 1930.
+ Là cơ sở để phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội qua ba giai đoạn chiến lược:
Từ tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ tám của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã xác định đưòng lối cách mạng giải phóng
dân tộc với chủ trương “thay đổi chiến lược”, nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc
địa. Đó là những bước đi khác nhau để tiến lên chủ nghĩa xã hội, là biểu hiện của tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định
ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
+ Là cơ sở của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc được tiếp tục phát triển trong

tiến trình cách mạng Việt Nam; được quán triệt, vận dụng và phát triển trong sự nghiệp
kháng chiến - kiến quốc. Hình thành nên đường lối quân sự nói chung và đường lối chiến
tranh nhân dân nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất là trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng phát triển và ngày càng hoàn chỉnh gắn liền
với sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đó là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của
dân tộc Việt Nam trước những kẻ thù đế quốc lớn mạnh.
 Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam:

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (19401975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ tính khoa học, tính cách mạng và sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt Nam, soi đường cho
dân tộc Việt Nam tiến lên. Cùng nhân loại biến thế kỷ XX thành một thế kỷ giải trừ chủ
nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam
trong thế kỷ XX chứng tỏ hùng hồn giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Câu 8: Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

 Mục tiêu cơ bản:
 Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận là quan

trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này.
Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách
mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó chủ nghĩa xã
hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu lợi ích thiết yếu của người lao động. Ở
Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là
một đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.

 Từ cách đặt vấn đề này theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nghĩa là

nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
đấu xây dựng. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét đặc sắc, thể
hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có
nhiều cách đề cập mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
 Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống

nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời
sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu nâng cao đời sống toàn dân đó là
tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý
luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ
nghĩa xã hội giả hiệu hoặc không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
 Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt

của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải
phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát
triển tự do.
 Như vậy. Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
(2) Mục tiêu cụ thể:
 Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội. Chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước là của dân do dân

và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân. chuyên chính với kẻ thù
của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một
mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của
nhân dân; mặt khác lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi
ích của nhân dân: chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp
thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội của quần chúng: củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường
hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và
phân định rõ chức năng của chúng.
 Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo

đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta xây
dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện đại. khoa học - kỹ thuật
tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân
ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cẩn phát triển toàn diện các ngành mà những
ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và
nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt
nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
 Mục tiêu văn hóa - xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội đó là
xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn
hóa - nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành

mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Người khẳng định: “phải xã hội
chủ nghĩa về nội dung”: để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu
của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền
văn hóa mới là: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con
người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là
con người.

Câu 9: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền?
 Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành đảng cầm quyền:

- Hồ Chí Minh đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam.
- Để thực hiện lý tưởng cao cả đó, Người tích cực chuẩn bị cả 3 mặt chính trị, tư tưởng
và tổ chức và sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố quyết định hàng đầu mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam:
+ Công - nông là gốc của cách mạng, nhưng “trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Dân
phải được tổ chức, “trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi”.
+ Để Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động, Người chọn chủ nghĩa Mác-Lênin làm
nòng cốt của Đảng.
+ Cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất giai cấp công
nhân. Đảng không bao giờ hy sinh lợi ích của công - nông cho bất kỳ giai cấp nào khác.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
Đảng tận tâm, tận lực, phụng sự, trung thành với lợi ích của dân tộc Việt Nam. Đảng

Cộng sản Việt Nam được sự tổ chức, rèn luyện, giáo dục của Hồ Chí Minh, với đường lối
chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, đã lãnh đạo toàn dân tộc chiến đấu oanh liệt, giành
được chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó cũng là thời điểm
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền: Đảng cầm quyền là khái niệm dùng
trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ
và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai
cấp đó. Cụm từ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh sử dụng trong bản Di chúc của
Người. Theo Người, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước
và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Khi chưa có chính quyền: Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc lật đổ chính quyền thực
dân và phong kiến để thiết lập chính quyền nhân dân. Thời kỳ này, phương thức lãnh đạo,
công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa
quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
- Khi có chính quyền, một vấn đề mới cực kì to lớn, cũng là thử thách hết sức nặng nề
của Đảng là người đảng viên cộng sản ko được lãng quên nhiệm vụ, mục đích của mình,
là phải toàn tâm , toàn ý phục vụ nhân dân, trên thực tế đã có một số cán bộ, đảng viên
thoái hóa biến chất trở thành “quan cách mạng”. Với chủ tịch HCM “Độc lập - Tự do Hạnh phúc” là bản chất của CNXH. Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng
đáng với danh hiệu “Đảng cầm quyền”.
+ Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của Tổ Quốc, của nhân dân: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Đó là mục tiêu, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. “Người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao
cả của mình là phấn đấu cho Tổ Quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn
thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”.


Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của

nhân dân:

Quan điểm này của HCM về Đảng cầm quyền là sự vận dụng, phát triển hết sức sáng tạo
lý luận Mác-Lênin về đảng vô sản kiểu mới. “Đảng lãnh đạo”: Tức là Đảng là tổ chức
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
lãnh đạo duy nhất đối với toàn bộ xã hội. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể nhân
dân Việt Nam nhằm đưa lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Muốn
vậy Đảng phải có tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng
cách tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ quần chúng, “phải đi theo đường lối
quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân”. Đồng thời, Đảng phải
tập hợp, đoàn kết nhân dân thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn
họ hành động. Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của
dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “sự lãnh
đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng”. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ
Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng, lãnh đạo nhưng
phải chống bao biện, làm thay, phải thông qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân, vì
dân” để Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Do đó, Đảng phải
lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện, luôn luôn đảm bảo cho Nhà nước thực sự trong
sạch, vững mạnh,thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
“Đảng là đầy tớ thật trung thành của nhân dân” “Đầy tớ” không có nghĩa là tôi tớ, tôi đòi
hay theo đuôi quần chúng mà là “tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân nhằm đem lại các
quyền và lợi ích cho nhân dân”. “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc
gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Mỗi cán bộ, đảng viên đều là “công bộc của dân,
nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Là đầy tớ của nhân dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, chuyên môn, nghiệp

vụ; phải tích cực tuyên truyền vận động quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng. Như vậy, “lãnh đạo” và “đầy tớ” là hai khái niệm được Hồ
Chí Minh sử dụng trong mối quan hệ biện chứng với nhau vì cùng chung một mục đích
là: vì dân. Làm tốt cả hai vai trò này là cơ sở đảm bảo uy tín và năng lực lãnh đạo của
Đảng.


Đảng cầm quyền, dân là chủ:

Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Theo Các Mác, đó
mới là cánh cửa vào xã hội mới chứ chưa phải là xã hội mới. Vì vậy, vấn đề quan trọng là
chính quyền thuộc về tay ai. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng triệt để phải là quyền lực
thuộc về nhân dân. Người nói: “Cách mạng rồi thì giao quyền cho dân chúng số nhiều,
chớ để trong tay một số ít người”. Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất,
nguyên tắc của chế độ mới, xa rời nguyên tắc này Đảng sẽ trở nên đối lập với nhân dân.
Dân là chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy “dân làm gốc”. Đồng thời, dân muốn làm chủ
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
thực sự cũng phải tích cực tham gia xây dựng chính quyền, làm tròn nghĩa vụ và quyền
hạn của mình. Với tư tưởng nhân văn cao cả về mối quan hệ biện chứng giữa Đảng và
dân, HCM luôn suy tư, trăn trở để tìm giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện nguyên tắc dân
làm chủ, dân làm gốc. Theo Người, cơ chế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực, không bị vi
phạm khi cán bộ, đảng viên còn là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Câu 10: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam?

(1) Xây dựng Đảng – quy luật tồn tại và phát triển của Đảng:

TTHCM về XD ĐCS VN trong sạch vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Với HCM, XD Đảng là một nhiệm vụ tất yếu,
thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc,
nhân dân. Theo Người, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Khi
cách mạng gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên cũng cố lập trường, quan
điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không bi quan, nao núng, bị động. Khi cách mạng trên đà
thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những quan điểm, tư tưởng cách
mạng, khoa học, ngăn ngừa bệnh chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và bệnh "kiêu ngạo cộng
sản". Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc quyết định sự sống còn của Đảng.
- Căn cứ quyết định tính khách quan của công tác xây dựng Đảng:
+ Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều
giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn có những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và những yêu cầu
riêng. Trước diễn biến của yêu cầu khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi
mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.
+ Đảng là một bộ phận cấu thành của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ luôn chịu những
ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội (cả những yếu tố tích cực, tiến bộ lẫn những
yếu tố tiêu cực, phản tiến bộ). Phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng để phát huy những mặt
tích cực, chống lại những thói xấu trong mỗi cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng trong sạch,
vững mạnh.
+ Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và
tu dưỡng tốt hơn, giữ vững đạo đức cách mạng, hoàn thành các nhiệm vụ do Đảng và
nhân dân giao phó.
54


Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh – Trang Di NNA – K41
+ Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng càng cần được nhấn mạnh. Vì, theo Hồ Chí Minh, quyền lực có tính hai mặt: một
mặt, nó có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng
đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị

tha hoá, biến chất, tham quyền lực, lộng quyền,... Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc
chỉnh đốn, đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi, tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá, biến
chất gây nên.
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy luật và
là nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm
làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững vàng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho
đội ngũ cán bộ, Đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước yêu cầu,
đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới và chỉnh đốn
Đảng sẽ làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất, vững mạnh, đủ sức lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua những khúc quanh đầy thử thách để cập bến thắng lợi.
(2) Nội dung công tác xây dựng Đảng: (gồm 4 nội dung)
 Xây dựng về mặt tư tưởng, lý luận:

Theo Bác "...chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, đảng cách mạng mới
làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong", "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy", "bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lênin"...
“Đảng không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có kim
chỉ nam”
Để đạt mục tiêu cách mạng, HCM chỉ rõ: Phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học
của CNML, phải làm cho CNML trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của ĐCSVN.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của chủ
nghĩa Mác - Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của CNML, đồng thời nắm
vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.
Vì vậy, trong tiếp nhận và vận dụng CNML, HCM lưu ý những điểm sau đây:



Học tập, nghiên cứu, tuyên truyền CNML phải luôn phù hợp với hoàn cảnh và từng
đối tượng
54


×