Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN tác động của thuốc bảo vệ thực vật đối với con người, môi trường và nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 20 trang )

Mục lục
Trang
I. Mở đầu…………………………………………………………………… 2
1.Lý do chọn đề tài ………………………………………………………... 2
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................... 2
5. Những điểm mới của SKKN.............................................................................................. 3

II. Nội dung SKKN.
1. Cơ sở lí luận của SKKN ……………………………………………… 3-5
2. Thực trạng của vấn đề ……………………………………………… 5-13
3. Giải quyết vấn đề …………………………………………………… 13-18
4. Hiệu quả của SKKN………………………………………………….… 18

III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận …………………………………………………………….. 18-19
2. Kiến nghị ………………………………………………………………. 19

Tài liệu tham khảo ……………………………………………… 20

1


I.Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp, với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng và
ẩm thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nông nghiệp, nhưng cũng rất thuận
lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng. Do vậy
việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh bảo
vệ mùa màng, giữ vững an ninh lương thực quốc gia vẫn là một biện pháp quan


trọng và chủ yếu. Cùng với phân bón hóa học, thuốc BVTV là yếu tố rất quan
trọng để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Các hóa chất thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc trừ sâu đã được sử dụng rộng rãi ở nước ta từ đầu những năm 1960
để tiêu diệt sâu bọ, côn trùng gây bệnh, bảo vệ mùa màng. Từ đó đến nay, thuốc
BVTV vẫn gắn liền với tiến bộ sản xuất công nghiệp, quy mô, số lượng, chủng
loại ngày càng tăng. Đã có hơn 100 loại thuốc được đăng ký sử dụng ở nước ta.
Ngoài mặt tích cực của thuốc BVTV là tiêu diệt các sinh vật gây hại cây trồng ,
bảo vệ sản xuất, thuốc trừ sâu còn gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như phá vỡ
quần thể sinh vật trên đồng ruộng, tiêu diệt sâu bọ có ích (thiên địch), tiêu diệt
tôm cá, xua đuổi chim chóc, phần tồn dư của thuốc bảo vệ thực vật trên các sản
phẩm nông nghiệp, rơi xuống nước bề mặt, ngấm vào đất, di chuyển vào nước
ngầm, phát tán theo gió gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới súc khỏe con
người. Vì vậy, việc đưa ra các công cụ quản lý ảnh hưởng của thuốc trừ sâu
trong môi trường là điều rất cần thiết. Tôi lựa chọn để tài "Tác động của thuốc
bảo vệ thực vật đối với con người và nông nghiệp" cho sáng kiến kinh nghiệm
này.

2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm củng cố kiến thức đã học,
trang bị cho bản thân những kiến thức thực tiễn cần thiết,đồng thời cung cấp
cho học sinh những kiến thức cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề thuốc bảo vệ thực vật và các vấn đề đối với môi
trường, các loại sâu hại, các loại thuốc phòng trừ và những tác động của nó đối
với môi trường,nông nghiệp
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với đề tài này thì việc tiến hành đuợc dựa trên nhiều phương pháp như

2



- Phương pháp thống kê nhằm thống kê sơ lược các số liệu về cấu trúc, đặc
điểm của từng chất.
- Phương pháp lôgic học để trình bày các vấn đề một cách mạch lạc và
khoa học. Một số phương pháp khác
5. Những điểm mới của SKKN
- Sát với thực tế,nghiên cứu khoa học,đi thẳng vào vấn đề

II. Nội dung SKKN.
1. Cơ sở lí luận của SKKN
Trong hệ thống các biện pháp tổng hợp bảo vệ thực vật (BVTV), việc sử dụng
thuốc BVTV từ những năm 50 cho tới nay vẫn chiếm một vai trò hết sức quan
trọng, có khi quyết định. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện tình trạng lạm dụng
thuốc BVTV đem đến nhiều hệ lụy tác hại cho sản xuất, môi trường, sức khỏe
cộng đồng, đe dọa sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Vì vậy tăng cường
việc quản lý sản xuất kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV là một yêu cầu đặc
biệt cấp bách hiện nay ở thế giới và ở nước ta trên cơ sở đánh giá đúng thực
trạng quản lý và sử dụng thuốc BVTV hiện nay. Nói chung, thuốc BVTV có các
ưu điểm là tác động nhanh,t triệt để, dễ sử dụng nên có thể nhanh chóng hạn
chế, dập dịch, đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần quan trọng hạn chế thiệt
hại do sâu bệnh gây nên, nâng cao lợi nhuận cho nhà nông.
Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc hóa học BVTV đem lại những hệ lụy xấu, tiêu
cực.
- Thuốc gây độc hại cho người và gia súc, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng
đồng, làm ô nhiễm môi trường, diệt cả côn trùng và vi sinh vật có ích, từ đó tạo
điều kiện cho dịch bệnh phát triển, bùng phát mạnh hơn. Dùng thuốc không
đúng kỹ thuật, sẽ nhanh chóng tạo nên tính kháng thuốc của sâu bệnh, - Thuốc
BVTV nhiều khi còn để lại dư lượng độc hại trên nông sản làm ngộ độc người
sử dụng giảm chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản trên.
Sử dụng thuốc BVTV càng nhiều, càng rộng, càng không đúng kỹ thuật thì

những nhược điểm, hạn chế, tiêu cực của thuốc càng lớn, càng nguy hại!
Trên thế giới, thuốc BVTV ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng
trừ sâu bệnh bảo vệ sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm. Theo tính
toán của các chuyên gia, trong những thập kỷ 70, 80, 90 của thế kỷ 20, thuốc
BVTV góp phần bảo vệ và tăng năng suất khoảng 20 - 30% đối với các loại cây
trồng chủ yếu như lương thực, rau, hoa quả.
Những năm gần đây theo ý kiến và nghiên cứu của nhiều tổ chức khoa học,
chuyên gia về nông nghiệp, bảo vệ thực vật, sinh thái quá trình sử dụng thuốc
BVTV ở thế giới trải qua 3 giai đoạn là: 1 - Cân bằng sử dụng (Balance use):

3


yêu cầu cao, sử dụng có hiệu quả. 2 - Dư thừa sử dụng (Excessise use): bắt đầu
sử dụng quá mức, lạm dụng thuốc BVTV, ảnh hưởng đến môi trường, giảm hiệu
quả. 3 - Khủng hoảng sử dụng (Pesticide Crisis): quá lạm dụng thuốc BVTV,
tạo nguy cơ tác hại đến cây trồng, môi trường, sức khỏe cộng đồng, giảm hiệu
quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp. Giai đoạn dư thừa sử dụng từ những năm
80 - 90 và giai đoạn khủng hoảng từ những năm đầu thế kỷ 21. Với những nước
đang phát triển, sử dụng thuốc BVTV chậm hơn (trong đó có Việt Nam) thì các
giai đoạn trên lùi lại khoảng 10 - 15 năm.
Việc sử dụng thuốc BVTV ở thế giới hơn nửa thế kỷ luôn luôn tăng, đặc biệt ở
những thập kỷ 70 - 80 - 90. Theo Gifap, giá trị tiêu thụ thuốc BVTV trên thế
giới năm 1992 là 22,4 tỷ USD, năm 2000 là 29,2 tỷ USD và năm 2010 khoảng
30 tỷ USD, trong 10 năm gần đây ở 6 nước châu Á trồng lúa, nông dân sử dụng
thuốc BVTV tăng 200 - 300% mà năng suất không tăng.
Hiện danh mục các hoạt chất BVTV trên thế giới đã là hàng ngàn loại, ở các
nước thường từ 400 - 700 loại. (Trung Quốc 630, Thái Lan 600 loại). Tăng
trưởng thuốc BVTV những năm gần đây từ 2 - 3%. Trung Quốc tiêu thụ hằng
năm 1,5 - 1,7 triệu tấn thuốc BVTV (2010).

* Bên cạnh những đóng góp tích cực với sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp (SXNN) trên thế giới cũng đem lại những hệ lụy xấu, đặc biệt trong
vòng hơn 20 năm trở lại đây.
Sự đóng góp của thuốc BVTV vào quá trình tăng năng suất ngày càng giảm. Theo
Sarazy, Kenmor (2008 - 2011), ở các nước châu Á trồng nhiều lúa, 10 năm qua
(2000 - 2010) sử dụng phân bón tăng 100%, sử dụng thuốc BVTV tăng 200 300% nhưng năng suất hầu như không tăng, số lần phun thuốc trừ sâu không tương
quan hoặc thậm chí tương quan nghịch với năng suất. Lạm dụng thuốc hóa học bảo
vệ thực vật còn tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng
phá vỡ sự bền vững của phát triển nông nghiệp. Lạm dụng hóa chất BVTV làm
tăng tính kháng thuốc, suy giảm hệ ký sinh - thiên địch để lại dư lượng độc trên
nông sản, đất và nước, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, nhiễm độc người
tiêu dùng nông sản. Trong giai đoạn 1996 - 2000, ở các nước đã phát triển, rất
nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm, vẫn có tình trạng tồn tại dư lượng hóa
chất BVTV trên nông sản như: Hoa Kỳ có 4,8% mẫu trên mức cho phép, cộng
đồng châu Âu - EU là 1,4%, Úc là 0,9%. Hàn Quốc và Đài Loan là 0,8 - 1,3%. Do
những hệ lụy và tác động xấu của việc lạm dụng thuốc BVTV cho nên ở nhiều
nước trên thế giới đã và đang thực hiện việc đổi mới chiến lược sử dụng thuốc
BVTV. Từ “Chiến lược sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” sang “Chiến
lược giảm nguy cơ của thuốc BVTV”.

4


Trên thực tế, “Sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” mới mang tính kinh
doanh và kỹ thuật vì chưa đề cập nhiều đến vấn đề quản lý, đặc biệt là mục tiêu
giảm sử dụng thuốc BVTV, còn “giảm nguy cơ của thuốc BVTV” đã thể hiện
tính đồng bộ, hệ thống, của nhiều biện pháp quản lý, kinh tế, kỹ thuật, nó bao
gồm các nội dung, a) thắt chặt quản lý đăng ký, xuất nhập khẩu, sản xuất kinh
doanh thuốc BVTV, b) giảm lượng thuốc sử dụng, c) Thay đổi cơ cấu và loại
thuốc, d) Sử dụng an toàn và hiệu quả, đ) Giảm lệ thuộc vào thuốc hóa học

BVTV thông qua việc áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp.
Chiến lược sử dụng thuốc BVTV mới này đã mang lại hiệu quả ở nhiều nước,
đặc biệt là các nước Bắc Âu, đã thành công trong việc giảm thiểu sử dụng thuốc
BVTV mà vẫn quản lý được dịch hại tốt. Trong vòng 20 năm (1980 - 2000)
Thụy Điển giảm lượng thuốc BVTV sử dụng đến 60%, Đan Mạch và Hà Lan
giảm 50%. Tốc độc gia tăng mức tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới trong 10
năm lại đây đã giảm dần, cơ cấu thuốc BVTV có nhiều thay đổi theo hướng gia
tăng thuốc sinh học, thuốc thân thiện với môi trường, thuốc ít độc hại,…
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Khái niệm về thuốc BVTV
-Thuốc BVTV là những hợp chất hoá học (vô cơ, hữu cơ), những chế phẩm sinh
học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm, siêu vi trùng, tuyến trùng, …), những chất
có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ cây trồng và nông
sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật gây hại (côn trùng, nhện, tuyến
trùng, chuột, chim, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ dại, …).
- Theo qui định tại điều 1, chương 1, điều lệ quản lý thuốc BVTV (ban hành
kèm theo Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ), ngoài
tác dụng phòng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, thuốc BVTV còn bao
gồm cả những chế phẩm có tác dụng điều hoà sinh trưởng thực vật, các chất
làm rụng lá, làm khô cây, giúp cho việc thu hoạch mùa màng bằng cơ giới
được thuận tiện (thu hoạch bông vải, khoai tây bằng máy móc, …).
-Những chế phẩm có tác dụng xua đuổi hoặc thu hút các loài sinh vật gây
hại tài nguyên thực vật đến để tiêu diệt.
- Ở nhiều nước trên thế giới thuốc BVTV có tên gọi là thuốc trừ dịch hại. Sở dĩ
gọi là thuốc trừ dịch hại là vì những sinh vật gây hại cho cây trồng và nông
sản (côn trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, nấm, vi khuẩn, cỏ dại, …) có
một tên chung là những dịch hại, do vậy những chất dùng để diệt trừ chúng
được gọi là thuốc trừ dịch hại.

5



2.2. Phân loại
• Thuốc BVTV được chia thành nhiều nhóm dựa trên đối tượng sinh vật
hại.
• Thuốc trừ bệnh
• Thuốc trừ nhện
• Thuốc trừ sâu
• Thuốc trừ tuyến trùng
• Thuốc trừ cỏ
• Thuốc điều hòa sinh trưởng
• Thuốc trừ ốc

Dạng thuốc Chữ viết tắt

Thí dụ

Nhũ dầu

Tilt
250 ND, Thuốc ở thể
Basudin
40
EC,lỏng, trong suốt.
DC-Trons Plus 98.8Dễ bắt lửa cháy
EC
nổ

ND, EC


Dung dịch DD, SL, L, AS

Ghi chú

Bonanza 100 DD, Hòa tan đều
Baythroid
5 SL, trong
nước,
Glyphadex 360 AS không chứa chất

6


hóa sữa
Bột
nước

hòa BTN, BHN, WP,Viappla
10 BTN,Dạng bột mịn,
DF, WDG, SP
Vialphos
80 BHN,phân tán trong
Copper-zinc
85 WP,nước thành dung
Padan 95 SP
dịch huyền phù

Huyền phù HP, FL, SC

Appencarb super 50Lắc đều trước

FL, Carban 50 SC
khi sử dụng

Hạt

H, G, GR

Basudin
10
Regent 0.3 G

Viên

P

Orthene
97 Pellet,Chủ yếu rãi vào
Deadline 4% Pellet đất, làm bả mồi.

Thuốc phun BR, D
bột

Karphos 2 D

H,Chủ yếu rãi vào
đất

Dạng bột mịn,
không tan trong
nước, rắc trực

tiếp

-Thuốc bảo vệ thực vật được phân thành hai loại chính là thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.

LD50 với chuột (mg/kg)
Mức độ độc

Qua miệng
Thuốc

Qua da

Thuốc nướcThuốc rắn

rắn

Thuốc
nước

Rất độc, nguy hiểm

<5

< 20

< 10

< 40

Độc cao


5-50

20 - 200

10 - 100

40 - 400

Trung bình

50 - 500 200 - 2000 100 - 1000

400 - 4000

Ít độc

> 500

> 4000

> 2000

> 1000

-Thuốc rất độc (nhóm I, LD50 < 50 mg/kg): vạch màu đỏ.
-Thuốc độc trung bình (nhóm II, LD50 >50-500 mg/kg): vạch màu vàng.
-Thuốc ít độc (nhóm III, LD50 >500 mg/kg): vạch màu xanh nước biển
2.3. Khẳng định vai trò quan trọng của thuốc BVTV trong sản xuất nông
nghiệp

Thuốc BVTV được bắt đầu được sử dụng ở miền Bắc Việt Nam vào những năm
1955 từ đó đến nay tỏ ra là phương tiện quyết định nhanh chóng dập tắt các dịch
7


sâu bệnh trên diện rộng. Do vậy, cần phải khẳng định vai trò không thể thiếu
được của thuốc BVTV trong điều kiện sản xuất nông nghiệp cảu nước ta những
năm qua, hiện nay và cả trong thời gian sắp tới.
2.4. Việc sử dụng thuốc BVTV ở nước ta tăng nhanh.
Theo số liệu của cục BVTV trong giai đoạn 1981 - 1986 số lượng thuốc sử
dụng là 6,5 - 9,0 ngàn tấn thương phẩm, tăng lên 20 - 30 ngàn tấn trong giai
đoạn 1991 - 2000 và từ 36 - 75,8 ngàn tấn trong giai đoạn 2001 - 2010. Lượng
hoạt chất tính theo đầu diện tích canh tác (kg/ha) cũng tăng từ 0,3kg (1981 1986) lên 1,24 - 2,54kg (2001 - 2010). Giá trị nhập khẩu thuốc BVTV cũng
tăng nhanh, năm 2008 là 472 triệu USD, năm 2010 là 537 triệu USD. Số loại
thuốc đăng ký sử dụng cũng tăng nhanh, trước năm 2000 số hoạt chất là 77, tên
thương phẩm là 96, năm 2000 là 197, và 722, đến năm 2011 lên 1202 và 3108.
Như vậy trong vòng 10 năm gần đây (2000 - 2011) số lượng thuốc BVTV sử
dụng tăng 2,5 lần, số loại thuốc nhập khẩu tăng khoảng 3,5 lần. Trong năm
2010 lượng thuốc Việt Nam sử dụng bằng 40% mức sử dụng TB của 4 nước lớn
dùng nhiều thuốc BVTV trên thế giới (Mỹ, Pháp, Nhật, Brazin) trong khi GDP
của nước ta chỉ bằng 3,3%GDP trung bình của họ! Số lượng hoạt chất đăng ký
sử dụng ở Việt Nam hiện nay xấp xỉ 1000 loại trong khi của các nước trong khu
vực từ 400 - 600 loại, như Trung Quốc 630 loại, Thái Lan, Malasia 400 - 600
loại. Sử dụng thuốc BVTV bình quân đầu người ở Trung Quốc là 1,2 kg, ở Việt
Nam là 0.95 kg (2010).
2.5. Mạng lưới SXKD thuốc BVTV tăng nhanh và khó kiểm soát
Theo số liệu của cục BVTV, đến năm 2010 cả nước có trên 200 công ty SXKD
thuốc BVTV, 93 nhà máy, cơ sở sản xuất thuốc và 28.750 cửa hàng, đại lý buôn
bán thuốc BVTV. Trong khi hệ thống thanh tra BVTV rất mỏng, yếu, cơ chế
hoạt động rất khó khăn.

1 thanh tra viên năm 2010 phụ trách 290 đơn vị sản xuất buôn bán thuốc BVTV,
100.000ha trồng trọt sử dụng thuốc BVTV và 10 vạn hộ nông dân sử dụng thuốc
BVTV. Như vậy rõ ràng mạng lưới này là quá tải, rất khó kiểm soát.

8


2.6. Những tác động tiêu cực của thuốc BVTV
-Nói về hậu quả việc lạm dụng thuốc BVTV, ông Hoàng Ngọc Quân, Chi cục
trưởng Chi cục BVTV tỉnh Điện Biên cho biết: Việc lạm dụng thuốc BVTV
nhất là thuốc trừ cỏ sẽ làm cho đất chua, giữ phân bón kém dẫn đến cây trồng
khó hấp thu dinh dưỡng khiến năng suất không đạt tối đa; tiêu diệt sinh vật có
ích, tạo đà cho sinh vật có hại phát triển nên cây trồng dễ nhiễm sâu bệnh, sinh
trưởng kém. Nguyên nhân của tình trạng còn bộ phận nông dân lạm dụng thuốc
BVTV quá mức cần thiết là do bà con chưa quan tâm đến mặt trái của các loại
thuốc này dẫn đến sử dụng tùy tiện, cho rằng càng phun liều lượng nặng so với
hướng dẫn thì hiệu quả phòng trừ càng cao... Để giảm tình trạng sử dụng thuốc
BVTV trong sản xuất, thời gian qua Chi cục BVTV tỉnh đẩy mạnh công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chủ hộ kinh doanh và nông dân; duy trì và
phát triển hoạt động của các bảng tin, tủ thuốc BVTV tại cơ sở, giúp nông dân
cập nhật thông tin kịp thời, xác định cụ thể thời gian, lựa chọn đúng loại thuốc
BVTV để phòng trừ khi dịch hại xuất hiện... Từ đó nâng cao năng lực cho nông
dân trong việc nhận biết, phát hiện sâu bệnh và biện pháp phòng trừ dịch hại
tổng hợp; sử dụng thuốc BVTV an toàn hiệu quả. Đồng thời hướng dẫn ủ phân
hữu cơ vi sinh, giới thiệu danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên địa
bàn; phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức các lớp huấn luyện quản lý
dịch hại tổng hợp IPM cho nông dân; tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho nông
dân trong việc sử dụng thuốc BVTV theo nguyên tắc “4 đúng”; đồng thời xây
dựng nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, như: canh tác cải tiến lúa
SRI; “3 giảm, 3 tăng”; xây dựng các bể chứa thu gom bao gói thuốc BVTV trên

các cánh đồng vùng lòng chảo Điện Biên hạn chế việc xả bao, vỏ thuốc BVTV
bừa bãi... Đặc biệt công tác thanh, kiểm tra khâu sản xuất, kinh doanh và sử
dụng thuốc BVTV được tăng cường đối với các cơ sở, cửa hàng, đại lý kinh
doanh thuốc BVTV: chứng chỉ hành nghề, điều kiện đảm bảo chất lượng cơ sở,

9


địa điểm kinh doanh thuốc BVTV, kho chứa thuốc... Qua đó, góp phần nâng cao
kiến thức, ý thức cho chủ kinh doanh mặt hàng này.
- Dư lượng thuốc BVTV trên nông sản là phổ biến và còn cao, đặc biệt trên rau,
quả, chè…
Kết quả kiểm tra, năm 2000 - 2002 của cục BVTV cho thấy ở vùng Hà Nội số
mẫu có dư lượng quá mức cho phép khá cao, trên rau, nho, chè từ 10% - 26%, ở
TPHCM từ 10 - 30%. Mười năm sau, trên rau con số đó vẫn còn 10,2% - Thuốc
BVTV làm tăng tính kháng thuốc của sâu bệnh, tiêu diệt ký sinh thiên địch, có
thể gây bộc phát các dịch hại cây trồng. Theo Phạm Bình Quyến - 2002, khi phu
thuốc Padan trên lúa, nhóm thiên địch nhện lớn bắt mồi giảm mật độ 13 lần
trong khi không phun tăng 25 lần. Điều tra tổng số loài thiên địch ở vùng chè
Thái Nguyên nơi không sử dụng thuốc trừ sâu nhiều gấp 1,5 - 2 lần so với nơi
có sử dụng thuốc. Sâu tơ hại rau kháng 24 loại thuốc - Sử dụng nhiều thuốc tác
động xấu đến môi trường, gây ô nhiễm đất và nước không khí ảnh hưởng đến
sức khỏe cộng đồng. Theo thống kê cả nước hiện còn tồn đọng trên 706 tấn
thuốc cần tiêu hủy và 19.600 tấn rác bao bì thuốc bảo vệ thực vật chưa được thu
gom và xử lý, hàng năm phát sinh mới khoảng 9.000 tấn.

-Theo kết quả khảo sát của Viện Nước tưới tiêu và Môi trường (Bộ
NN&PTNT), mỗi năm, cả nước sử dụng khoảng 200.000-250.000 tấn thuốc
BVTV, sản sinh ra khoảng 7.500 tấn vỏ bao nhưng hầu hết chưa được thu gom
xử lý mà xả trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm đồng ruộng, làm chết cua, cá.

Đa số nông dân chưa thấy hết hiểm họa từ thuốc Con số 5000 người bị nhiễm
độc thuốc BVTV chỉ trong năm 2009, trong đó 138 người tử vong, đó là chưa
kể số người bị mắc bệnh ung thư, bệnh lao phổi, bệnh về đường hô hấp...

10


-Phần lớn kho chứa thuốc BVTV nằm ở những vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Mặc dù các kho thuốc này được di dời hoặc không sử dụng, số
thuốc còn lại không được xử lý… nhưng lượng hóa chất BVTV tồn lưu tại các
điểm này đã và đang phát sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm
trọng tới nguồn nước và sức khỏe người dân.

*Ảnh hưởng tới sinh vật và môi trường

*Ảnh hưởng đến con người

11


2.7. Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật
- Sử dụng thuốc quá nhiều, quá mức cần thiết. Theo Phạm Văn Lầm - 2000, số
lần phun thuốc bảo vệ thực vật cho chè ở Thái Nguyên từ 6,2 đến 29,7 lần/ năm,
cho lúa ở đồng bằng sông Hồng từ 1 - 5 lần/ vụ, ở đồng bằng sông Cửu Long từ
2 - 6 lần/ vụ, trên 6 lần có 35,6% hộ. Số lần phun cho rau từ 7 - 10 lần/ vụ ở
đồng bằng sông Hồng, ở Thành phố Hồ Chí Minh 10 - 30 lần. Một kết quả điều
tra năm 2010 (Bùi Phương Loan - 2010) ở vùng rau đồng bằng sông Hồng cho
thấy số lần phun thuốc bảo vệ thực vật từ 26 - 32 lần (11,1 - 25,6 kg ai/ha) trong
1 năm. Số lần phun như trên là quá nhiều, có thể giảm 45 - 50% (Ngô Tiến

Dũng, Nguyễn Huân, Trương Quốc Tùng 2002, 2010)
- Sử dụng thuốc khi thiếu hiểu biết về kỹ thuật. Theo Đào Trọng Ánh - 2002,
chỉ có 52,2% cán bộ kỹ thuật nông nghiệp - khuyến nông cơ sở hiểu đúng kỹ
thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ này ở người bán thuốc là 33% ở nông
dân 49,6%.
- Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, tùy tiện hỗn hợp khi sử dụng.
Kết quả điều tra năm 2002 (Đào Trọng Ánh) chỉ có 22,1 - 48% nông dân sử
dụng đúng nồng độ liều lượng thuốc trên lúa, 0 - 26,7% trên rau và 23,5-34,1%
trên chè, trong khi đó có nhiều nông dân tăng liều lượng lên gấp 3 - 5 lần. Ở các
tỉnh phía Nam, có tới 38,6% dùng liều lượng cao hơn khuyến cáo, 29,7% tự ý
hỗn hợp nhiều loại thuốc khi phun. Năm 2010, 19,59% nông dân cả nước vi
phạm sử dụng thuốc, trong đó không đúng nồng độ là 73,2% (Cục BVTV) - Sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật không tuân thủ thời gian cách ly
Đây là một tồn tại nguy hiểm, tác động trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm
song đáng tiếc là rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng rau quả, chè… có tới 35 60% nông dân chỉ thực hiện thời gian cách ly từ 1 - 3 ngày, 25 - 43,3% thực
hiện cách ly 4 - 6 ngày trong khi phần lớn các loại thuốc có yêu cầu cách ly từ 7
- 14 ngày hoặc hơn. (Đinh Ngọc Ánh - 2002), năm 2010 trên diện rộng còn tới

12


10,22% nông dân không đảm bảo thời gian cách ly. (Cục BVTV)
- Coi trọng lợi ích lợi nhuận hơn tác động xấu đến môi trường, sức khỏe cộng
đồng.
Có một thực tế rất đáng lên án là một bộ phận nông dân cố tình sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật sai quy định pháp lý và kỹ thuật vì mục đích lợi nhuận của bản
thân, xem nhẹ luật pháp và lợi ích cộng đồng. Đặc biệt ở các vùng rau, quả, chè,
hoa, nông sản có giá trị cao… Điều tra năm 2003 - 2005 tại Vĩnh Phúc, Hà Nội,
có tới 20 - 88,8% số nông dân vẫn dùng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục.
Năm 2010, Cục BVTV cho biết còn 5,19% số hộ dùng thuốc cấm, ngoài danh

mục, 10,22% không đúng thời gian cách ly, 51% không thực hiện theo khuyến
cáo của nhãn.
Như vậy có thể thấy, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở nước ta trong vòng
10 năm lại đây, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm cũng còn nhiều tồn tại,
thiếu sót, tác hại có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó có nguyên
nhân chủ quan từ phía xây dựng, ban hành, thực hiện các chính sách quản lý và
kỹ thuật và chủ quan từ phía thực hiện của người sản xuất nông nghiệp trong sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật.
3. Giải quyết vấn đề.
3.1. ĐỂ SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT CÓ HIỆU QUẢ CẦN
THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP SAU:
• Nên sử dụng thuốc khi thật sự cần thiết.
Áp dụng kỹ thuật sử dụng theo nguyên tắc “ 4 đúng”:
• Đúng thuốc: Chỉ dùng từng loại cho đối tượng phòng trị thích hợp.
• Đúng lúc: Ngoài việc chọn đúng thuốc, thời điểm xử lý cũng đóng vai trò
quan trọng không kém để đạt hiệu quả phòng trị cao nhất.
• Đúng cách: Mỗi loại thuốc đều có cách dùng khác nhau, nên áp dụng
đúng theo hướng dẫn theo đặc tính của từng loại thuốc.
Đúng liều lượng: Cần áp dụng đúng liều lượng được khuyến cáo, không
nên tự ý tăng hoặc giảm vì ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như có tác dụng ngược
lại đối với con người và môi sinh

13


• Dùng hỗn hợp thuốc
• Sử dụng luân phiên thuốc:
• Kết hợp dùng thuốc với các biện pháp khác trong hệ thống biện pháp
quản lý dịch hại tổng hợp
• Nên sử dụng thuốc khi thật sự cần thiết


14


3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XỬ LÍ THUỐC BVTV
• Giải pháp công nghệ thiêu đốt trong lò xi măng, giải pháp hóa học, sinh
học...
• Được sự hỗ trợ của Nhà nước, tỉnh ta đã xây được các tường bao, xây các
hố chôn lấp tạm thời bằng các bể xi măng hoặc lót bạt để tránh thẩm thấu
gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, đồng thời xây các lò đốt hai cấp có kiểm
soát khí độc tại các điểm ô nhiễm thuốc BVTV
• Nhiều luật, nhưng chưa đủ:
• Điều 31 của Thông tư số 38, có quy định trách nhiệm của người sử dụng
thuốc BVTV là không được sử dụng thuốc tùy tiện, không đúng kỹ thuật
được khuyến cáo... Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có quy định riêng về xử
lý các hành vi vi phạm trên của người sử dụng.
Hạn chế của xây tường bao quanh: Mặc dù đã xây bao quanh khu vực nhưng
nguy hiểm vẫn rình rập cuộc sống người dân.
• Chưa thống nhất giá đền bù đã làm chậm công tác giải phóng mặt bằng.
1
5


hội thảo về cách phòng tránh ô nhiễm từ thuốc BVTV
-Xây dựng năng lực nhằm loại bỏ hóa chất BVTV- POP tồn lưu tại Việt Nam”
là dự án của GEF/UNDP đang được Bộ TNMT thực hiện trong 4 năm (20102013). Dự án này được xây dựng với mục tiêu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam loại
bỏ những rào cản về năng lực trong việc tiêu hủy các hóa chất BVTV nhóm
POP

3.3. Những biện pháp được sử dụng để xử lý những đối tượng nhiễm

hóa chất BVTV chủ yếu:
• -Phân huỷ bằng tia cực tím (UV) hoặc bằng ánh sáng mặt trời
• -Phá huỷ bằng vi sóng Plasma
• -Biện pháp ozon hoá/UV
• -Biện pháp oxy hoá bằng không khí ướt
• -Biện pháp oxy hoá ở nhiệt độ cao
• -Biện pháp xử lý tồn dư HCBVTV bằng phân huỷ sinh học
16


3.4. Phương pháp phòng tránh ảnh hưởng xấu của thuốc BVTV đến

sức khỏe con người
-Thực hiện chương trình “Quản lý sâu bệnh tổng hợp – IPM” bằng cách tăng
cường sản xuất và phối hợp các loại thuốc bảo vệ thực vật ít độc hại như thay
thế loại thuốc có độc tính thấp hơn (ví dụ thay Wofatox bằng Ofatox) thay thế
bằng các loại thuốc sinh học.
-Mở rộng và phát triển các dịch vụ y tế về chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nông
dân.
-Tăng cường truyền thông, huấn luyện cho các đối tượng sản xuất về lợi ích
cũng như tác hại của việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật và về các biện pháp
phòng ngừa để bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Cần sớm xây dựng chiến lược sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam trong
10 - 15 năm tới với các định hướng chủ yếu sau:
- Giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc BVTV cả về kỹ thuật, sản xuất kinh tế, bảo
vệ môi trường, an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng.
- Đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
- Nâng cao nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc
BVTV.

-Trên cơ sở Luật bảo vệ thực vật và KDTV sẽ được ban hành cần có nghị định
và thông tư mới riêng về quản lý - sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong đó cần
có quy định cụ thể về xây dựng, ban hành và sử dụng danh mục thuốc bảo vệ
thực vật theo các định hướng sau:
- Hạn chế số lượng hoạt chất trong danh mục, rất hạn chế các loại hoạt chất hỗn
hợp, hạn chế số tên sản phẩm cho 1 hoạt chất.
- Hạn chế đăng ký sản phẩm mới cũng như nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật:
đánh giá hiệu quả kỹ thuật đồng thời hiệu quả về môi trường, an toàn thực
phẩm, hiệu quả kinh tế của các hoạt chất lẫn phụ gia. Hạn chế đăng ký sản
phẩm thuộc nhóm độc I, II có thời gian cách ly dài, có độc tính cao với ký sinh
thiên địch và cá. Xem xét tăng phí khảo nghiệm và đăng ký.
- Đổi mới cơ cấu các nhóm thuốc trong danh mục, tăng tỷ lệ thuốc sinh học lên
30 - 40% trong 5 - 7 năm tới, giảm rõ rệt các loại thuốc thuộc nhóm độc I và II.
- Thuốc nhập khẩu phải có phiếu xác nhận xuất xứ. Xuất xứ phải phù hợp với
hồ sơ đăng ký. Tăng thuế nhập khẩu với các loại thuốc thuộc diện không
khuyến khích sử dụng, miễn thuế đối với loại thuốc khuyến khích sử dụng, thân
thiện môi trường, ít độc hại.
- Thực hiện nguyên tắc “có vào có ra danh mục” để định kỳ sàng lọc sản phẩm.
17


Định kỳ 3 năm cần rà soát lại sản phẩm, loại bỏ các loại thuốc không hoặc chưa
được sử dụng trên thị trường, thuốc đã bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế.
- Xây dựng các danh mục khuyến cáo sử dụng của Trung ương và từng tỉnh
giúp người nông dân lựa chọn đúng.
- Xây dựng lộ trình giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở
nước ta từ nay đến năm 2020 theo hướng:
- Giảm thiểu lượng thuốc sử dụng hàng năm khoảng 30 - 40% đặc biệt trên lúa,
rau, chè, quả, vùng nông sản xuất khẩu.
- Giảm số lượng hoạt chất trong danh mục 30 - 40%, số sản phẩm thương mại

cho 1 loại hoạt chất (tối đa 5).
- Nâng tỷ lệ thuốc sinh học, thuốc có độ độc thấp (nhóm 4,5), thuốc thân thiện
môi trường lên 40 - 60%.
-Tăng cường thanh kiểm tra khâu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, khâu ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật mới. Củng cố và nâng cao quyền lực của hệ thống thanh tra
chuyên ngành về BVTV, môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt xác
định rõ quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền cấp xã phường trong quản
lý, giám sát, kiểm tra việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Xây dựng và củng cố
về tổ chức và chính sách nội dung hoạt động của màng lưới dịch vụ bảo vệ thực
vật - khuyến nông cơ sở.
-Thống nhất việc xây dựng ban hành bộ tài liệu huấn luyện về quản lý, sản xuất
kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chương trình huấn luyện các quy
trình kỹ thuật ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới. Coi trọng huấn luyện CBKT, nông
dân, đại lý bán thuốc.
Quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay ở nước ta là 1 bài toán khó
nhưng cần được giải đúng.
4. Hiệu quả của SKKN.
-Nhằm nâng cao ý thức cho học sinh về:
+ Cách sử dụng thuốc BVTV
+Tuyên truyền cho mọi người cùng thực hiện
+ Tự mình nêu cao trách nhiệm
+ Biết cách xử lý khi bị nhiễm thuốc BVTV
+ Bảo vệ môi trường sống…
- Đối với giáo viên đồng nghiệp:
+ Lồng ghép , tích hợp kiến thức vào môn học cụ thể.

III. Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận
Qua nghiên cứu đề tài tôi rút ra kết luận sau:


18


- Khi nghiên cứu cần phai đi thực tế để hiểu được thực trạng của vấn đề
-Trên thực tế để làm được như trên không phải đơn giản,cần phải có sự phối
kết hợp của nhiều cơ quan ban ngành (trong đó có các nhà trường THPT..)
-Việc ứng dụng đề tài vào thực tiễn trong nhà trường cũng như ở địa phương
cũng gặp không ít khó khăn vì nhận thức của người nông dân va học sinh còn
hạn chế.
-Tuy nhiên,sau thời gian giảng dạy thực nghiệm,sự hiểu biết của học sinh về
thuốc BVTV được nâng cao,các em rất hào hứng vì được trải nghiệm thực tế
va hơn hết là biết cách bảo vệ sức khoẻ cho mình cho cộng đồng va bảo vệ môi
trường sông.
2. Kiến nghị.
Mặc dù phương pháp này vẫn còn nhiều khó khăn khi thực hiện nhưng nó cũng
tạo ra những chuyển biến tích cực trong dạy và học tích hợp
Tôi mong đây cũng là một đề tài được BGH nhà trường và đồng nghiệp quan
tâm để phát huy tốt hơn.
Do khả năng và thời gian có hạn nên đề tài còn nhiều thiếu sót,cần bổ
sung. Rất mong sự góp ý của các đồng chí để đề tài hoàn thiện tốt hơn

19


Tài liệu tham khảo

1.
2.
3.
4.

5.
6.

Nguồn tư liệu từ internet
Sách giáo khoa công nghệ 10
Một số tạp chi về BVTV nước ngoài
Một số ý kiến của các cửa háng thuốc BVTV huyện Nga Sơn
Nguồn tư liệu trên VTV đài truyền hinh Việt Nam
Tư liệu về hoá học của đồng nghiệp dạy hoá tại trường.

20



×