Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Đề cương bài giảng cờ vua 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐHSP THÁI NGUYÊN
KHOA THỂ DỤC THỂ THAO

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG CỜ VUA
(Tài liêu dùng cho sinh viên không chuyên)

GV Soạn: Ths. Ma Đức Tuấn

THÁI NGUYÊN – 2015



1

ĐỀ CƯƠNG MÔN HOC
CỜ VUA – CHESS
Mã số môn học: PHE126
- Số tín chỉ: 01
- Số tiết: 40 tiết. TH: 40 tiết
- Đánh giá:
+ Điểm kiểm tra : 30% ( Thực hành giải bài tập chiếu hết trong 2 nước
đi).
+ Điểm thi : 70% ( Thực hành giải bài tập chiếu hết trong 2 nước đi).
- Môn tiên quyết: không
- Môn học trước: GDTC 1 - PHE111
- Môn song hành: Không
- Ghi chú khác: Không
1. Nội dung tóm tắt môn học
Môn học trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng cơ bản
về môn Cờ vua. Đồng thời bồi dưỡng phương pháp giảng dạy, phương
pháp tập luyện, phương pháp tổ chức thi đấu, trọng tài trong cờ vua.


2. Tài liệu học tập
Ma Đức Tuấn - Đề cương bài giảng môn cờ vua dành cho sinh viên
không chuyên ngành Trường ĐHSP - ĐHTN 2015.
3. Tài liệu tham khảo
[1]- Giáo trình cờ vua: Đàm Quốc Chính (chủ biên) NXB ĐHSP 2004
[2]- Lý thuyết và TH cờ vua – Phùng Duy Quang (dịch) NXB TDTT 1996
4. Cán bộ tham gia giảng dạy
1. GV:Ths. Ma Đức Tuấn
GV khoa TDTT
2. GV: CN.Lê Đình Thành
GV khoa TDTT
5. Nội dung
Tuần

Nội dung

1

LT: Giới thiệu môn học Cờ Vua
TH: di chuyển quân trên bàn cờ cá nhân
LT: Những tri thức cơ bản trong môn cờ vua
TH : đấu tập trên bàn cờ cá nhân
LT: Những tri thức cơ bản trong môn cờ
vua(tiếp)
TH : đấu tập
LT: Giai đoạn Tàn Cuộc
TH: Giải bài tập tàn cuộc kỹ thuật

2
3


4

1

Tài liệu
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]

Ghi chú


2

5
6
7
8
9
10
11

12
13

14
15

LT: Giai đoạn Tàn Cuộc(tiếp)
TH: Giải BT cờ tàn chiến thuật - chiến lược
LT: Giai đoạn Khai Cuộc
TH: Đấu tập
LT: Một số khai cuộc cụ thể
TH: Đấu tập theo khai cuộc
LT: Giai đoạn Trung Cuộc
TH: Giải BT + Kiểm tra điểm thành phần
LT: Giai đoạn Trung Cuộc(tiếp)
TH: Đấu tập
LT: Một số đòn phối hợp cơ bản
TH: Đấu tập
LT: Lý luận và phương pháp giảng dạy cờ
vua
TH: Đấu tập
LT: Hình thức thi đấu trong cờ vua
TH: bốc thăm, xếp cặp thi đấu
LT: Hình thức thi đấu trong cờ vua(tiếp)
TH: Đấu tập
LT: Phương pháp thi đấu và trọng tài cờ vua
TH: Giải bài tập
Ôn tập, tổng kết chương trình môn học

2

[1]
[2]

[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]
[1]
[2]


3

MỤC LỤC

Trang

Chương 1. NHỮNG TRI THỨC CƠ BẢN CỦA MÔN THỂ THAO CỜ VUA


4

1.1. Nguồn gốc, lịch sử phát triển, xu hướng phát triển, đặc điểm tính
chất, tác dụng của môn Cờ Vua.

4

1.2. Bàn cờ, quân cờ và cách thức đi quân trong Cờ Vua

7

1.3. Các thuật ngữ chuyên môn trong Cờ Vua.

9

1.4. Những thông tin quy ước trong Cờ Vua.

10

1.5. Cách thức ghi chép biên bản trong Cờ Vua.

11

1.6. Giá trị tương đối của các quân.

11

Chương 2. LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC GIAI ĐOẠN VÁN

11


ĐẤU CỜ VUA.

2.1. Giai đoạn khai cuộc.

11

2.2. Giai đoạn trung cuộc.

12

2.3 Giai đoạn tàn cuộc.

18

Chương 3. LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY - TẬP LUYỆN CỜ

22

VUA

3.1. Mối tương quan giữa nội dung và phương pháp giảng dạy Cờ Vua.

22

3.2. Các nguyên tắc về phương pháp trong giảng dạy Cờ Vua.

23

3.3. Hình thức tổ chức giảng dạy - tập luyện trong Cờ Vua.


26

3.4. Trình tự giảng dạy trong cờ vua
Chương 4. CÁC HÌNH THỨC THI ĐẤU CỜ VUA

26

4.1.Thi đấu vòng tròn

26

4.2. Thi đấu Thụy Sỹ

27

Chương 5. THI ĐẤU VÀ TRỌNG TÀI CỜ VUA

29

5.1. Nguyên tắc chung về phương pháp tổ chức thi đấu và trọng tài Cờ Vua.

29

5.2. Phương pháp tổ chức thi đấu và trọng tài Cờ Vua.

29
33

BÀI TẬP THỰC HÀNH


Bài tập chiếu hết 1 nước

33

Bài tập chiếu hết 2 nước

36

3


4

CHƯƠNG 1. NHỮNG TRI THỨC CƠ BẢN CỦA MÔN CỜ VUA
1.1. Nguồn gốc, lịch sử phát triển, xu hướng phát triển, đặc điểm tính chất, tác
dụng của môn Cờ Vua.
a. Nguồn gốc của môn Cờ Vua.
Cờ Vua xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI sau công nguyên. Cho đến
ngày nay người ta không biết chính xác ngày tháng nào và ai là người khởi xướng
ra trò chơi này, chỉ biết rằng đây là một trò chơi phức tạp về đủ mọi phương diện:
Bàn cờ, hình thức quân, nhất là luật chơi, phong cách, đường lối, chiến thuật và
chiến lược. Ở Ấn Độ, người ta gọi trò chơi này là Chatugara có nghĩa là "4 thành
viên" phù hợp với 4 loại binh chủng của quân đội thời bấy giờ đó là: Chiến xa,
Tượng xa, Kỵ binh và Lục quân.
b. Lịch sử phát triển môn Cờ Vua trên thế giới.
Từ Ấn Độ trò chơi này được chuyển sang trung Á. Ở Ả rập, nó được mang
tên mới là Satơrăng và cũng từ Ả rập, Satơrăng theo những cuộc chiến tranh, buôn
bán... du nhập vào Tây Ban Nha, Italia rồi lan rộng ra khắp châu Âu
Ở châu Âu, Satơrăng lại được mang những tên mới ở mỗi nước như: Schanh

(Đức), Sacch (Tiệp), Szchung (Ba lan), Chess (Anh), Echess ở Pháp v.v...
Đến thế kỷ thứ XIX, luật chơi Cờ Vua được hoàn thiện cơ bản như ngày
nay. Cũng trong thời kỳ này (thế kỷ XVI - XVII), các trường phái cờ bắt đầu xuất
hiện như trường phái Italia (1600 - 1634), trường phái Kalabri - Pôlôria, Xenviô,
Klêva... Với tư tưởng chủ đạo là phối hợp chiến thuật. Sang thế kỷ thứ XVIII,
hệ thống lý thuyết Cờ Vua cũng đạt đến đỉnh cao và vào thời kỳ này A.Philiđô
(1726 - 1795), vận động viên Cờ Vua kiệt xuất người Pháp, đã đưa ra cho công
chúng một lối chơi mới - lối chơi thế trận liên hoàn.
Thế kỷ thứ XIX là sự kết hợp hài hoà giữa lối chơi phối hợp chiến thuật
và lối chơi thế trận liên hoàn do các VĐV Cờ Vua nổi tiếng như: Vimhem
Xtâynic, Alecxanđơ Pêtơrốp, Mikhain Trigôrin... đưa ra, và đây cũng chính là một
trong những trường phái mạnh của Cờ Vua hiện đại.
Cũng trong thời kỳ này Philíp Xtamma đã đi vào lịch sử môn Cờ Vua - là
người đã có công nghiên cứu để hoàn thiện các ký hiệu trên bàn cờ (hàng, cột, ô).
Năm 1883, một thợ đồng hồ người Anh tên là Uynxơn đã sáng chế ra đồng hồ
chuyên dụng trong thi đấu Cờ Vua và loại đồng hồ này vẫn được sử dụng trong các
cuộc thi đấu Cờ Vua hiện nay.
Năm 1886, bắt đầu tổ chức giải vô địch Cờ Vua thế giới giành cho Nam, và
tới năm 1927 giải vô địch giành cho Nữ mới được tổ chức. Cho đến nay đã có 14
nhà vô địch nam và 8 nhà vô địch nữ.
Năm 1824, Liên đoàn Cờ Vua thế giới (Fédération Internationale Des
Échecs - viết tắt là FIDE) được thành lập.
Thế vận hội Ôlimpic Cờ Vua được tổ chức tách biệt với thế vận hội của các
môn thế thao khác, thế vận hội Cờ Vua được thiết lập vào năm 1927, sau đó cứ 2
năm tổ chức một lần.
4


5


c. Xu hướng phát triển Cờ Vua trên thế giới:
Điểm lại sự phát triển của phong trào Cờ Vua thế giới trong những năm gần
đây cho thấy có 2 xu hướng đặc biệt cần quan tâm:
- Thứ nhất: Việc huy động các nguồn lực của xã hội cho sự phát triển của
môn thể thao này có thể gọi theo xu hướng "thương mại hoá Cờ Vua". Chúng ta
đều biết rằng, cho đến thời điểm hiện tại, trị giá các giải thưởng trong các giải vô
địch Cờ Vua thế giới đã lên đến con số hàng triệu - điều mà trước nay không hề có.
Đặc biệt, sự ra đời của "hiệp hội Cờ Vua nhà nghề thế giới - PCA" là minh chứng
rõ nhất cho xu thế này. Và vì vậy, dường như trên thế giới tồn tại 2 dạng Cờ Vua
"lớn" và "nhỏ" mà trong đó Cờ Vua "lớn" chỉ giành cho những VĐV có trình độ
cao với tính chất chuyên nghiệp, và được sự bảo trợ của các tập đoàn tài chính kinh
tế lớn, còn Cờ Vua "nhỏ" có thể coi như Cờ Vua quảng đại quần chúng.
- Thứ hai: Căn cứ vào thành tích đỉnh cao của các VĐV Cờ Vua trên thế giới
trong những năm gần đây, có thể khẳng định rằng, xu hướng thứ hai của Cờ Vua
thế giới hiện nay là: "xu hướng quay về cội nguồn". Thực tế đã cho thấy, trong số
14 nhà vô địch thế giới nam về Cờ Vua thì có tới 11 là người châu Âu, 2 là người
châu Mỹ và nhà vô địch thế giới thứ 14 là người châu Á. Còn trong 8 nhà vô địch
nữ thì hai nhà vô địch thứ 6 và 7 là người châu Á (thuộc hệ thống giải của FIDE).
Và hiện nay, trong giải Cờ Vua thế giới lứa tuổi trẻ (dưới 20) thì các VĐV Cờ Vua
châu Á cũng chiếm những vị trí cao nhất, trong đó có hai nhà vô địch là người Việt
Nam (Đào Thiện Hải - vô địch thế giới lứa tuổi 16; Nguyễn Thị Dung - vô địch thế
giới lứa tuổi 12).
d. Sơ lược lịch sử phát triển môn Cờ Vua ở Việt Nam.
Liên đoàn Cờ Việt Nam (tiền thân là hội Cờ Tướng Việt Nam) được thành
lập ngày 14/02/1965 tại Nhà khai trí kiến thức (nay là Trung tâm phương pháp Câu
lạc bộ - 14 Lê Thái Tổ Hà Nội). Trong hoàn cảnh chiến tranh chống đế quốc Mỹ,
Hội Cờ tướng Việt Nam đã tổ chức được 3 giải vô địch toàn miền Bắc và mời đoàn
Cờ Tướng Trung Quốc sang thi đấu hữu nghị. Tháng 8 năm 1976, Việt Nam nhận
được thư mời tham dự cuộc thi đấu Cờ Vua tổ chức tại thành phố Tôvipôli (thủ đô
Libi) do Liên đoàn Cờ của các nước Ả Rập tổ chức và Libi là nước đăng cai.Tổng

cục TDTT đã cử một đoàn đến tham dự với tư cách là quan sát viên. Đại hội lần
này có 44 nước tham gia với đủ các thành phần lứa tuổi nam, nữ, có VĐV nữ 13 14 tuổi, có vị là nghị sỹ quốc hội ở tuổi 60.
Năm 1978 Tổng cục TDTT đã ra chỉ thị số 73/CT để hướng dẫn phong trào
Cờ Vua trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh thiếu niên, học sinh.
Ngày 05/08/1980 Bộ Giáo dục đã ra văn bản số 1787/TDQS về việc chính
thức đưa Cờ Vua vào giảng dạy trong các trường phổ thông, các trường Cao đẳng,
Đại học sư phạm và trường Đại học TDTT trên phạm vi toàn quốc.
Ngày 15/12/1980, Hội Cờ được thành lập lại, lấy tên là Hội Cờ Việt Nam, và
Cờ Vua Việt Nam bước đầu đã phát triển sâu, rộng ở mọi đối tượng trong xã hội.
Tháng 10/1984, Hội Cờ Việt Nam chính thức là thành viên của Liên đoàn
Cờ châu Á và năm 1988, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên của
Liên đoàn Cờ Vua thế giới (FIDE).
5


6

Cuối năm 1991, Hội Cờ tổ chức Đại hội toàn quốc lần II và đổi tên thành
Liên đoàn Cờ Việt Nam. Cũng từ Đại hội này, môn Cờ Tướng được đưa vào thi
đấu. Như vậy, quá trình tồn tại và phát triển của Liên đoàn Cờ Việt Nam đã có một
bề dày thời gian và lịch sử hào hùng, tuy bước hội nhập của môn Cờ vào làng Cờ
khu vực và thế giới còn ngắn ngủi (Cờ Vua năm 1988, Cờ Tướng năm 1993),
nhưng Liên đoàn Cờ Việt Nam đã đóng góp cho làng Cờ khu vực và thế giới 18
Kiện tướng FIDE, Kiện tướng quốc tế, và 2 Đại kiện tướng...
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Liên đoàn Cờ Việt Nam đã được tổ chức
vào ngày 28/09/1997. Đại hội đã tổng kết và đề ra phương hướng hoạt động đổi mới
nhằm đẩy mạnh sự phát triển môn Cờ Vua, Cờ Tướng nước ta trong giai đoạn mới.
Hàng năm, giải Cờ Vua cho các đối tượng được tổ chức rộng rãi. Đỉnh cao
về qui mô phong trào là các giải Cờ Vua A1, A2, giải các đấu thủ mạnh, cũng như
giải Cờ Vua cho học sinh, sinh viên được tổ chức định kỳ và đặc biệt giải Cờ Vua

trong khuôn khổ Hội khỏe phù đổng II (1992), Hội khỏe phù đổng III (1996), mỗi
giải đều có trên 500 VĐV nam nữ tham gia. Ngoài các giải trong nước, đội tuyển
Cờ Vua quốc gia với các lứa tuổi đã được hình thành thông qua các giải toàn quốc.
Các đội tuyển đó thường xuyên tham dự các giải thi đấu quốc tế và đã gặt hái được
không ít những thành công: Đạt 4 huy chương vàng lứa tuổi từ 12 đến dưới 20 và
được FIDE phong cấp Đại kiện tướng thế giới cho 2 VĐV, cùng với gần 20 VĐV
khác đạt danh hiệu Kiện tướng thế giới, Kiện tướng FIDE. Gần đây nhất tại các
giải vô địch Cờ Vua châu Á, giải trẻ thế giới, các VĐV Việt Nam một lần nữa lại
chứng tỏ được khả năng và trình độ của mình trong môn thể thao này.
e. Xu hướng phát triển môn Cờ Vua ở Việt Nam.
Đến nay, Cờ Vua là một trong 10 môn thể thao mũi nhọn của nước ta và
đang được đầu tư, quan tâm phát triển để phục vụ cho mục tiêu chiến lược mà
ngành TDTT đã đề ra.
Ngày 28/09/1997, Đại hội toàn quốc Liên đoàn Cờ Việt Nam lần thứ III
được tổ chức tại thành phố Hà Nội, đại hội đã đề ra 2 mục tiêu của môn Cờ Vua
Việt Nam và đây cũng là hai xu hướng phát triển của Cờ Vua Việt Nam trong giai
đoạn tới là:
- Phải có phong trào phổ biến, sâu rộng trong cả nước, đặc biệt là trong các
trường học. Đây cũng là xu hướng thứ nhất của Cờ Vua Việt nam: Xu hướng
quần chúng hoá môn Cờ Vua.
- Giành huy chương từ 2 đến 3 hạng tuổi ở các giải trẻ thế giới; Đạt thứ hạng
10 nước hàng đầu đối với đội nữ và 20 nước hàng đầu đối với đội nam trong giải
Olimpic Cờ Vua thế giới; Đạt thứ hạng 5 giải đồng đội và giải vô địch cá nhân châu
Á, riêng đội nữ và giải cá nhân phấn đấu có huy chương...Đây là xu hướng phát triển
thứ hai của Cờ Vua Việt Nam: Xu hướng hội nhập trình độ thế giới.
f. Đặc điểm, tính chất và tác dụng của môn Cờ Vua.
Cờ Vua là môn thể thao có tác dụng phát triển tư duy lôgic, luyện trí thông
minh, giáo dục những phẩm chất tốt đẹp như tính tổ chức kỷ luật, kiên cường bình
tĩnh, luyện mưu trí, óc sáng tạo, luyện cách nhìn xa trông rộng biết phân tích, tổng
hợp tình hình một cách khách quan khoa học, rèn luyện cách làm việc có kế hoạch,

tính quyết đoán và táo bạo trong xử lý tình huống.
6


7

Chơi Cờ Vua, chính là góp phần xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa,
nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, thực hiện việc trao đổi văn hóa
TDTT với các nước trên thế giới. Chơi cờ là một môn giải trí tao nhã, tạo ra cảm
giác sảng khoái của sự sáng tạo và mưu trí, bởi có sự biến hóa kỳ diệu trong mỗi
nước cờ, mỗi thế biến.
1.2. Bàn cờ, quân cờ và cách thức đi quân trong Cờ Vua.
a. Bàn cờ - quân cờ và vị trí ban đầu.
- Bàn cờ:
+ Bàn cờ gồm 64 ô vuông bằng nhau, xen kẽ các ô sáng màu và các ô sẫm
màu.
+ Các cột dọc (a - h); các hàng ngang (1 - 8); đường chéo.
+ Ký hiệu các ô cờ.
- Quân cờ và vị trí ban đầu của các quân: Khi bắt đầu ván cờ, một đấu thủ
có 16 quân màu sáng, đấu thủ kia có 16 quân màu sẫm (Hình 1).
b. Cách di chuyển quân.
Quân cờ
Biểu tượng
Một Vua
Một Hoàng Hậu
Hai Xe
Hai Tượng
Hai Mã
Tám Tốt
Hình 1

- Nguyên tắc đi quân: Không được di chuyển một quân tới ô có quân cùng
màu đang đứng. Nếu một quân đi tới một ô cờ đang có quân của đối phương đứng
thì quân của đối phương bị bắt, được bỏ ra khỏi bàn cờ và tính là một phần của
nước đi đó.
- Quân Tượng: Quân Tượng có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên cùng đường
chéo mà nó đang đứng (Hình 2)
- Quân Xe: Quân Xe có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên cùng cột dọc hoặc
hàng ngang mà nó đang đứng. (hình 3)

Hình 3- Cách đi quân Xe

Hình 2 – Cách đi quân Tượng

7


8

- Quân Hoàng Hậu (gọi tắt là Hậu): Quân Hậu có thể đi tới bất cứ ô cờ nào trên
cùng cột dọc, hàng ngang hoặc đường chéo mà nó đang đứng.(hình 4)
- Quân Mã: Quân Mã có thể đi theo đường chéo của hình chữ nhật gồm 6 ô
cờ (hình 5)

Hình 4 – Cách đi của quân Hậu

Hình 5 – Cách đi của quân Mã

- Tốt: Đi thẳng, ăn chéo
+ Nước đi đầu tiên của mình Tốt có thể
đi 1 hoặc 2 ô cờ.

+ Bắt quân: ăn chéo 1 ô.
+ Bắt Tốt qua đường: Khi Tốt đối
phương từ vị trí ban đầu tiến hai ô vượt qua ô
cờ đang bị Tốt bên có lượt đi kiểm soát, thì
Tốt bên có lượt đi có thể bắt Tốt đối phương
vừa đi hai ô như khi Tốt đó thực hiện nước đi
Hình 6 – Cách đi của quân Tốt
một ô. (hình 6)
- Phong cấp: Khi một Tốt tiến tới hàng ngang cuối cùng nó phải được đổi
thành Hậu, hoặc Xe, hoặc Tượng, hoặc Mã cùng màu, ngay trong nước đi này. Sự
lựa chọn để đổi quân của đấu thủ không phụ thuộc vào các quân đã bị bắt trước đó.
Sự đổi Tốt thành một quân khác được gọi là “phong cấp” cho Tốt và quân mới có
hiệu lực ngay.
- Quân Vua: Quân Vua đi từ ô cờ nó đang đứng tới một ô bất kỳ liền bên
nếu ô cờ đó không bị quân nào của đối phương tấn công (Hình 7).
- Quân Vua được coi là “bị chiếu” nếu như
nó bị một hay nhiều quân của đối phương tấn
công.Việc thông báo nước chiếu Vua là không bắt
buộc.
Các quân không được phép di chuyển nếu
nước đi đó đặt Vua hoặc để Vua của mình ở thế bị
chiếu.
- Nhập thành: Nhập thành đây là một nước
đi của Vua và một trong hai Xe cùng màu, và được
thực hiện như sau: Vua di chuyển ngang hai ô từ vị Hình 7- Cách đi quân Vua
trí ban đầu sang phía Xe tham gia nhập thành, tiếp theo Xe nói trên di chuyển nhảy
qua Vua tới ô cờ quân Vua vừa đi qua.
Điều kiện để nhập thành:
+ Giữa Vua và Xe không có quân nào cản trở.
8



9

+ Vua và Xe nhập thành phải chưa di chuyển.
+ Vua không bị chiếu.
+ Không có quân kiểm soát mà Vua đi qua khi thực hiện nước nhập thành.
- Chiếu hết: Nếu một đấu thủ quân thực hiện nước đi tấn công vua đối
phương (chiếu Vua) mà bên kia không thể chống đỡ nước đi đó bằng nước đi hợp
lệ thì bị coi là chiếu hết.
c. Bài tập thực hành.
- Bài 1: Tượng trắng có thể bắt quân
- Bài 2: Xe trắng có thể bắt được
những quân Đen nào ở hình dưới đây
những quân nào Đen ở hình dưới:

Bài 3: Hậu trắng có thể bắt được Bài 4: Mã trắng có thể bắt được những
những quân Đen nào ở hình dưới:
quân Đen nào ở hình dưới:

Bài 5: Tốt trắng có thể bắt được những Bài 6: Vua Trắng có thể bắt những
quân Đen nào ở hình dưới:
quân Đen nào ở hình dưới

1.3. Các thuật ngữ chuyên môn trong Cờ Vua.
- Pát: Là trường hợp hòa cờ do hết nước đi và Vua không bị chiếu. Khi một
thế cờ trong đó đến lượt đi của mình đấu thủ không thể thực hiện được nước đi
quân hợp lệ (theo luật).
- Xucxvăng: Là tình thế bó buộc - tức là bên có lượt đi bắt buộc phải thực
hiện nước đi dẫn tới một thế cờ kém hơn. Nguồn gốc bắt nguồn từ tiếng Đức xuc

là nước đi, xvăng là bắt buộc.
9


10

- Temp: Là nhân tố thời gian của một nước đi. Vì vậy có nước đi lợi temp có
nước đi thiệt temp. Lợi một temp tương đương với lợi một nước đi và ngược lại,
khi nói bị thiệt temp có nghĩa là thiệt nước đi.
- Chiếu mát: Khi đối thủ đến lượt đi của mình, không thể đưa Vua của mình
thoát khỏi nước chiếu của đối phương bằng một trong 3 cách:
+ Tiêu diệt quân đang chiếu.
+ Dùng quân cờ khác che chắn cho Vua.
+ Di chuyển Vua đến một ô cờ khác hợp lệ.
1.4. Những quy ước thông tin trong Cờ Vua (dùng trong nghiên cứu tài liệu
chuyên môn Cờ Vua).
a. Ký hiệu các quân cờ.
QUÂN CỜ

TIẾNG VIỆT

TIẾNG NGA

TIẾNG ANH

TIẾNG ĐỨC

Quân Vua

V


p

K

K

Quân Hậu

H



Q

D

Quân Xe

X



R

T

Quân Tượng

T


C

B

L

Quân Mã

M



N

S

Quân Tốt
Không có ký hiệu, mà ký hiệu chính là ô quân Tốt đó đứng
b. Các ký hiệu để ghi chép ván đấu và nghiên cứu tài liệu.(xem bảng ký hiệu
thông tin quy ước)
BẢNG KÝ HIỆU THÔNG TIN QUY ƯỚC TRONG CỜ VUA

+
=
=
+
+
_
_

+
+
+
=

=


Bên Trắng có ưu thế nhỏ.

Ô yếu, điểm yếu.



Bên Đen có ưu thế nhỏ.
Bên Trắng có ưu thế lớn.
Bên Đen có ưu thế lớn.
Bên Trắng có ưu thế quyết định.
Bên Đen có ưu thế quyết định.
Thế cờ cân bằng.
Thế cờ không rõ ràng.



Thế cờ có bù đắp về chất.
Với sự tấn công.



Với việc phát triển ưu thế.


!
!!

Phản công.
Xuxvăng (tình thế bó buộc).
Chiếu hết (chiếu Mat).
Nước đi mạnh.
Nước đi rất mạnh.

Chuyển về tàn cuộc.
Ưu thế hai Tượng.
Hai Tượng khác màu.
Hai Tượng cùng màu.
  Tốt liên kết.
 ... Tốt cô lập.

Tốt chồng.




Tốt thông.
Với ý đồ.
Nước đi duy nhất

Tốt hơn, tốt hơn là.
 Hàng ngang.
Đường chéo.
Nước đi duy nhất

Cánh Vua.

10


11

?

Nước đi yếu.

??
!?
?!

Nước đi sai lầm.
Nước đi đáng chú ý.
Nước đi gây tranh luận.


+
+
:

Cánh Hậu.
Trung tâm.
Nước chiếu.
Ăn quân, nước đi ăn quân.

1.5. Cách thức ghi chép biên bản trong Cờ Vua.

Là chỉ ghi thứ tự nước đi cùng với vị trí mà quân cờ nào đó dịch chuyển tới.
Trong trường hợp nhiều quân tới được vị trí đó, thì cần thiết phải sử dụng thêm
hàng ngang hoặc cột dọc của quân cờ đó ở vị trí ban đầu để làm sáng tỏ nước đi.
Ví dụ:
- Tốt Trắng ở ô e2 đi lên ô e4 ở nước đi thứ sáu được ghi là 6. e4
- Mã từ ô g1 lên ô f3 ở nước đi thứ năm của Trắng được ghi là: 5. Mf3
Hai quân Mã, một ở ô f3, một ở b1 cùng đến được ô d2, thì phải ghi rõ
Mfd2, hoặc Mbd2. Tương tự như vậy, nếu nó cùng nằm ở trên một cột thì dùng
hàng ngang để biểu thị nước đi: M1d2 hoặc M3d2 ...
1.6. Giá trị tương đối của các quân.
Qua lý luận và thực tiễn thi đấu Cờ Vua, giá trị tương đối của các quân được
đánh giá theo thang điểm như sau:
Tốt: 1 điểm; Mã: 3 điểm; Tượng: 3 điểm; Xe: 4,5 điểm ; Hậu: 9 điểm
Với giá trị các quân như vậy Mã, Tượng được liệt vào loại quân nhẹ; Hậu
và Xe là những quân nặng.
Theo thang điểm trên, khi đổi quân bên nào mất ít điểm hơn bên đó có ưu
thế về lực lượng.
Không thể định giá trị cho quân Vua, vì bản thân nó không thể nào đánh đổi
được, bởi khi mất Vua - bị đối phương chiếu hết - có nghĩa là thua cuộc.
Giá trị của các quân cờ được định ra như trên chỉ mang tính chất tương đối,
bởi lẽ thực tế trong các ván đấu, thường thấy xuất hiện những trường hợp mà giá
trị các quân bị đảo lộn, thể hiện rõ nhất là trong đòn phối hợp. Laxker - cựu vô
địch Cờ Vua thế giới đã viết: "Đòn phối hợp đã bác bỏ hoàn toàn giá trị giả dối
của các quân cờ". Tại mỗi thế cờ cụ thể các quân cờ sẽ được đánh giá khác đi. Có
những quân như Hậu bằng 9 điểm, thì đôi khi lại không có giá trị bằng Xe hoặc
Mã, hoặc Tượng.

11



12

CHƯƠNG 2. LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA VÁN ĐẤU
2.1. Giai đoạn khai cuộc.
a . Khái niệm khai cuộc.
Khai cuộc là giai đoạn đầu của ván đấu, tại đây hai bên đều nhanh chóng
phát triển lực lượng sao cho phù hợp với ý đồ chiến lược và chiến thuật đã định
trước trong mỗi dạng thức khai cuộc.
Theo quan điểm chung nhất, khai cuộc là sự tập trung huy động các
quân của hai bên tham chiến. Trong giai đoạn này, cần phải tiến Tốt lên chiếm giữ
trung tâm và tạo không gian để phát triển Tượng và Mã. Sau khi các quân nhẹ như
Tượng và Mã phát triển, thì có thể nhập thành (đưa Vua vào vị trí an toàn), đưa Xe
ra các cột mở. Đến đây, về cơ bản thì lực lượng hai bên đã phát triển xong.
Tất cả các điều vừa trình bày ở trên, đã được tổng kết thành một số nguyên
tắc mà người mới học chơi cờ phải tuân thủ để tránh xảy ra những sơ xuất ngay từ
những nước đi đầu tiên. Nếu tuân thủ triệt để những nguyên tắc này thì sẽ nhận
được những thế cờ tốt, ngay cả trong những phương án không quen biết.
b. Các nguyên tắc khai cuộc.
Các nguyên tắc này là những lý luận đã được đúc rút ra từ thực tiễn thi đấu.
Nếu không tuân thủ chúng thì sẽ dễ dàng bị thất bại.
Dù ý đồ chiến lược có khác nhau như thế nào trong mỗi dạng thức, nhưng
trong giai đoạn khai cuộc những người chơi cờ đều phải tuân thủ theo các nguyên
tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Nhanh chóng khống chế khu trung tâm.
Trong khai cuộc, việc tranh giành quyền kiểm soát trung tâm đóng vai trò
quan trọng. Bởi vì, ở trung tâm các quân có thể phát huy tối đa sức mạnh của mình.
Từ trung tâm, lực lượng có thể huy động tới tất cả các hướng nhanh nhất và khống
chế được các ô cờ ở mức tối đa. Quân Hậu đứng ở trung tâm sẽ khống chế được 27
ô cờ, còn ở góc chỉ khống chế được 23 ô. Mã ở trung tâm khống chế được 8 ô cờ,

còn ở góc chỉ khống chế được 2 ô cờ. Vì vậy, trung tâm chính là điểm xuất phát để
tấn công hay phòng thủ. Trong cuộc chiến giành khu trung tâm, các Tốt đóng vai
trò đặc biệt. Tiến Tốt vào trung tâm sẽ dồn các quân đối phương vào các vị trí bất
lợi, tạo điều kiện cho các quân của mình chiếm giữ những vị trí tích cực. Từ đó,
cho phép chúng tự do cơ động ở bất cứ khu vực nào của bàn cờ dù ở chính trung
tâm hay các cánh. Đó chính là lý do tại sao các ván cờ thường bắt đầu bằng các
nước tiến Tốt vào trung tâm: 1. e4; 1. d4 hoặc 1. c4.
Ví dụ: 1. e4 e5 2. Mf3 f6? Nuớc đi yếu! Tốt Đen đã chiếm một vị trí kiểm
soát trung tâm rất mạnh của Mã g8, thêm vào đó là làm yếu mặt Vua và cản trở các
quân phát triển. Sau nước đi này, Trắng có ưu thế lớn.
3. Me5 Trắng thí Mã 3...ef 4. Hh5+. Bây giờ nếu 4...g6 thì 5.He5+ và 6.Hh8
4...Ve7 5.He5+ Vf7 6.Tc4+ Vg6 7.Hf5+ Vh6 8.d4+ g5 9.h4 Te7 10.hg+
Vg7 11.Hf7 .
- Nguyên tắc 2: Triển khai nhanh chóng và hài hoà toàn bộ lực lượng.
Để đảm bảo nguyên tắc này, người chơi cần tiến hành phát triển lực lượng
của mình theo trình tự sau:
12


13

+ Tiến Tốt (cột c, d, e) lên chiếm giữ và khống chế trung tâm. Mở đường
cho Hậu và Tượng triển khai.
+ Phát triển các quân nhẹ về hướng trung tâm(Tượng và Mã).
+ Nhập thành (đưa Vua vào vị trí an toàn).
+ Đưa các quân nặng (Hậu và Xe) ra những vị trí thuận lợi để tham chiến.
Người mới học chơi cờ, hay coi thường việc phát triển lực lượng theo
nguyên tắc. Thực hiện nhiều nước đi bằng một quân, hoặc tham ăn Tốt đối
phương... Như vậy, rất dễ thất bại. Ví dụ sau sẽ chứng minh rõ điều đó:
1.e4 e5 2.Mf3 Mc6 3.Tb5 Mf6 4.0-0 ...

Trắng thí Tốt nhằm phát triển lực lượng thật nhanh (nuớc thí là tình nguyện
bỏ Tốt hoặc quân cho đối phương nhằm phát triển nhanh lực lượng để tổ chức tấn
công hoặc làm mạnh hơn thế cờ của mình). Lối chơi này, ở giai đoạn đầu của ván
cờ được gọi là: "Gambít".
4...Me4? Đáng lẽ Đen phải nhanh chóng phát triển quân bằng cách lên
Tượng để chuẩn bị nhập thành.
5.d4... Trắng vừa kết hợp phát triển vừa khống chế đối phương triển khai lực
lượng của mình. Bằng nước đi này, Trắng buộc Đen phải tiếp tục đi một quân, nói
cách khác là dậm chân tại chỗ.
5...Md6 6.Tb6 bc 7.de Mb7. Sau 7 nước đi, bên Đen đã đi Mã tới 4 lần, lực
lượng còn lại triển khai quá chậm.
8. Md4 Te7 9. Mf5 Tf8? Nuớc đi quá yếu! Sau 9 nước đi, Đen chỉ đưa
được Mã đến ô b7. Trong khi bên Trắng đã có đủ lực lượng để tấn công.
10.Xe1 g6? 11.Md6! Td6 12.ed+ Vf8 134.Th6+ Vg8 14.Hd4 f6 15.Hc4 .
Càng có nhiều quân tham gia vào cuộc chiến, vị trí đứng của các quân tích
cực, hài hòa, thì khả năng tổ chức tấn công vào đối phương càng có hiệu quả.
Ngược lại, khi chưa phát triển đủ lực lượng đã ham tấn công sớm sẽ gặp thất bại.
Một trong những sai lầm thường gặp khi phát triển quân là đưa Hậu lên
tham gia tấn công quá sớm. Hậu là quân rất mạnh, vì thế việc đưa Hậu tham gia
tấn công thiếu suy nghĩ, rất dễ bị các quân yếu hơn của đối phương tấn công. Hậu
sẽ mất thời gian (temp) chạy, tạo điều kiện cho đối phương triển khai lực lượng
của mình.
- Nguyên tắc 3: Xây dựng cấu trúc Tốt vững chắc.
Tuy là quân cờ yếu nhất và kém cơ động nhất, nhưng Tốt có ảnh hưởng rất
lớn đến tính chất của thế cờ. Tốt là yếu tố tích cực khi cơ động quân, chưa nói đến
khả năng phong cấp của chúng. Khi di chuyển về phía trước,Tốt hạn chế sự cơ
động của các quân đối phương, nhất là ở trung tâm. Vì vậy, trong giai đoạn đầu
của ván cờ, điều quan trọng là phải bố trí cấu trúc Tốt như thế nào cho hợp lý, vừa
chiếm được không gian, vừa mở đường cho các quân khác triển khai. Nếu đi Tốt
thiếu suy nghĩ sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn.

Ví dụ: 1. d4 c5 2. dc Đen tạm thời hy sinh Tốt để phá vỡ áp lực của Tốt
Trắng ở trung tâm. 2... e6, một trong những cách bắt lại Tốt. 3. b4? Nước đi yếu,
trái với nguyên tắc xây dựng cấu trúc Tốt vững chắc. Bởi vì, Tốt dâng quá cao sẽ là
mục tiêu cho đối phương tấn công và làm suy yếu thế trận của mình. Mạnh nhất là
nên chơi 3.Mf3 hoặc 3.Mc3 hay 3.e4. Ván cờ tiếp diễn như sau: 3...a5 4.c3 Trắng
13


14

tìm mọi cách giữ Tốt. 4... ab 5. cb Hf6! Hậu xuất trận sớm trong trường hợp này là
chính xác vì có mục tiêu rõ ràng. Xe yếu trên đường chéo a1 - h8, Trắng mất
Tượng hoặc Mã và xin thua.
Trong thế cờ ban đầu, điểm yếu nhất của cả 2 bên là Tốt f2 và Tốt f7, bởi lẽ
chúng chỉ được bảo vệ bằng Vua, nên khi chưa kịp nhập thành sẽ rất dễ bị tấn
công.
Trong ván đấu với Lixuxin năm 1944, nhà vô địch thế giới M. Bốtvinnhích
cầm quân Đen đã bố trí các Tốt của mình rất hoàn hảo (Hình 3).
Các Tốt Đen khống chế các ô trung tâm, các quân ở sau được bố trí rất thuận
lợi. Còn các quân của bên Trắng thì rất gò bó. Và Bốtvinnhích đã giành được thắng
lợi không mấy khó khăn.
c. Phân loại khai cuộc:
Thuật ngữ "Khai cuộc" dùng để chỉ giai đoạn ra quân, có hàng loạt các kiểu
ra quân với tên gọi khác nhau như phòng thủ Ấn Độ, phòng thủ Xixilia, phòng thủ
Alêkhin... Và mỗi loại khai cuộc trên đều có nguồn gốc, xuất xứ tên gọi của nó.
Người ta chia khai cuộc ra thành 3 hệ thống: Hệ thống khai cuộc thoáng, hệ
thống khai cuộc nửa thoáng và hệ thống khai cuộc kín.
+ Hệ thống khai cuộc thoáng là những khai cuộc được bắt đầu bằng nước
đi 1.e4 e5.
+ Hệ thống khai cuộc nửa thoáng là những khai cuộc được bắt đầu bởi

Trắng đi 1. e4 nhưng Đen đáp lại khác e5 (1. e4 # e5).
+ Hệ thống khai cuộc kín là những khai cuộc được bên Trắng bắt đầu bằng
nước đi không phải là 1.e4 (1.# e4 ...).
d. Một số khai cuộc cụ thể:
* Ván cờ Ý (Khai cuộc thoáng):
1. e4
e5
2. Mf3
Mc6
3. Tc4
Tc5.
Ván cờ Italia xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ thứ XVII.
Danh thủ kiệt xuất Gekinô Grêcô là người đề xướng, Ông đã để lại nhiều bài phân
tích mang tên ván cờ Ý. Ý đồ chiến lược chung của bên Trắng là tấn công trung
tâm bằng các Tốt và đe dọa các điểm yếu f7 và h7. Từ đó đến nay, ván cờ Ý đã
được nghiên cứu rất kỹ và đến gần đây người ta cho rằng khó mà tìm ra những con
đường mới trong khai cuộc này. Các Kiện tướng và Đại kiện tướng ít khi sử dụng
khai cuộc này trong thi đấu. Tuy nhiên, theo truyền thống, thông thường việc học
khai cuộc thường bắt đầu với khai cuộc ván cờ Ý. Các tư tưởng chiến lược, các kế
hoạch chơi điển hình, các đòn chiến thuật đặc trưng cho ván cờ Ý tương đối đơn
giản, dễ hiểu, dễ nhớ và đã được nghiên cứu kỹ lưỡng. Sau nước đi thứ 3, bên
Trắng có 2 phương án chơi chính: Phương án thứ 1 gắn liền với sự phát triển đối
xứng, yên tĩnh. Phương án thứ 2 đặt cơ sở trên những cố gắng của Trắng nhằm đạt
được ưu thế trong khai cuộc bằng cách chiếm trung tâm, cuộc chiến do đó thành ra
gay gắt, sôi động.
14


15


Phương án này sôi động với ý đồ chiến lược chơi của Trắng là mở trung tâm
bằng nước đi d4 sau khi đẩy Tốt c3. Kết thúc khai cuộc, thông thường bên Trắng
tấn công cánh Vua còn bên Đen phản công ở trung tâm và cánh Hậu .
4. c3
Trắng chuẩn bị cho cuộc tấn công vào trung tâm bằng các Tốt.
4...
Mf6 !
Đen tấn công ngay Tốt e4. Sau nước đi thiếu tích cực 4... d6 5. d4 e:d4
6.c:d4 Tb6 7. Mc3 và thế cờ của Đen rất gò bó.
5. d4
6. cd

ed

Cần lưu ý nước đi 6. e5!? của Trắng, mọi đường rút lui của Mf6 đều bất lợi
cho Đen. Nhưng Đen có thể đáp lại tích cực hơn bằng 6...d5! 7. ef cd 8.fg Xg8 9.
Tg5 f6 10. He2 He7 11. Tf6 He2 + 12. Ve2 d3 13. Vd1 Tg4 Với thế trận tích cực
cho Đen.
6 ...
Tb4+
7.Td2
Td2
8.Mbd2
d5
9.ed
Md5
10.Hb3
Mce7
11.0-0
0-0

12.Xfe1
c6
13.a4
Hc7
(Nếu 13...Hd6 14.Me4 Hf4 15.Mc5 Tf5 16.g4 g5 17.Me5 Md4 18.Ha3 =)
14.Xac1
Hf4 =
* Phòng thủ Pháp
Phòng thủ Pháp là thuộc loại khai cuộc nửa thoáng nên nhịp độ trận đấu có
chậm hơn so với các loại khai cuộc thoáng.
1. e4
e6
2.d4
d5
Bên Đen củng cố vững chắc các ô trung tâm - ô d5 bằng e6, Đen có thế cờ
chặt chẽ. Khuyết điểm vốn có ở khai cuộc này là Tượng c8 của Đen rất khó phát
triển, vì thế bên Đen phải thường xuyên chú ý đến việc tăng cường tính tích cực
của quân Tượng này. Đặc điểm của cuộc đấu được thể hiện qua các hệ thống phát
triển quân. Khai cuộc này có tên gọi như vậy từ sau khi trận đấu của Pazit - VĐV
cờ người Pháp thắng lợi tại Luân đôn năm 1934.
3.e4 -e5.
Cách bố trí Tốt đặc biệt ở trung tâm thường quyết định đặc điểm của ván cờ
tiếp sau. Bây giờ bên Trắng tích cực hoạt động trên cánh Vua bằng cách sử dụng
tiền đồn e5, còn bên Đen bắt đầu tấn công vào các Tốt trung tâm của Trắng.
3...
c5
4. c3

15



16

Hy sinh Tốt. 4.Mf3 Mc6 5.Td3 cd 6.0-0 dẫn đến thế trận phức tạp, và nhờ hy
sinh Tốt, bên Trắng có ưu thế phát triển quân và bên Đen phải thận trọng, có thể
chơi 6...Tc5 7.Mbd2 Mge7 8.Mb3 Tb6 9.Tf4 Mg6
4...
Mc6
5. Mf3
Hb6
Trong phòng thủ Pháp, ta thường gặp lối chơi chống trả bằng cách tăng
cường sức ép lên điểm d4 và tạo nguy cơ đe dọa Tốt b2. Mục đích như vậy biện
bạch được việc đưa Hậu vào cuộc chiến sớm.
6.Te2 =
Kế hoạch chơi tiếp theo: Bên Đen ra sức củng cố cánh Vua và giữ gìn thế
công ở trung tâm. Trắng chủ động tấn công cánh Vua và chiếm không gian.
* Gambít Hậu tiếp nhận: Đen tiếp nhận sự thí tốt của đối phương.
1.d4
d5
2.c4
Nước đi thứ 2.c4 Trắng thí tốt. Nước đi này thể hiện đặc tính của gambít là
thí quân để giành lấy ưu thế về việc phát triển lực lượng.
2...
dc
3. Mf3
a6
4. e4
b5
5. a4
Tb7

6.b3
Nếu 6.Mc3 b4 7.Tc4 e6 (nếu 7...bc thì 8.Hb3 ed 9.Md5) 8. d5 bc 9.Hb3 bd
10.Hb7 dc 11.Ha8 cb 12.Tb2 Tb4 13.Vf1 c3 14.Ve2! cb 15.Xad1 Md7 16.Hd8
Vd8 17.Me5  17...Ve8! hoặc 17...Mf6!
6...
Te4
7. Mc3
Tb7
8. ab
ab
9. Xa8
Ta8
10. bc
e6
11. Mb5
Tb4
12. Td2
Tf3
13. gf
Td2
14. Hd2
c6
15. Mc3
Me7 =
Bù lại cấu trúc Tốt rời rạc, Trắng có Tượng hoạt động mạnh trên đường chéo
a1 - h8.
Kế hoạch chơi tiếp theo như sau: Bên Trắng sử dụng Tượng mạnh cùng với
Xe, Hậu, đẩy Tốt lên phong cấp.
Bên Đen cản trở sự đẩy Tốt và tấn công vào vị trí yếu của Vua bị khuyết
Tốt.

2.2. Giai đoạn trung cuộc.
a. Khái niệm.Trung cuộc (còn gọi là giai đoạn giữa của ván cờ) là giai đoạn
quan trọng nhất của ván cờ. Tại đây diễn ra cuộc tranh đấu gay gắt nhất trên tất cả
16


17

các mặt tâm lý, kỹ - chiến thuật, chiến lược... các mưu kế và các thủ pháp quyết
định để giành ưu thế buộc đối phương phải đầu hàng
b. Các nhân tố chiến thuật trong giai đoạn trung cuộc.
Trung cuộc là giai đoạn căng thẳng nhất của ván đấu, nên các nhân tố chiến
thuật được sử dụng trong giai đoạn này cũng chính là các nhân tố chiến thuật trong
ván đấu Cờ Vua.
Chiến thuật trong Cờ Vua chính là tổ hợp một loạt các nước đi có định
hướng nhằm giải quyết một mục đích nào đó, tại tình huống đã được định trước
trong diễn biến của ván cờ.
Các nhân tố chiến thuật trong Cờ Vua bao gồm:Tình thế bó buộc, sự đe doạ,
thời gian.
* Tình thế bó buộc.
- Khái niệm: Tình thế bó buộc là tình thế cờ mà trong đó ở một thời điểm
nào đó của ván cờ, một đấu thủ sử dụng một tổ hợp các nước đi có định hướng (kể
cả thí quân) để buộc đối phương phải trả lời bằng một loạt các nước đi bắt buộc, dù
những nước đi đó làm xấu đi tình thế hiện tại của mình.
- Ỳ nghĩa: Là phương tiện củng cố và phát triển ưu thế động đã có.
- Các định hướng chiến thuật trong tình thế bó buộc:
+ Chiếu hết Vua đối phương.
+ Đạt ưu thế hơn quân.
+ Đạt thế cờ đơn giản và thuận lợi cho mình.
+ Cứu nguy cho thế cờ dưới các dạng: Pat, chiếu vĩnh viễn, lặp lại

nước đi.
- Phương tiện tạo tình thế bó buộc: Đòn phối hợp, hoặc tổ hợp các nước đi
"dồn ép" nhằm gây căng thẳng cho đối phương.
Việc sử dụng tổ hợp các nước đi định hướng như vậy gọi là: "Các đòn chiến
thuật".
- Các dạng thức của đòn chiến thuật: Thu hút; Đánh lạc hướng (khỏi ô bảo
vệ, khỏi cột bảo vệ, khỏi mục đích đã định ra); Tiêu diệt quân phòng thủ Vua (sử
dụng khi tấn công vào Vua); Giằng quân; Che chắn; Giải phóng ô; Giải phóng
đường; Giải toả và phá huỷ (hy sinh Tượng để phá huỷ, lôi kéo Vua, chiếm ô);
Đòn đánh đôi (đánh trực diện, mở quân tạo đòn).
* Sự đe doạ: Tạo ra những mối đe doạ chiến thuật.
* Thời gian trong chiến thuật: Thời gian trực tiếp (thời gian thực hiện ván
đấu), và thời gian gián tiếp (temp).
Mặc dù có rất nhiều các dạng thức đòn chiến thuật được sử dụng trong giai
đoạn trung cuộc, nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu tìm hiểu về đòn phối hợp. Đây
cũng là những nét đặc trưng nhất ở giai đoạn giữa của ván cờ.
2.2. Đòn phối hợp.
a. Khái niệm.
Đòn phối hợp là một thế biến bó buộc có thí quân. Khái niệm này chỉ thể
hiện được bản chất, hiện tượng của nó song chưa nêu lên được các đặc tính quan
trọng khác. Đòn phối hợp có 2 đặc tính đó là:Tính bất ngờ và đột ngột của đòn
phối hợp
17


18

c. Thành phần của đòn phối hợp
Trước khi thực hiện (tạo dựng) một đòn phối hợp phải có đầy đủ 4 thành
phần sau:

+ Lý do xuất hiện đòn phối hợp.
+ Phương tiện để thực hiện đòn phối hợp.
+ Chủ đề của đòn phối hợp.
+ Thực hiện đòn phối hợp.
d. Một số dạng thức đòn phối hợp cơ bản.
Sau đây là 15 đòn phối hợp cơ bản theo các chủ đề:
1. Đòn thu hút: Là đòn phối hợp thu hút quân đối phương vào một ô cờ bất
lợi sau đó tấn công vào quân đó. Trong Cờ Vua, đòn phối hợp này được sử dụng
nhiều nhất trong các chủ đề của đòn phối hợp.
2. Đòn đánh lạc hướng: Là đòn phối hợp đánh lạc hướng quân của đối
phương ra khỏi một vị trí phòng thủ hay một điểm quan trọng, sau đó mới tấn công
vào điểm hay vị trí quan trọng đó. Đòn đánh lạc hướng được chia làm 3 dạng:
a. Đánh lạc hướng ra khỏi ô bảo vệ.
b. Đánh lạc hướng ra khỏi đường bảo vệ.
c. Đánh lạc hướng Vua .
3. Đòn thắt cổ: Đòn thắt cổ là đòn phối hợp buộc các quân của đối phương
khóa chặt Vua của mình sau đó dùng Mã chiếu hết.
4. Đòn giằng quân: Là một thủ pháp hữu hiệu để hạn chế sự cơ động của
quân đối phương.
5. Đòn cối xay: Đòn cối xay là đòn phối hợp được tạo dựng bởi các nước
chiếu và mở chiếu một cách tuần tự.
6. Đòn phục kích: Là loại đòn phối hợp phức tạp, nó mang tính bí mật, quân
đánh thường nấp ở phía sau quân mình.
7. Đòn săn bắt quân: Là đòn đánh một quân của đối phương, chủ yếu là Hậu
vào trong một vòng vây kín sau đó dùng lực lượng đe dọa bắt chết quân đó (trong
nhiều dạng của biến trận khai cuộc, Hậu Đen thường lên b6 sau đó tấn công vào
b2 và thế là sập bẫy).
8. Đòn bắt đôi (đòn kép): Là đòn đánh của một quân tấn công cùng một lúc
vào 2 quân của đối phương (đòn chiếu đôi là một trường hợp đặc biệt của đòn bắt
đôi, khi mở đường đồng thời lại có nước chiếu đối phương).

Có 2 nhân tố cơ bản tạo nên đòn bắt đôi:
+ Quân không được bảo vệ hoặc bảo vệ không chắc.
+ Sự bố trí các quân không hợp lý.
9. Đòn quá tải: "Quá tải" là trường hợp một quân cùng một lúc thực hiện hai
nhiệm vụ phòng thủ trở lên. Nếu đối phương tập trung lực lượng đánh vào quân
quá tải đó thì gọi là đòn quá tải.
10. Đòn phong tỏa: Là đòn phối hợp dùng lực lượng của mình phong tỏa các
quân của đối phương buộc họ lâm vào tình trạng nguy hiểm không có lối thoát (có
trường hợp dùng quân của đối phương phong tỏa đối phương).

18


19

11. Đòn cắt đường: Khi đối phương chiếm giữ một đường quan trọng nào
đó trong việc phòng thủ, và vô hiệu hóa bằng cách ngăn cản trên đường quan
trọng đó (có thể là hàng ngang, cột dọc hay đường chéo).
12. Đòn giải phóng đường: Là đòn phối hợp thực hiện bởi việc mở một
đường quan trọng nào đó để tấn công đối phương.
13. Đòn giải phóng: Là đòn phối hợp được thực hiện gắn với việc giải
phóng một ô cờ quan trọng cho quân khác chiếm đóng (thường là Mã).
14. Đòn phong cấp: Đòn phong cấp là đòn phối hợp được tạo dựng bởi việc
sử dụng các nước đi phong cấp của Tốt.
15. Đòn cầu hòa: Là đòn phối hợp nhằm mục đích đạt được thế cờ hòa (có
thể là dẫn tới Pát hoặc bất biến hoặc không đủ lực lượng để chiếu hết).
2.3. Giai đoạn tàn cuộc.
a. Khái niệm: Trong quá trình diễn biến trận đấu trên phạm vi bàn cờ, lực
lượng đôi bên dần dần hao mòn thể hiện ở số lượng quân trên bàn cờ giảm hẳn. Vì
vậy thế trận sẽ trở nên giản đơn hơn. Và ván cờ sẽ chuyển sang giai đoạn quyết

định cuối cùng, đó là giai đoạn tàn cuộc. Tùy vào từng thế trận ở tàn cuộc mà các
đấu thủ phải giải quyết 1 trong 3 nhiệm vụ:
- Nếu có ưu thế về số quân hoặc thế trận thì phải cố gắng tận dụng để giành
phần thắng.
- Nếu đối phương chiếm ưu thế ấy, thì phải tự vệ thật vững vàng và dẫn ván
cờ về kết quả hòa cuối cùng.
- Nếu phần trung cuộc không phá được thế cân bằng, thì phải cố gắng giành
ưu thế ở giai đoạn cuối này.
b. Đặc tính của tàn cuộc.
Trong tàn cuộc thường xuất hiện thêm một mục tiêu chiến lược đó là dẫn
Tốt lên phong cấp. Từ đó, rất dễ khẳng định thêm các điểm đặc trưng của cờ tàn.
Nếu Vua không bị đe dọa chiếu hết, thì Vua có thể thoát khỏi nơi trú ẩn và trực
tiếp tham gia vào cuộc chiến đang tiếp diễn. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng
trong tàn cuộc. Vua cũng trở thành lực lượng tấn công và phòng thủ tích cực, có
khả năng tấn công đối phương và nó thường là quân đầu tiên đánh sang phòng
tuyến địch.
Trong tàn cuộc, số lượng quân còn lại trên bàn cờ ít, nên giá trị của chúng
được tăng lên rất nhiều. Mục tiêu chiến lược trong tàn cuộc là dẫn Tốt lên phong
cấp, nên giá trị của các quân Tốt trong phần tàn cuộc tăng đột ngột. Nếu ở phần
trung cuộc, việc hơn một quân Tốt thường chưa đóng vai trò quyết định, thì trong
tàn cuộc phần lớn các trường hợp hơn một Tốt cũng là nhân tố đủ đảm bảo cho
chiến thắng.
Thông thường ở phần giữa của ván cờ, kế hoạch tác chiến của các đấu thủ
được xác định bằng sở thích và tài tưởng tượng của họ, thì ở tàn cuộc chủ yếu kế
hoạch được đặt ra từ đặc tính của thế trận, và không phụ thuộc vào sở trường hay
phong cách chơi. Mỗi đấu thủ đều cũng phải chọn một biện pháp như nhau, mỗi
biện pháp thường là chuẩn mẫu cho từng dạng thế cờ tàn cuộc và chỉ có biện pháp
ấy mới dẫn tới việc đạt được mục tiêu đã đề ra.

19



20

Như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: So với phần trung cuộc,
trong cờ tàn vai trò của lý thuyết, vai trò của sự hiểu
tăng lên rất nhiều. Trong thực tế, nhiều thế trận tàn cuộc
lại là những thế cờ lôgic với lời giải duy nhất.
c. Các nguyên tắc trong tàn cuộc.
Để có thể dẫn dắt ván đấu có hiệu quả trong giai
đoạn này, thì người chơi cần thiết phải nắm vững và tuân
thủ các nguyên tắc cần thiết phải áp dung trong giai đoạn
này. Đó là những nguyên tắc:
1. Tối ưu hoá vị trí của Vua (tích cực hoá Vua
trong tàn cuộc).
Hình 9 - Chiếu hết bằng
2. Đẩy mạnh tối đa sự hoạt động các lực lượng
Hậu.
còn lại trên bàn cờ.
3. Tổ chức phối hợp chính xác sự hoạt động của các quân.
d. Phân loại tàn cuộc.
Dựa vào đặc tính của thế trận, tàn cuộc được chia làm 2 loại: Tàn cuộc kỹ
thuật và tàn cuộc chiến thuật - chiến lược.
* Tàn cuộc kỹ thuật: Khi một đấu thủ nào đó chiếm được ưu thế tuyệt đối về
lực lượng so với đối phương, đang cố gắng kết thúc ván cờ bằng cách chiếu hết, và
dĩ nhiên Vua bên yếu tìm cách tránh khỏi bị diệt vong. Chúng ta gọi những thế tàn
cuộc này là tàn cuộc kỹ thuật. Thế tàn cuộc kỹ thuật đã được nghiên cứu từ lâu, và
ngày nay lý thuyết cờ đã biết chúng rất rõ. Nhóm này gồm hầu hết các thế cờ tàn
giản đơn như: Vua + Hậu chống Vua, Vua + Xe chống Vua...
- Chiếu hết bằng Xe.

Một mình Xe không thể chiếu hết được Vua
đối phương nếu như không có sự hỗ trợ của Vua
mình. Phương pháp chiếu là cùng với Vua dồn Vua
đối phương vào một góc hoặc cạnh bàn cờ, buộc Vua
đối phương đến lượt đi của mình phải vào thế đối
mặt Vua rồi dùng Xe chiếu hết. Thông thường, điều
đó thực hiện ở hàng ngang thứ nhất hay thứ 8 hoặc
các cột "a", "h". Ví dụ: (Hình 8).
1. Xh4 Xe Trắng cắt đường để chuẩn bị dồn
Hình 8
Vua Đen về hàng ngang thứ 8. 1... Ve5 2. Ve2 Trắng
đưa Vua tới trung tâm để hỗ trợ Xe . 2... Vf5 3.Ve3 Ve5 Vua Đen không tự ý rút
lui nhưng bây giờ xuất hiện thế cờ đòi hỏi sự lưu ý đặc biệt "khi hai Vua đứng vào
thế đối diện nhau, Xe có khả năng đẩy lui Vua đối phương về cạnh bàn cờ thêm
một hàng nữa". 4. Xh5+ Vd6 5.Ve4 - Thời điểm đáng lưu ý nữa: Vua Trắng chiếm
chỗ đứng tương quan với Vua Đen như nước đi của Mã. Để khi Đen chơi 5... Ve6
sẽ lại chiếu bằng Xe, đẩy Vua đối phương lui thêm một hàng nữa. 5... Vc6 6. Vd4
Vb6 7. Vc4
Bây giờ nếu Đen chơi 7... Va6 thì 8. Xb5 Vua Đen sẽ bị cắt tại cột "a"
7...Vc6 8. Xh6+ Vd7 9. Vc5 Ve7 10. Vd5 Vf7 11. Ve5 Ve7 12. Xh7+ Vd8 13.
Ve6 Vc8 14. Vd6 Vb8 15. Vc6 Va8 16. Vb6 Vb8 17. Xh8 #
20


21

- Chiếu hết bằng Hậu:
Hậu là quân mạnh nhất có thể cơ động được như Xe và Tượng, nên chiếu hết
bằng Hậu đơn giản hơn chiếu hết bằng Xe. Truớc hết là phải đi Hậu sao cho giảm
đến mức thấp nhất các nước di chuyển của đối Vua đối phương. Phương pháp cụ

thể giống như cờ tàn Xe nhưng cần phải lưu ý tránh đưa Vua đối phương vào thế
"Pát". Để thực hiện tốt thế tàn cuộc loại này người ta đưa ra quy tắc "bậc thang",
đó chính là sơ đồ đường đi của Hậu dồn Vua đối phương. Ví dụ: (Hình 9).
1. He3 Vg4 2. Hf3+ Vg5 3. Vg3 Vg6 4. Hf4 Vh5 5. Hg4 Vh6 6. Vf4 Vh7 7.
Vf5 Vh8 8. Vf6 Vh7 9. Hg7 #.
Đường đi của Hậu theo sơ đồ hình bậc thang (He3 - f3 - f4 - g4 - g5). Sau
đó chiếu hết cùng với sự hỗ trợ của Vua (đây chỉ tính đến các khả năng chống đỡ
mạnh nhất của bên yếu).
* Tàn cuộc chiến thuật - chiến lược: Là nhóm lớn hơn, gồm hầu hết các thế
cờ tàn mà thông thường 1 đấu thủ chưa đủ sức chiếu hết đối phương ngay, cho nên
phải tìm cách khác để đánh thắng. Cách trung gian có thể là đưa Tốt lên phong cấp,
tạo ưu thế về lực lượng để đủ sức chiếu hết đối phương. Những thế tàn cuộc ấy
được gọi là thế cờ tàn chiến thuật - chiến lược. Trong tàn cuộc chủ yếu là nghiên
cứu loại này.
Dạng thức Vua chống Vua + Tốt.
Trong dạng thế cờ tàn cuộc loại này thì nhiệm vụ
của bên mạnh hơn là thực hiện ưu thế Tốt của mình với
mục tiêu chiến lược là đưa Tốt lên phong cấp. Còn bên
yếu thì tìm cách cản trở đối phương thực hiện ý đồ
chiến lược đó và cố gắng đưa vào thế "Pát". Để tìm
hiểu các dạng thế tàn cuộc này, chúng ta cần nắm vững
các quy tắc sau:
- Quy tắc 1: Thế đối Vua: Bên nào chiếm được
thế đối Vua thì bên đó có lợi (có lợi ở đây nghĩa là đối
với bên có Tốt sẽ thắng cuộc, đối với bên không có Tốt
Hình 10
thì sẽ hoà cuộc).
Thế đối Vua là 2 Vua đứng đối diện nhau theo hàng ngang hoặc cột dọc. Có
nhiều dạng đối Vua, đối Vua theo hàng ngang, cột dọc, đối Vua theo đường chéo,
đối Vua gần (hai Vua đứng cách nhau một ô cờ), đối Vua xa. Nhưng ở đây chúng

ta chỉ xét đến trường hợp đối Vua gần, theo cột dọc.
Ví dụ: Hình 10.
Với thế cờ này, mặc dù Trắng đi trước thì kết quả vẫn là hòa cuộc bởi vì Đen
luôn chiếm được thế đối Vua, chẳng hạn. 1. Ve4 Vd7! 2. Ve5 Ve7! Đen chiếm
được thế đối Vua trước.
3. d6+ Vd7 4. Vd5 Vd8 ! 5. Vc6 và tới đây một lần
nữa Đen sử dụng hữu hiệu quy tắc này. 5... Vc8! buộc Trắng phải đi 6. d7+ Vd8
7. Vd6 "Pát". Nếu 7. Vc5 thì 7... Vd7 "Pát".
- Quy tắc 2: Ô hiệu quả: Bên nào chiếm được ô hiệu quả thì bên đó có lợi.

21


22

Ô hiệu quả là ô trước Tốt cách 1 hàng ngang và 2 ô bên cạnh nó. Nếu Tốt
dịch chuyển lên phía trước thì ô hiệu quả của nó cũng được tịnh tiến theo. Cần lưu
ý nước đi đầu tiên, Tốt có thể dịch chuyển được 2 ô. Ví dụ ở hình 11: Tốt Trắng ở
vị trí e3 thì ô hiệu quả của nó là e5, f5, d5. Ô hiệu quả
hay còn gọi là "ô xung yếu".
Để thấy rõ quy tắc trên chúng ta hãy xem ví dụ cụ
thể (hình 12).
Trắng đi trước, dùng thế đối Vua chiếm ô hiệu
quả, và giành thắng lợi. 1.Vf6! chiếm thế đối Vua
1...Ve8 (hoặc1...Vg8) 2.Vg7 Trắng thắng cuộc vì chiếm
được ô hiệu quả.
Người ta dùng thế đối Vua để chiếm ô hiệu quả và
theo như quy tắc trên thì nhiệm vụ đặt ra đối với bên yếu
Hình 11
là phải tuyệt đối không cho đối phương chiếm được 1

trong 3 ô hiệu qủa đó. Thông thường, mỗi Tốt có 3 ô
hiệu quả nhưng Tốt biên chỉ có 2 ô hiệu quả. Đại đa số
các thế tàn cuộc mà chỉ còn lại một Tốt biên, trong khi
Vua bên yếu ở vị trí tích cực thì kết quả là hòa cuộc vì
bên phòng thủ chỉ lọt vào góc có Tốt tiến lên để chờ thế
Pát.
- Quy tắc 3: Hình vuông của Tốt: Nếu Vua đối
phương đứng trong hình vuông của Tốt thì cản được Tốt
của đối phương (ở đây không tính đến sự hỗ trợ của Vua
đối phương và Vua đối phương ở vị trí bất lợi nhất).
Hình vuông của Tốt là một hình vuông được tạo
Hình 12
bởi các cạnh, có chiều dài là số ô cờ được tính từ vị trí
đứng của Tốt đến hàng ngang cuối mà Tốt sắp tiến lên để phong cấp. Ví dụ: Hình
13.
Đối với Tốt d5 thì hình vuông của nó có đỉnh là: d5, a5, a8, d8 và d5, g5, g8,
d8 (tất nhiên Tốt biên chỉ có 1 hình vuông).
Ở ví dụ trên: Bên Trắng đi trước sẽ thắng, còn nếu bên Đen đi trước thì hòa
vì: 1... Vg5. Vua Đen đã lọt vào hình vuông của Tốt d5. Trong trường hợp Trắng
đi trước thì: 1. d6 Vg5 và Vua Đen nằm ngoài hình
vuông của Tốt. Trắng thắng.
Quy tắc này có giá trị rất lớn cho người chơi trong
việc tiết kiệm thời gian suy nghĩ, giảm nhẹ được sự tính
toán.
Ba quy tắc trên không những chỉ áp dụng trong
trường hợp Vua chống Vua Tốt, và nó còn được coi như
những phương tiện để tiến hành các mục đích chiến
lược, các đòn chiến thuật trong tàn cuộc.
Hình 13


22


23

CHƯƠNG 3. LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CỜ VUA
3.1. Mối tương quan giữa nội dung và phương pháp trong giảng dạy - tập
luyện Cờ Vua.
Trong quá trình dạy học, một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của quá trình - đó là phương pháp giảng dạy. Phương pháp giảng dạy là
cách thức tác động đến các đối tượng khác nhau để truyền thụ những kiến thức, tri
thức, kỹ năng cần thiết và tạo điều kiện cho các đối tượng đó tiếp thu lượng kiến
thức, tri thức, kỹ năng đó một cách có chất lượng nhất.
Còn nội dung giảng dạy chính là lượng thông tin đầy đủ (bao hàm cả về mặt
chất lượng và khối lượng) của lượng kiến thức, tri thức, kỹ năng cần truyền thụ cho
người học trong quá trình giảng dạy.
Giữa phương pháp và nội dung giảng dạy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
mối quan hệ đó được giải thích bởi tương quan giữa: " Mục đích - Nội dung Phương pháp", theo các quy luật đã định.
Nếu xem xét mối riêng rẽ giữa các thành phần của mối tương quan đó chúng
ta thấy:
+ Mục đích giảng dạy là đích cuối cùng của quá trình sư phạm, nó được cấu
thành bởi những đòi hỏi của giai cấp và xã hội. Mục đích của nền giáo dục Việt
Nam là nhằm đào tạo ra những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, nghĩa là
hình thành và phát triển con người mới XHCN.
+ Nội dung giảng dạy bao gồm các kiến thức cần truyền thụ cho đối tượng
giảng dạy, ở các lứa tuổi và trình độ khác nhau. Chẳng hạn, trong phần nghệ thuật
Cờ Vua - đó là tàn cuộc, các phương tiện chiến thuật, chiến lược, các dạng thức
khai cuộc...
+ Phương pháp giảng dạy dưới góc độ sư phạm là cách thức truyền thụ một
lượng kiến thức nào đó cho đối tượng giảng dạy trong những hình thức tổ chức

giảng dạy mang tính chất sư phạm.
3.2. Các nguyên tắc về phương pháp trong giảng dạy Cờ Vua.
Các nguyên tắc về phương pháp là hạt nhân cơ bản trong việc chọn lựa
những phương pháp để ứng dụng vào quá trình giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho
đối tượng giáo dục. Nó được xây dựng trên cơ sở của các quy luật về tâm lý giáo
dục nói chung. Qua nghiên cứu và kiểm nghiệm, thấy rằng cần thiết phải tuân thủ
các nguyên tắc mang tính lý luận - phương pháp sau: Nguyên tắc thống nhất giữa
giảng dạy Cờ Vua và giáo dục toàn diện; Nguyên tắc hệ thống; Nguyên tắc vừa
sức; Nguyên tắc trực quan; Nguyên tắc bền vững kiến thức, và ứng dụng thực tiễn.
Trong quá trình giảng dạy-huấn luyện Cờ Vua thường hay sử dụng 3 nhóm
phương pháp giảng dạy-huấn luyện chính đó là: Nhóm phương pháp giảng dạy;
Nhóm phương pháp thực hiện nhiệm vụ sư phạm; Nhóm phương pháp thực
tập sư phạm (trong đó nhóm phương pháp thực hiện nhiệm vụ sư phạm được coi
là có hiệu quả hơn cả). Có thể liệt kê ra những phương pháp thuộc các nhóm
phương pháp chính trên đây, và chúng bao gồm:
Phương pháp dùng lời hay phương pháp mô tả bằng lời (kể chuyện, miêu tả,
giải thích, giảng bài, trò chuyện, nghiên cứu tài liệu); Phương pháp trưng bày (biểu
bảng, kế hoạch, biểu đồ, áp phích, đèn chiếu, bàn cờ treo); Phương pháp tham quan
23


×