Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH lớp 10a6, TRƯỜNG THPT DTNT NGỌC lặc sớm ổn ĐỊNH, tự TIN hòa NHẬP và học tập TRONG môi TRƯỜNG nội TRÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.13 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT DTNT NGỌC LẶC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 10A6, TRƯỜNG
THPT DTNT NGỌC LẶC SỚM ỔN ĐỊNH, TỰ TIN HÒA NHẬP
VÀ HỌC TẬP TRONG MÔI TRƯỜNG NỘI TRÚ

Người thực hiện: Nguyễn Đức Lượng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2018
0


0


MỤC LỤC
1. Phần mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài.............................................................................. .…………. ..01
1.2 Mục đích nghiên cứu...…………..………………………... ..……...01
1.3 Đối tượng nghiên cứu...…………..……………………....................01
1.4 Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 02
2. Phần nội dung
2.1 Cơ sở lí luận …………………………………………………….......02
2.2 Thực trạng vấn đề ……………………………………...…………...03
2.3 Giải pháp thực hiện ……………………………................................05


2.3.1 Thu thập và xử lí thông tin………………………………………..05
2.3.2 Xếp phòng ở trong kí túc xá………………………………………06
2.3.3 Lựa chọn và giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp, trưởng phòng ở
KTX…………………………………………………………………………….07
2.3.4 Đánh giá xếp loại hạnh kiểm và thi đua khen thưởng, kỉ luật học
sinh………………………………………………………………………….….09
2.3.5 Rèn luyện cho học sinh tính tự lập ……………………………….12
2.3.6 “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”……………………...14
2.4 Hiệu quả của sáng kiến……………………………………….……..15
3. Phần kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận…………...............................................................................17
3.2 Kiến nghị……….................................................................................18

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
(Dùng trong sáng kiến kinh nghiệm này)
Sáng kiến kinh nghiệm
Trung học phổ thông
Trung học phổ thông dân tộc nội trú
Giáo viên chủ nhiệm
Kí túc xá

SKKN
THPT
THPT DTNT
GVCN
KTX

0



1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trường THPT Dân tộc nội trú Ngọc Lặc được thành lập theo quyết định
2871-QĐ/UBND ngày 08/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa với quy
mô 18 lớp (540 học sinh). Năm học 2017-2018 là năm đầu tiên trường tuyển
sinh (sáu lớp 10/180 học sinh) và đi vào hoạt động. Là ngôi trường chuyên biệt
mới được thành lập nhưng có một sứ mệnh hết sức cao cả. Đó là đào tạo nguồn
nhân lực là người dân tộc thiểu số cho các huyện miền núi phía tây tỉnh Thanh
Hóa.
Là giáo viên đã từng công tác 13 năm trên miền núi (tại trường THPT Lê
Lai-Ngọc Lặc). Đã từng tiếp xúc và dạy dỗ nhiều học sinh là người dân tộc thiểu
số (chủ yếu là dân tộc Mường). Nhưng năm học 2017-2018 này bản thân vẫn
không khỏi bỡ ngỡ khi là một trong những giáo viên đầu tiên về công tác tại
trường THPT Dân tộc nội trú Ngọc Lặc. Được tiếp xúc với nhiều học sinh là
người dân tộc thiểu số (Mường, Thái, Mông, Dao,Thổ,…) ở rất nhiều huyện
khác nhau trong tỉnh (trong đó có những huyện miền núi xa xôi như Quan Sơn,
Mường Lát,…).
Được phân công làm giáo viên chủ nhiệm lớp 10A6 (là một trong sáu lớp
10 đầu cấp năm học 2017-2018). Ngày đầu tiên tôi nhận lớp, nhìn những gương
mặt bẽn lẻn, rụt rè (có những em lần đầu tiên rời xa bố mẹ, bản làng hàng trăm
cây số). Những ánh mắt thăm dò, những suy nghĩ còn nhiều bí ẩn. Tất cả những
điều đó nói lên các em đang rất cần một chỗ dựa, một đôi tay che chở và dẫn dắt
các em trong suốt quãng thời gian học tập tại đây.
Nhận thức được vai trò, trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm ở
trường nội trú thật sự là người cha, người mẹ thứ hai của các em. Cần phải có sự
hiểu biết và quan tâm sâu sắc tới các em trên nhiều phương diện. Để giúp các
em học tập tốt thì điều đầu tiên phải giúp các em sớm ổn định, hòa nhập với môi
trường mới, cuộc sống mới. Đặc biệt là môi trường nội trú.
Vấn đề tôi quan tâm thực sự chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu hay các
sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp khai thác. Hoặc nếu có thì lại khai thác

ở những khía cạnh khác như: Kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống hay biện pháp
hỗ trợ tâm lí cho học sinh dân tộc thiểu số,…
Với những lí do đó, tôi đã mạnh dạn học hỏi đưa ra các biện pháp, đúc rút
kinh nghiệm và viết SKKN với đề tài:“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp
10A6, trường THPT DTNT Ngọc Lặc sớm ổn đinh, tự tin hòa nhập và học
tập trong môi trường nội trú” .
1.2 Mục đích nghiên cứu
1. Giúp cho các em học sinh lớp 10A6, trường THPT DTNT Ngọc Lặc
sớm ổn định, tự tin hòa nhập và học tập trong môi trường nội trú.
2. Giúp cho các bạn đồng nghiệp có thêm nguồn tài liệu phục vụ công tác
chủ nhiệm tại các trường dân tộc nội trú hoặc các trường THPT miền núi.
3. Giúp bản thân có cơ hội tự học nâng cao năng lực chủ nhiệm.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
SKKN tập trung nghiên cứu một số biện pháp:
1


- Các biện pháp giúp học sinh lớp 10A6 sớm ổn định việc ăn ở, sinh hoạt,
điều kiện sống trong môi trường nội trú.
- Các biện pháp giúp học sinh lớp 10A6 tự tin hòa nhập với lớp học, với
chương trình và điều kiện học mới đầu cấp tại môi trường nội trú. Giúp các em
tự tin hơn trong việc học tập.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp chính được sử dụng trong SKKN này là:
- PP điều tra khảo sát thực tế,
- PP thu thập thông tin;
- PP thống kê, xử lý số liệu.
- PP thực nghiệm.

2. NỘI DUNG SKKN

2.1 Cơ sở lí luận.
Một số vấn đề về tâm lí học sinh dân tộc thiểu số ở trường trung học phổ thông.
Sự phát triển tâm lí của học sinh người dân tộc thiểu sổ ở trường THPT
cũng có tất cả những đặc điểm và quy luật chung của sự phát triển tâm lí con
người nhưng do các em sống ở miền núi cao, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, hoàn
cảnh tụ nhiên và hoàn cảnh hưởng thụ sự giáo dục khác với các em học sinh
người Kinh sống ở đồng bằng và thành phổ nên sự phát triển tâm lí của các em
cũng có một số đặc điểm riêng.
* Một số đặc điểm tâm lí đặc trưng của các em học sinh dân tộc thiểu
số. - Đặc điểm tri giác:
Các em học sinh người dân tộc thiểu số sống ở vùng núi cao có độ nhạy
cảm thính giác, thị giác phát triển rất cao vì điều kiện sinh sống đặc thù. Các em
sinh ra và lớn lên giữa đại ngàn rừng núi, từ nhỏ đã quen với sự yên tĩnh của núi
rừng, với tiếng chim muông, thú rừng và quen với việc vào rừng săn bắn, tìm
cây, tìm rau rừng.
Giác quan tĩnh, nhạy là điều kiện rất thuận lợi cho các em học sinh dân
tộc thiểu số tri giác đối tượng. Tuy nhiên, trong học tập, sự định hướng tri giác
theo các nhiệm vụ được đặt ra ở các em lại chưa cao. Các em hay bị thu hút vào
những thuộc tính có màu sắc bên ngoài rực rỡ, hấp dẫn nên khó phân biệt đâu là
thuộc tính bản chất, đâu là thuộc tính không bản chất.
Trong quá trình học tập, đặc biệt là những nội dung liên quan đến khả
năng quan sát, các em học sinh người dân tộc thiểu sổ có thể nhận ra từng dấu
hiệu, từng thuộc tính đơn lẻ của sự vật và hiện tượng nhưng quá trình tổng hợp,
khái quát để đi đến nhận xét chung lại rất hạn chế.
- Đặc điểm tư duy, ngôn ngữ, trí nhớ:
Vốn tiếng phổ thông (tiếng Việt) của các em học sinh dân tộc thiểu sổ ở cấp
THPT vẫn còn hạn chế. Đây là thiệt thòi lớn của các em và cũng là khó khăn cơ
bản của giáo viên khi dạy học, giáo dục các em. Do khả năng hiểu ngôn ngữ phổ
thông hạn chế, vốn từ nghèo nàn, học sinh người dân tộc thiểu sổ ở trường THPT
còn gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp và học

tập, thể hiện rõ nhất trong việc làm bài kiểm tra, trả lời câu hỏi, kĩ năng
2


đọc yếu, phát âm tiếng la tinh rất khó khăn và đặc biệt rất khó giải thích từ Hán
Việt và hiểu các quy tắc về chính tả, viết hoa. Sự thiếu hụt về khả năng ngôn
ngữ đã làm cho các em học sinh dân tộc thiểu số bị hạn chế khả năng tư duy và
nhận thức khoa học.
Nhìn chung, tư duy khoa học của các em học sinh dân tộc thiểu số rất yếu
nên việc học các môn tự nhiên như Toán, Vật lí, Hoá, Sinh gặp nhiều khó khăn.
Nổi bật trong tư duy của học sinh người dân tộc thiểu sổ ở trường THPT là các
em chưa có thói quen lao động trí óc. Đa số các em ngại suy nghĩ, ngại động
não, khi gặp phải vấn đề khó trong bài học là các em bỏ qua, không biết đọc đi
đọc lại, lật đi lật lại vấn đề. Các em thường có thói quen suy nghĩ một chiều nên
dễ thừa nhận những điều người khác nói. Điều đó dẫn đến khả năng tự học của
các em rất kém.
Trong tư duy của học sinh người dân tộc thiểu sổ thì tư duy trực quan hình ảnh thường tốt hơn tư duy trừu tương - lôgic. Các em không khó khăn khi
tư duy về các sự vật, hiện tượng cụ thể, gần gũi với đời sống của các em nhưng
với những vấn đề đòi hỏi phải suy nghĩ trừu tượng và phức tạp, các em thường
gặp rất nhiều khó khăn.
- Đặc điểm tình cảm và giao tiếp xã hội:
Trong giao tiếp, các em học sinh người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó
khăn. Các em muốn thể hiện tình cảm nhưng rất khó nói ra bằng lời. Từ đó, các
em hay xấu hổ, không mạnh dạn trao đổi với các thầy cô giáo. Điều đó gây ảnh
hưởng không ít tới việc tiếp thu kiến thức ở lớp cũng như tự học ở nhà của các
em. Ở lứa tuổi THPT, học sinh người dân tộc thiểu số có những đặc điểm về tình
cảm, cảm xúc giống với học sinh người Kinh nhưng cũng có những nét khác
biệt, mang màu sắc dân tộc. Tình cảm, cảm xúc của các em lứa tuổi này rất chân
thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, không có hiện tượng quanh co hoặc khéo léo
che đậy những tình cảm của mình. Các em thường không có thói quen bộc lộ

tình cảm ra ngoài một cách thẳng thắn sôi nổi, rõ rệt, mạnh mẽ mà thường giữ
kín ở trong lòng.
Các em học sinh người dân tộc thiểu sổ thường rất gắn bỏ với gia đình,
làng bản vì đặc điểm nơi sinh sống của các em khá riêng biệt, các gia đình sống
nhỏ lẻ hoặc cụm dân cư ở từng góc núi, quả đồi.
Học sinh người dân tộc thiểu số có kiểu kết bạn cũng khá đặc biệt. Các
em thường chơi thành nhóm, nếu hợp nhau thì kết thành bạn tri kỉ rất thân thiết,
thậm chí có khuyết điểm cũng bao che cho nhau đến cùng.
Bản chất, nét tính cách, tâm lí đặc biệt của các em học sinh dân tộc thiểu
sổ là hiền lành, thật thà, chất phác. Trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, các em
thường rất trung thực, nghĩ như thế nào nói như thế đấy.
(nguồn: Module THPT 11 “Chăm sóc, hỗ trợ tâm lí học sinh nữ, học sinh người
dân tộc thiểu số trong trường THPT”)
2.2 Thực trạng vấn đề.
Trường THPT DTNT Ngọc Lặc là ngôi trường mới được thành lập, cơ sở
hạ tầng được đầu tư xây dựng rất khang trang, hiện đại và đồng bộ. Năm học
2017-2018 trường tuyển sinh được 6 lớp 10 với 180 học sinh ở khắp các huyện
3


miền núi tỉnh Thanh Hóa. Với đa số các em thì đây là lần đầu tiên đi học xa nhà
và phải làm quen với cuộc sống mới, môi trường sống mới, đó là môi trường nội
trú. Ở đây các em phải bắt đầu cuộc sống tự lập, tự ăn, tự ngủ, tự học, tự vui
chơi,… theo nội quy, nề nếp của nhà trường. Không có các anh chị khóa trên
hướng dẫn, truyền “kinh nghiệm”. Bản thân các thầy cô giáo cũng là những
người lần đầu tiên làm việc tại môi trường nội trú, chưa có nhiều kinh nghiệm.
Chính vì vậy thời gian đầu các em học sinh gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng
trong sinh hoạt và học tập.
Lớp 10A6 do tôi chủ nhiệm có 30 học sinh (với 9 nam và 21 nữ), trong đó
29 em là dân tộc thiểu số (gồm Mường, Thái, Mông). Gần nửa lớp là những học

sinh ở các huyện vùng cao như Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát,... (có 3 học
sinh người Mông ở những bản rất xa xôi của huyện Mường Lát). Đa phần học
sinh trong lớp xuất thân từ những gia đình thuần nông. Nghề nghiệp chính của
cha mẹ là trồng trọt, chăn nuôi. Thu nhập thấp, không ổn định dẫn đến điều kiện
kinh tế, điều kiện sống của các em còn nhiều khó khăn vất vả (một số em gia
đình còn éo le, bố hoặc mẹ mất sớm). Các em quen với những ngôi nhà sàn, nhà
lá đơn sơ. Quen với cảnh bản làng heo hút, tĩnh mịch nằm rải rác trên những
sườn đồi, men suối. Quen với cảnh một buổi đi học, một buổi vào rừng chăn
trâu, hái củi,…Tất cả những điều đó đã tạo nên đặc tính riêng cho các học sinh
nơi đây. Những con người mộc mạc, chất phác, giản dị, yêu thiên nhiên, yêu tự
do…(những phẩm chất rất đáng quý). Tuy nhiên, nó lại là những trở ngại lớn để
các em hòa nhập vào môi trường mới-môi trường nội trú. Nơi các em phải chịu
sự quản lí, giám sát chặt chẽ của thầy cô giáo với rất nhiều những nội quy nề
nếp trường lớp. Phải ở chung với nhiều bạn trong phòng, phải sống trong một
không gian chật hẹp (khuôn viên nhà trường). Được tiếp xúc với các trang thiết
bị hiện đại,…Những vấn đề bắt đầu phát sinh, đó là:
- Nhớ nhà;
- Không hợp với bạn chung phòng;
- Không quen với việc ăn ở khép kín;
- Khó chịu với nhiều nội quy, nề nếp (như: Không được dùng điện thoại di động,
ăn ngủ nghỉ phải theo giờ, không được tự ý ra ngoài,…);
- Tài liệu học tập còn ít, chưa quen với kiểu tự học;
- Phát sinh tình bạn khác giới;...v…v.
Tất cả những vấn đề đó nếu không được kịp thời phát hiện và giải quyết
một cách linh hoạt thì sẽ rất khó để các em ổn định, hòa nhập và học tập, thậm
chí còn phát sinh nhiều hệ lụy nguy hiểm như:
- Mâu thuẩn mất đoàn kết nội bộ trong phòng ở, trong lớp học;
- Không tự giác trong chấp hành nội quy nề nếp;
- Không có ý thức tự học, kết quả học hành sa sút;
- Tâm lí ỷ lại, quen được bao cấp;

- Có quan hệ nam nữ không lành mạnh;
- Học sinh bỏ học;…
Trong sáng kiến này tôi sẽ cố gắng chọn lọc đưa ra những biện pháp điển
hình nhất, qua đó phân tích các tình huống cũng như cách vận dụng riêng đối
với học sinh lớp 10A6, trường THPT DTNT Ngọc Lặc.
4


2.3 Giải pháp thực hiện.
2.3.1 Biện pháp thứ nhất: Thu thập và xử lí thông tin
Ngay sau khi nhận lớp, điều đầu tiên tôi quan tâm là phải sớm tìm hiểu
nắm bắt được những thông tin cơ bản nhất của từng học sinh trong lớp (sau
những tìm hiểu, hỏi han thông thường). Cách tôi thực hiện là phát cho mỗi em
một phiếu điều tra có nội dung như sau:

TRƯỜNG THPTDTNT NGỌC LẶC
LỚP 10A6
Dán ảnh
3x4

PHIẾU HỌC SINH
(Năm học 2017-2018)

A. Phần chung.
1. Họ và tên: ……………………….Ngày sinh:……………………………
2. Nơi ở hiện tại:………………………………………………………………
3. Quê quán:………………………………………………………………...
4. Họ tên bố:……………………………………Năm sinh:………………
Nghề nghiệp:………………………..Số ĐT:……………………………….
5. Họ tên mẹ:…………….. …………………...Năm sinh:……………. Nghề

nghiệp:……………………… Số ĐT:………………………………..
6. Nhà có:.........anh, chị, em. Gồm (yêu cầu thông tin đầy đủ như với bố
mẹ):..............................................
B. Phần riêng.
1. Học cấp 2 ở trường :……….………………………………………………
2. Đã từng làm (Lớp trưởng, lớp phó,…):……………………………………
3. Thích học những môn:………………………………………………………
Học tốt nhất môn:…………………………………………………………
Chưa thích học môn:……………………………………..
4. Dự định sau này làm nghề gì:………………………………………………
5. Sở thích bản thân:…………………………………………………………
Sở trường:………………………………………
Sở đoản:……………………………….
6. Những thuận lợi, khó khăn trong học tập và trong cuộc sống Thuận
lợi:…………………………………………………………… Khó
khăn:……………………………………………………
7. Quan điểm trong cuộc sống:……………………………………………
8. Mong muốn của bản thân (đối với thầy cô và bố mẹ):…………………
Sau khi có phiếu học sinh này tôi tiến hành xử lí thông tin như sau:
+ Việc dán ảnh giúp GVCN sớm nhớ mặt và tên từng em. Điều này sẽ làm cho
mối quan hệ thầy trò trở nên gần gũi và thân thiện hơn.
5


+ Trong phần A (phần chung): Em nào trả lời đầy đủ chính xác thể hiện là
người biết quan tâm và có trách nhiệm với gia đình (là một tiêu chí để có thể lựa
chọn vào các vị trí cán bộ lớp). Trên thực tế, rất nhiều em không nhớ năm sinh
của bố mẹ hoặc anh chị em ruột của mình.
+ Trong phần B (phần riêng):
Mục 1: Nhằm biết thêm về ngôi trường cấp 2 các em từng theo học. Đặc biệt

điều quan tâm hơn là biết được có những em nào từng theo học trường nội trú
huyện (liên quan đến việc xếp phòng ở về sau)
Mục 2: Là thông tin để lựa chọn cán bộ lớp.
Mục 3, 4: Biết thế mạnh và hạn chế về các môn học của học sinh, cũng như là
định hướng nghề nghiệp trong tương lai của các em. Từ đây GVCN (kết hợp
cùng GVBM) có kế hoạch giáo dục phù hợp nhất với từng đối tượng và cả việc
sắp xếp chỗ ngồi trên lớp sao cho hợp lí để các em có điều kiện giúp đỡ, học hỏi
lẫn nhau trong quá trình tự học trên lớp.
Mục 5: Biết thêm về những sở thích cá nhân cũng như năng khiếu hoặc hạn chế
của học sinh (là cơ sở lựa chọn vị trí bí thư lớp hoặc cán bộ đoàn đội về sau).
Mục 6, 7: Biết thêm về hoàn cảnh gia đình cũng như một phần tính cách của
học sinh. (để GV có sự quan tâm, chia sẻ kịp thời ).
Mục 8: GV sẽ biết được những mong muốn, nguyện vọng của học sinh với
mình hoặc với cha mẹ các em. Từ đó có hướng xử lí hoặc phối hợp với phụ
huynh học sinh được tốt hơn.
Sau khi thu thập thông tin xong, tôi tiến hành tổng hợp theo một số hướng:
Bảng 1: Tổng hợp chung
STT Họ tên
1
2
3


Giới tính

Dân tộc

Quê quán

Đặc điểm cá nhân


Bảng 2: Tổng hợp, phân loại (số lượng) học sinh theo huyện và học sinh dân tộc
Huyện
Ngọc Lặc
Lang Chánh

Tổng

Mường

Dân tộc
Thái
Mông

Kinh

Tổng


Việc nắm bắt sớm, đầy đủ và đa chiều các thông tin về học sinh là yêu cầu rất
quan trọng giúp GVCN có những giải pháp tốt về sau.
2.3.2 Biện pháp thứ hai: Xếp phòng ở trong kí túc xá
Công việc này được tiến hành làm ngay sau khi các em nhập học. Để có
thể xếp được một phòng ở tốt sao cho học sinh có thể nhanh chóng hòa hợp, ổn
định lâu dài và có điều kiện hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt cũng như
học tập là việc làm không hề dễ dàng. Căn cứ vào điều kiện thực tế của lớp gồm
6


9 học sinh nam, 21 học sinh nữ. Có 17 học sinh từng học ở các trường nội trú

huyện, Có những em học tốt các môn tự nhiên, có em học tốt các môn xã hội,…
và theo yêu cầu của nhà trường (được xếp từ 8 đến 10 em một phòng), tôi tiến
hành chia lớp thành 4 phòng gồm 1 phòng nam (vừa đủ 9 học sinh) và 3 phòng
nữ (có phòng ít phải ghép với lớp khác). Với các phòng cần sắp xếp đảm bảo
một số yêu cầu sau (mức tương đối):
- Chia đều số học sinh đã học nội trú huyện (vì những em đã từng học nội trú sẽ
là những người hướng dẫn, hỗ trợ rất tốt cho các bạn mới việc ăn ở, sinh hoạt
trong kí túc xá).
- Chia đều số học sinh ở các huyện (để các em có điều kiện giao lưu tiếp xúc với
bạn mới và tránh trường hợp các em cùng huyện chia bè, kết phái trong phòng,
dẫn đến dễ mất đoàn kết).
- Chia đều những em học tốt, chưa học tốt theo môn học (để các em có thể hỗ
trợ lẫn nhau trong việc tự học).
Theo quan điểm cá nhân tôi, việc các em chủ động tự học hỏi lẫn nhau
trên cơ sở định hướng của thầy cô giáo sẽ hiệu quả hơn rất nhiều so với việc các
em chỉ học từ thầy cô. Bởi vì có những vấn đề “nhạy cảm” không phải lúc nào
thầy cũng hướng dẫn hết cho học sinh được (đặc biệt đối với học sinh nữ), và
ngược lại nhiều học sinh cũng còn nhút nhát chưa chủ động tiếp thu.
2.3.3 Biện pháp thứ ba: Lựa chọn và giao nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ lớp,
trưởng phòng ở KTX.
* Thứ nhất: Lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp, trưởng phòng ở KTX
Lựa chọn được đội ngũ cán bộ lớp, phòng ở tốt cũng là yêu cầu rất quan
trọng. Có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định và tiến bộ của lớp ( cũng là thành
công trong công tác chủ nhiệm của giáo viên). Vì vậy giáo viên chủ nhiệm cần
phải phải sáng suốt, thận trọng và kinh nghiệm trong việc lựa chọn. Theo tôi cần
căn cứ một số tiêu chí sau (đối với từng vị trí):
- Lớp trưởng: Những tiêu chí quan trọng là:
1. Có tinh thần trách nhiệm vì tập thể (thể hiện thông qua lời nói, thái độ
và việc làm cụ thể trước một số công việc chung của lớp như: Lao động, dọn vệ
sinh đầu năm; triển khai, thống nhất nội quy, nề nếp của lớp;…)

2. Ăn nói tự tin và có sức thuyết phục.
3. Năng nổ hoạt bát, chín chắn và quyết đoán.
4. Có uy tín trong tập thể lớp (về vai trò thủ lĩnh)
5. Có học lực khá (giỏi) hoặc một vài tài lẻ (hát hay, đàn giỏi, chơi thể
thao tốt,…)
6. Có kinh nghiệm (đã từng giữ vị trí này ở các lớp dưới);…
- Các lớp phó: Có các tiêu chí cơ bản như lớp trưởng nhưng ở mức độ thấp hơn
và trong phạm vi hoạt động đặc thù của mình. Một số lớp phó cần có là:
Lớp phó học tập: Có học lực khá giỏi và học đều các môn; Có tinh thần,
thái độ học tập sôi nổi và tích cực
Lớp phó văn thể: Có năng khiếu nổi trổi về hát múa và ăn nói; Có tinh
thần, thái độ sôi nổi và tích cực trong các hoạt động phong trào.
Lớp phó lao động: Có sức khỏe tốt, siêng năng chịu khó trong công việc
7


Lớp phó đời sống: Cẩn thận, nhanh nhẹn hoạt bát
- Tổ trưởng, tổ phó: Có các tiêu chí cơ bản như lớp trưởng nhưng ở mức độ
thấp hơn và trong phạm vi của tổ
- Trưởng phòng ở (trong KTX): Có các tiêu chí cơ bản như lớp trưởng nhưng
ở mức độ thấp hơn và trong phạm vi phòng ở. Trong đó đặc biệt ưu tiên tiêu chí
đã từng học nội trú huyện.
Tất cả những vị trí này ngoài việc căn cứ vào các tiêu chí, GVCN phải
lắng nghe, lấy ý kiến bầu chọn từ tập thể lớp. Có như vậy mới chọn được người
uy tín, xứng đáng.
* Thứ hai: Giao nhiệm vụ
Việc giao nhiệm vụ một cách cụ thể, rõ ràng, và hợp lí sẽ giúp học sinh có
thói quen làm việc khoa học và kỉ luật. Từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm
cũng như phát huy hết năng lực sở trường. Tại lớp 10A6 tôi tiến hành giao
nhiệm vụ cụ thể cho từng vị trí như sau:

I. LỚP TRƯỞNG:
- Quản lý, điều hành chung 15 phút đầu giờ.
- Theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nội quy nề nếp và các hoạt
động chung của lớp trong giờ học chính khóa, tự học (buổi chiều, tối) và trên kí
túc xá.
- Chủ động xử lí những công việc chung của lớp (khi vắng mặt GVCN).
- Tổng hợp kết quả thi đua và điều hành tiết sinh hoạt cuối tuần (khi vắng
mặt GVCN hoặc GVCN chỉ tham dự với tư cách giám sát).
II. BÍ THƯ:
- Nắm bắt và tiếp thu những thông báo, chỉ thị và các chương trình hoạt
động của Đoàn trường để kịp thời triển khai cho đoàn viên trong chi đoàn thực
hiện đầy đủ.
- Theo dõi, nhắc nhở việc thực hiện nhiệm vụ của cờ đỏ. Nếu cờ đỏ nghỉ
đột xuất thì đi thay hoặc bố trí người đi thay.
- Ghi biên bản sinh hoạt lớp cuối tuần.
- Lập biên bản kỉ luật đoàn viên cuối tuần (nếu có).
1. Lớp phó học tập:
- Có kế hoạch kiểm tra vở bài tập, vở ghi của cả lớp hàng tuần (kết hợp
cùng GVBM).
- Tổ chức, điều hành 15 phút sinh hoạt các thứ: 4, 6 trong tuần (theo chủ
đề của đoàn trường: chữa bài tập, trao đổi các chuyên đề học tập)
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm học tập. Có kế hoạch giúp đỡ những bạn
còn yếu. Đề xuất với GVCN, GVBM kế hoạch học tập của lớp.
- Theo dõi nề nếp học tập chung và tổng hợp để đánh giá hoạt động học
tập của lớp vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
2. Lớp phó văn thể:
- Tổ chức, điều hành 15 phút sinh hoạt các thứ: 3, 5, 7 trong tuần (theo
chủ đề của đoàn trường: Văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao,…)
8



- Có kế hoạch và tham gia tập huấn múa hát tập thể cho lớp. Các hoạt
động văn nghệ, các phong trào văn thể mỹ do trường đề ra.
- Theo dõi và tổng hợp để đánh giá hoạt động văn thể mĩ của lớp vào tiết
sinh hoạt cuối tuần.
3. Lớp phó đời sống:
- Chịu trách nhiệm chính trong việc thu, chi quỹ của lớp. Nhận và phát
tiền chế độ (còn dư) hàng tháng.
- Phối hợp cùng ban cán sự lớp để có kế hoạch chi tiêu hợp lí trong các
hoạt động tập thể của lớp.
- Báo cáo thu, chi định kỳ vào cuối tháng.
4. Lớp phó lao động:
- Phân công, theo dõi, đôn đốc công tác: Vệ sinh lớp hàng ngày, trực
tuần và các buổi lao động do nhà trường yêu cầu. Vệ sinh phòng ở và vệ sinh
khu vực trong KTX.
- Chịu trách nhiệm chính trong việc khóa cửa, tắt điện khi ra khỏi lớp.
- Phân công, theo dõi việc thực hiện lao động phạt của các bạn vi phạm.
- Tổng hợp để đánh giá và báo cáo vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
IV. TỔ TRƯỞNG, TỔ PHÓ:
1. Tổ trưởng:
- Điều hành các hoạt động của tổ theo sự phân công của GVCN, lớp
trưởng, lớp phó.
- Theo dõi, đánh giá cẩn thận, chi tiết, chính xác điểm và xếp loại hạnh
kiểm cuối tuần của các bạn trong tổ.
- Tổng hợp báo cáo đánh giá xếp loại tổ viên vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
2. Tổ phó:
- Kết hợp cùng tổ trưởng đôn đốc các hoạt động của tổ, điều hành tổ khi
tổ trưởng vắng.
V. TRƯỞNG PHÒNG Phân công, theo dõi, đôn đốc các công việc:
- Vệ sinh phòng ở và vệ sinh khu vực trong kí túc xá.

- Chịu trách nhiệm chính trong việc khóa cửa. Kiểm tra việc tắt điện, tắt nước
khi ra khỏi phòng. Quản lý, giám sát và báo cáo sĩ số theo yêu cầu (giáo vụ,
GVCN,…)
- Thực hiện các yêu cầu khác về nội quy nề nếp trong kí túc xá Tổng hợp để đánh giá và báo cáo vào tiết sinh hoạt cuối tuần.
Để đội ngũ này làm việc tốt, cần lựa chọn phân công việc làm phù hợp với
khả năng từng em, huấn luyện phương pháp làm việc, hướng dẫn cách xây dựng
và trình bày sổ sách khoa học, đầy đủ, hợp lý...Đặc biệt luôn nêu cao tinh thần
đoàn kết, tự giác và tự chủ các thành viên trong lớp. Đó chính là yếu tố quan
trọng nhất quyết định thành bại mọi vấn đề.
2.3.4 Biện pháp thứ tư: Đánh giá xếp loại hạnh kiểm và thi đua khen
thưởng, kỉ luật học sinh.
Nhận thức được việc đánh giá xếp loại và thi đua khen thưởng học sinh
cũng có sự ảnh hưởng rất lớn đến việc ổn định và tiến bộ của lớp cũng như mỗi
thành viên trong lớp. Việc đánh giá khen thưởng kịp thời, công bằng, khách
9


quan sẽ tạo động lực cho các thành viên trong lớp thêm đoàn kết, cố gắng và
phát huy hết tinh thần trách nhiệm vì tập thể. Ngược lại, việc đánh giá khen
thưởng không hợp lí sẽ làm cho học sinh mất đi niềm tin, nhụt ý chí và động lực
phấn đấu. Điều này không sớm thì muộn sẽ làm cho tập thể lớp mất đoàn kết,
lủng củng nội bộ và phá hỏng mọi thứ.
Căn cứ vào nội quy nhà trường đầu năm, tôi tiến hành cho lớp thảo luận
và triển khai thực hiện nội quy nề nếp riêng của lớp 10A6, cụ thể như sau:
HƯỚNG DẪN ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI HẠNH KIỂM VÀ THI
ĐUA KHEN THƯỞNG KỈ LUẬT LỚP 10A6
I. PHẦN TRỪ ĐIỂM
1. Trừ 10 điểm:
- Với các lỗi vi phạm: Đi học muộn 15 phút; Ra chào cờ chậm; Nghỉ học có
phép; Cả tuần phát biểu ý kiến xây dựng bài dưới 1 lần.

2. Trừ 15 điểm:
- Với các lỗi vi phạm: Không thuộc bài hoặc bị điểm kém; Ồn trong lớp (Tổ
trưởng hoặc lớp trưởng nhắc nhở); Không đem vở ghi hoặc không có vở bài tập;
Đứng ngoài hành lang khi có trống vào lớp.
3. Trừ 20 điểm:
- Với các lỗi vi phạm: Nghỉ học không phép; Không đeo thẻ; Không đồng phục;
Không sơ vin; Thiếu dụng cụ học TD, QP; Không hoàn thành công việc trực nhật (VD:
để lớp bẩn, giặt giẻ, múc nước chậm, không đóng cửa sổ, tắt điện khi ra về…);
4. Trừ 30 điểm:
- Với các lỗi vi phạm: Vô lễ với giáo viên; Sử dụng ĐTDĐ trong lớp; Bỏ tiết;
Tự ý đổi chỗ ngồi; Nói bậy chửi tục hoặc ồn trong lớp bị GV nhắc nhở; Hút thuốc lá;
Gây gỗ đánh nhau; Không đi lao động phạt tuần trước; Không hoàn thành các bài dự
thi hoặc không nộp vở (để GV kiểm tra) đúng thời gian quy định.
Lưu ý: Với những lỗi phát sinh không có trong các mục trên thì tùy mức độ mà GVCN
quyết định mức điểm trừ từ 10-30 điểm.
5. Xếp loại hạnh kiểm do xếp loại giờ học không tốt (trong tuần):
a. Nếu cá nhân nào làm cho lớp bị xếp loại giờ học không tốt thì tùy vào mức độ mà
người đó sẽ bị xếp loại:
* Giờ học Khá : Hạ một bậc hạnh kiểm (VD: A xuống B và phạt lao động từ 1 buổi )
* Giờ học Trung bình: Hạ hai bậc hạnh kiểm (và phạt lao động từ 2 buổi )
* Giờ học Yếu: Hạ ba bậc hạnh kiểm (và phạt lao động từ 3 buổi)
b. Nếu lớp có tiết học bị GV phê ồn, mất trật tự, hay ý thức học kém…mà không quy
được trách nhiệm cho ai thì tùy vào mức độ mà mọi người trong lớp sẽ bị xếp loại
như trên.

II. PHẦN CỘNG ĐIỂM
1. Cộng 1 điểm: Với mỗi lần được GV gọi phát biểu ý kiến hoặc đặt câu hỏi xây
dựng bài
2. Cộng 5 điểm: Với các con điểm 7, 8 (trực tiếp trong tiết học trên lớp) hoặc
mỗi lần chữa bài tập 15 phút đầu giờ.

3. Cộng 10 điểm: Với mỗi con điểm 9
4. Cộng 20 điểm: Với mỗi con điểm 10
5. Cộng từ 5 đến 30 điểm: Nếu có thành tích đột xuất được tập thể lớp hoặc GV
khen ngợi.
10


Lưu ý: Hàng tuần Lớp trưởng, các Tổ trưởng được cộng 15đ. Bí thư, các lớp phó,
các tổ phó, người ghi sổ đầu bài, cờ đỏ được cộng 10đ. (nếu làm tốt nhiệm vụ được
giao)

III. CÁCH XẾP LOẠI HẠNH KIỂM.
1. Hàng tuần:
* Loại A: Nếu Tổng điểm 5 điểm.
* Loại B: Nếu 5 điểm < Tổng điểm 15 điểm.
* Loại C: Nếu 15 điểm < Tổng điểm 25 điểm. ( 1C quy đổi thành 2B)
* Loại D: Nếu Tổng điểm > 25 điểm.
( 1D quy đổi thành 3B)
Chú ý: Tổng điểm = [Tổng điểm trừ ] – [ Tổng điểm cộng]
2. XL hạnh kiểm học kì: Cuối mỗi học kì nếu tổng số B (sau khi đã quy đổi):
* 4B: Xếp loại Tốt
* Từ 5B đến 8B: Xếp loại Khá
* Từ 9B đến 12B: Xếp loại Trung bình
* > 12B: Xếp loại yếu

IV. CÁC HÌNH THỨC PHẠT.
1.
2.
3.
4.


Loại B: Vệ sinh phòng học một lần.
Loại C: Lao động 1 buổi (nhổ cỏ, tưới cây, vệ sinh trường lớp,…)
Loại D: Lao động 2 buổi (nhổ cỏ, tưới cây, vệ sinh trường lớp,…)
Dù xếp loại A nhưng nếu đã vi phạm các lỗi trong mục I.3, I.4 thì vẫn phải bị
phạt lao động. Hình thức phạt do GVCN quyết định.
5. Nếu cuối tuần bị xếp loại D (căn cứ thêm hình thức vi phạm) thì lớp sẽ lập
biên bản xử lí tại lớp, nếu trong tháng có từ 2 lần bị xếp loại D (tùy mức độ và
thái độ) lớp sẽ lập biên bản đưa lên đoàn trường xử lí.

V. CÁC HÌNH THỨC KHEN THƯỞNG.
1. Cuối mỗi tuần ai được xếp loại A và:
- Có tổng điểm thấp nhất tổ sẽ nhận phần thưởng một chiếc bút (hoặc phần quà
khác trị giá khoảng 5000đ). Có tổng điểm thấp nhất lớp sẽ nhận phần quà (trị giá
khoảng 5000đ-10.000đ)
(Gọi là phần thưởng Tuần)
- Có số lần phát biểu ý kiến xây dựng bài từ 6 lần và nhiều nhất tổ sẽ nhận phần
thưởng một chiếc bút (hoặc phần quà khác trị giá khoảng 5000đ). Nếu nhiều nhất lớp
sẽ nhận phần quà (trị giá khoảng 5000đ-10.000đ)
(Gọi là phần thưởng “Vua giơ tay Tuần”)
2. Cuối mỗi học kỳ:
a. Ai có nhiều phần thưởng Tuần nhất lớp sẽ nhận phần thưởng một cuốn sổ (trị
giá khoảng 20.000đ) (Gọi là phần thưởng Kỳ)
b. Ai có nhiều phần thưởng “Vua giơ tay Tuần” nhất lớp (và không bị phạt) sẽ
nhận một cuốn sổ (trị giá khoảng 20.000đ). (Gọi là phần thưởng “Vua giơ tay Kỳ” )
Lưu ý: 1. Tiền khen thưởng được trích từ nguồn quỹ lớp và quỹ hội phụ huynh lớp
2. Ngoài những phần thưởng trên đây cuối mỗi học kì, căn cứ vào xếp loại
trên vnedu.vn lớp còn trao các phần thưởng khác như: Thi học kì, Tổng kết học kì,
tổng kết năm học (đối với những học sinh xếp thứ 1, 2, 3), học sinh tiên tiến, học sinh
giỏi,…



11


Việc thực hiện theo hướng dẫn này cũng chỉ dừng ở mức tương đối. Trên thực tế
GVCN cần linh hoạt, mềm dẻo và sáng tạo hơn nửa để làm sao phù hợp nhất với điều
kiện thực tiễn và mức độ chấp nhận của học sinh. Trong năm học 2017-2018 qua thực
tế áp dụng cho lớp 10A6, tôi nhận thấy một số ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm:

- Tương đối phù hợp với thực tế lớp 10A6 (các em rất tự giác chấp hành, thi
đua học hành để có nhiều điểm cộng, hầu hết điểm cộng nhiều hơn điểm trừ)
- Việc xếp loại hạnh kiểm được điểm số hóa rất minh bạch, rõ ràng, khách quan
và dễ dàng vận dụng.
- Việc khen thưởng kịp thời luôn tạo động lực, sự hứng khởi cho phong trào thi
đua của lớp. Lớp học rất vui vẻ, đoàn kết.
- Việc kỉ luật công minh tạo nên kỉ cương, nề nếp của lớp.
Nhược điểm:
- Thời gian đầu chưa quen nên các tổ trưởng còn lúng túng trong việc xếp loại
cho tổ viên (GVCN cần sát sao và hướng dẫn cặn kẽ. Về phần này tôi đã chuẩn
bị săn nhiều bảng biểu khoa học, hợp lí đóng thành cuốn cho lớp trưởng, tổ
trưởng,…thuận tiện sử dụng).
2.3.5 Biện pháp thứ năm: Rèn luyện cho học sinh tính tự lập
Trong môi trường nội trú, để sớm ổn định và hòa nhập các em cần phải có
khả năng tự lập. Để rèn luyện cho học sinh tính tự lập, phải làm cho các em hiểu
mục đích rèn luyện tính tự lập và có phương pháp rèn luyện khả năng tự lập.
Theo tôi cần làm tốt hai yêu cầu sau:
* Thứ nhất: Tuyên truyền, giáo dục
Thông qua việc nắm bắt những nội quy, quy chế của nhà trường. Trong

các buổi sinh hoạt tập thể đầu năm, tôi thường xuyên trao đổi làm rõ với học
sinh lớp 10A6 về vấn đề tự lập:
- Tự lập là khả năng tự chăm sóc bản thân từ ăn ở, đi lại cho đến chi phí sinh
hoạt. Biết chi tiêu có kế hoạch, đúng mục đích. Tự giác thực hiện thời gian biểu
trong ngày: Giờ ăn, giờ ngủ, giờ học, giờ tham gia các hoạt động ngoài giờ lên
lớp....Đồng thời, luôn thường trực ý thức vệ sinh trong nhà, ngoài sân, vệ sinh cá
nhân. Khi ngủ, biết tự căng màn, rải chăn... Ngủ dậy tự gấp chăn màn gọn gàng.
- Biết thực hiện kỹ năng cơ bản mà học sinh sống nội trú cần có, như tự chăm
sóc bản thân, lao động tự phục vụ: tự gặt giũ để có những bộ quần áo sạch sẽ; tự
chủ động làm những việc mình cần làm mà không cần người khác nhắc nhở.
- Tự lập trong học tập là biết chủ động thực hiện theo thời khóa biểu để đến
phòng học hay phòng chức năng đúng giờ; chủ động chuẩn bị bài vở đầy đủ; có
khả năng độc lập nhận thức,...
GVCN cũng cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
(Công đoàn, đoàn thanh niên, tổ nữ công,…) giáo dục các em biết phân biệt điều
tốt, điều xấu để các em có thể say mê vươn tới những mục đích cao đẹp để thể
hiện mình. Biết nói không với điều xấu, nói không với những tình cảm không
12


lành mạnh và những môi trường không lành mạnh; dám suy nghĩ và chịu trách
nhiệm về những chọn lựa của mình.
* Thứ hai: Các biện pháp thực hiện
- Cần giao cho học sinh những việc cụ thể để các em tự chịu trách nhiệm về việc
làm của mình. Cơ hội phát triển dành cho tất cả học sinh, không chỉ tập trung ở
vài học sinh nổi bật.
- Từ các giờ học trên lớp đến các hoạt động văn hóa, thể thao mỗi học sinh đều
có nhiệm vụ rõ ràng và luân phiên thực hiện vai trò lãnh đạo. Có như vậy, các
em mới tự tin, năng động và luôn cố gắng thực hiện phần việc của mình với
trách nhiệm cao nhất.

- Để rèn tính tự quản cho học sinh trong lớp, trước hết rèn tính tự quản cho đội
ngũ cán bộ (lớp, đoàn, đội). Giao trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ tự quản lý,
điều hành, giải quyết mọi công việc của tập thể khi không có mặt giáo viên,
người phụ trách. Giờ tự học buổi chiều, buổi tối là khoảng thời gian không có
giáo viên, các em tự quản, tự giữ kỉ luật trên lớp. Đội ngũ cán bộ lớp có vai trò
quan trọng trong các giờ tự quản. Bên cạnh đó, ý thức tự giác của mỗi học sinh
là yếu tố quyết định trong giờ tự quản tốt hay không. Giáo viên yêu cầu học sinh
giữ kỉ luật trong các giờ tự quản này.
- Tổ chức phổ biến rộng rãi phương pháp học tập để các em có khả năng tự lập
trong học tập. Các em có kĩ năng tự học hỏi, nghiên cứu để hiểu bài sâu sắc, nhờ
đó, khi làm bài không quay cóp, nhờ cậy bạn bè trong các kỳ thi.
- Rèn luyện cho học sinh biết chủ động trau dồi kiến thức của mình khi tiếp thu
bài giảng của thầy cô trong lớp cũng như sau khi tan học. Biết chủ động tìm đến
thư viện để đọc thêm tài liệu, học nhóm với bạn bè cùng lớp hoặc tự rèn luyện
tại phòng ở. Luôn luôn đặt câu hỏi cho những kiến thức mới học để có thể hiểu
một cách sâu sắc và vận dụng nó vào thực tiễn chứ không chỉ học thuộc bài để
đối phó.
- Luyện cho học sinh tập cách tự suy nghĩ và quyết định cho bản thân từ việc
học hành cho đến lựa chọn ngành nghề. Tìm hiểu những điểm mạnh yếu của bản
thân để phát huy tối đa sở trường và hoàn thiện chính mình.
- Luyện cho các em tập quản lý quỹ thời gian. Mỗi ngày, tự lên kế hoạch thực
hiện các công việc với những thời gian định trước, vào cuối ngày, ghi chép lại
những việc đã hoàn thành rồi tự phân tích, kết quả thực hiện, thời gian thực
hiện….Từ đó điều chỉnh lại cho thích hợp.
- Rèn luyện để học sinh tự tin trước đám đông, không rụt rè nhút nhát khi phát
biểu hay tham gia các hoạt động trong trường, lớp (đây chính là hạn chế phổ
biến của học sinh). Các em biết tự mình làm những việc trong khả năng có thể,
không ngại khó, ngại khổ để khỏi bỏ cuộc nửa chừng.
Trong quá trình thực hiện, GVCN khuyên các em kiên định để tập nên
một thói quen làm việc đều đặn hằng ngày. Áp dụng điều này cho việc làm các

13


bài tập về nhà, các công việc hàng ngày khác của các em để mọi việc dần dần đi
vào nền nếp. Bằng cách này, các em có thể tránh được sự chần chừ không đáng
có, sẽ dần dần có khả năng tự chủ và hoàn thành. Bên cạnh đó, một yếu tố cản
trở rất lớn đến việc tự lập của học sinh mà GVCN hết sức lưu ý. Học sinh trường
phổ thông dân tộc nội trú không phải quá lo lắng cho việc ăn, ở, sinh hoạt hàng
ngày...Khi quen được đáp ứng mọi nhu cầu trong cuộc sống, khi mọi chuyện đến
quá dễ dàng, các em có xu hướng ỷ lại và phụ thuộc, đùn đẩy công việc cho
người khác dẫn đến tính ích kỉ. Lối suy nghĩ như vậy rất dễ ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển nhân cách sau này. Do đó, GVCN cần giáo dục các em chăm
lo, có trách nhiệm với công việc tập thể, đưa các em hòa vào các sinh hoạt tập
thể mà nhà trường tổ chức.
2.3.6 Biện pháp thứ sáu: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”
Khi làm việc với bất kì đối tượng học sinh nào, tôi luôn tâm niệm một
điều, đó là “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”. Đặc biệt với đối tượng
học sinh dân tộc thiểu số thì nó càng phù hợp. Để làm tốt điều này GVCN phải
thường xuyên trò chuyện, giao lưu, tìm hiểu, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
tập thể lớp, của cá nhân từng học sinh. Xem các em mong muốn điều gì, có yêu
cầu như thế nào đối với thầy cô giáo, bố mẹ, bạn bè,... Từ đó GVCN mới có
hướng giải quyết phù hợp nhất. Có thể chỉ là những lời động viên chia sẻ. Có
khi phải là những việc làm cụ thể đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ phát huy tác dụng
trong việc giáo dục học sinh.
* Một số mong muốn của học sinh lớp 10A6 (có thể là của nhiều học sinh
THPT khác):
-Muốn tự quyết định một số việc liên quan đến mình (muốn thể hiện cái tôi).
Không muốn bố mẹ, thầy cô giáo giám sát, để ý và can thiệp quá nhiều cuộc
sống riêng tư của các em (muốn có khoảng trời riêng). (1)
- Muốn được tham gia và trải nghiệm nhiều hơn các hoạt động tập thể (Văn hóa

văn nghệ, TDTT, trải nghiệm thực tế, ăn uống,…). (2)
- Muốn được quan tâm chia sẻ, tạo động lực trong học tập cũng như trong cuộc
sống của thầy cô giáo, bố mẹ. (3)

* Hướng giải quyết, đáp ứng các yêu cầu, mong muốn của học sinh.
- Với mong muốn (1): Có thể nói đây là một nhu cầu rất tự nhiên của con
người. Vì vậy GVCN (phối hợp cùng phụ huynh) nên giao việc và để các em tự
quyết định một số việc (trong tầm kiểm soát và định hướng của mình). Không
nên độc đoán dùng quyền lực cá nhân tác động quá nhiều đến các em. Cũng
không nên can thiệp, để ý quá sâu sát vào một số việc mà các em không muốn
(ví dụ trong vấn đề tình cảm bạn bè khác giới,…).
- Với mong muốn (2): Đây cũng là một nhu cầu chính đáng của học sinh. Với
lớp 10A6 tôi luôn ủng hộ tất cả các hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT (trên cơ
14


sở định hướng để không ảnh hưởng nhiều đến việc học tập) . Ngoài ra cũng sẵn
sàng tạo điều kiện để các em có các buổi liên hoan vui vẻ khi phù hợp (ví dụ:
20/10, 8/3, gặp mặt đầu xuân, liên hoan mừng chiến thắng, chia tay nghỉ hè,…).
- Với mong muốn (3): Đây là nhu cầu vừa tự nhiên, vừa xã hội của các em.
Một khía cạnh đáng nói để thõa mãn nhu cầu này cho các em, đó là vấn đề kỉ
luật khi học sinh phạm lỗi. Đứng trước bất kì lỗi lầm nào của học sinh GVCN
nên có cái nhìn bao dung, độ lượng và xử lí theo hướng “kỉ luật tích cực”.
Tuyệt đối tránh việc xúc phạm các em cả về thể chất lẫn tinh thần. Điều này vô
cùng phản tác dụng và phản giáo dục (nó chỉ gây ra những vết thương trong
tâm hồn các em). Một khía cạnh khác, sự quan tâm chia sẻ cần thể hiện đúng
lúc đúng chỗ. Xin nêu câu chuyện thực tế tại lớp 10A6.
* Câu chuyện thứ nhất: Nhân dịp tết nguyên đán Mậu tuất 2018, hội Chữ thập
đỏ nhà trường trao cho mỗi lớp hai xuất quà (dành cho học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn). Tuy nhiên lớp tôi có tới hơn 10 trường hợp có thể nhận quà

(trong đó có 4 em có hoàn cảnh éo le, bố hoặc mẹ mất sớm). Một gợi ý kín cho
lớp trưởng và phụ huynh trưởng hãy trích nguồn quỹ lớp và quỹ phụ huynh
(thêm một phần đóng góp nhỏ của GVCN) để trao thêm 10 xuất quà cho 10 em
có điều kiện khó khăn nhất lớp (ngoài 2 em nhận xuất quà của nhà trường).
Sau sự việc này tôi nhận thấy sự gắn bó, tinh thần đoàn kết của tập thể lớp được
nâng lên rất nhiều.
* Câu chuyện thứ hai: Tổng kết năm học 2017-2018 lớp tôi có duy nhất em
Giàng Thị Chư (dân tộc Mông, huyện Mường Lát) không được học sinh tiên
tiến (đồng nghĩa không có giấy khen và phần thưởng 400.000đ của nhà trường).
Với cách làm tương tự như trên thì hôm tổng kết em vẫn có một phần quà
400.000đ và một cuốn sổ của GVCN tặng riêng.
Thiết nghĩ giá trị vật chất có thể không nhiều nhưng những món quà đúng
lúc, đúng chỗ sẽ có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với cá nhân mà còn đối với cả
tập thể lớp.
2.4 Hiệu quả của SKKN
Trong năm học 2017-2018, việc vận dụng SKKN này cho lớp chủ nhiệm
10A6 bước đầu đem lại thành công. Hầu hết học sinh trong lớp nhanh chóng
thích ứng với môi trường mới. Tập thể lớp luôn đoàn kết, yêu thương đùm bọc
và hỗ trợ nhau trong sinh hoạt và học tập. Minh chứng cho điều đó là những
thành tích cụ thể mà tập 10A6 đã đạt được trong năm học vừa qua.
* Về thành tích tập thể:
- Giấy khen “Tập thể xuất sắc”của hiệu trưởng trường THPT DTNT Ngọc Lặc
(cả trường chỉ có hai lớp đạt danh hiệu thi đua cuối năm là lớp 10A6 đạt danh
hiệu “ Tập thể xuất sắc”, lớp 10A2 đạt danh hiệu “tập thể tiên tiến”. Cũng cần
nói thêm lớp 10A6 chỉ là lớp đại trà, sau khi nhà trường đã thi chọn ra hai lớp
mũi nhọn 10A1 là lớp tự nhiên và 10A2 là lớp xã hội).
- Theo xếp loại thi đua của đoàn trường thì lớp 10A6 có 3 lần nhất tháng
(tháng 11, tháng 3 và tháng 4)/7 tháng thi đua. Các tháng còn lại đều xếp thứ 2.
15



Dưới đây là tổng hợp thi đua (điểm trừ) hàng tháng của các chi đoàn.
ĐOÀN TRƯỜNG THPT DTNT NGỌC LẶC
TỔNG HỢP THI ĐUA CẢ NĂM
ST
T
1
2
3
4
5
6

Lớp
10A1
10A2
10A3
10A4
10A5
10A6

Tháng Tháng
11
12
-39.00 -87.00
-56.60 -78.62
-34.40 -51.37
-21.80 -81.20
-59.27 -108.72
-19.03 -56.07


Tháng Tháng
1
2
-21.00 -60.00
-61.50 -48.60
-87.50 -57.40
-58.20 -55.60
-100.70 -22.80
-34.90
-47.6

Tháng
3
-65.00
-6.90
-46.10
0.00
-54.00
0.00

Tháng Tháng
4
5
-112.00 -37.00
-42.00 -17.00
-103.00 -40.00
-65.00 -43.00
-99.55 -55.00
-39.25 -21.00


Tổng
điểm
trừ
-421.00
-311.22
-419.77
-324.80
-500.04
-217.85

Xếp
loại
chung
5
2
4
3
6
1

- Rất nhiều giấy khen của đoàn trường. Một là “ Đạt thành tích xuất sắc trong
công tác đoàn và phong trào thanh niên năm học 2017-2018”, hai là “ Đạt
thành tích xuất sắc trong tháng thanh niên năm 2018”, ba là “ Giải nhất giải
bóng đá nữ toàn trường lần thứ nhất”, bốn là “Giải nhất giải bóng chuyền nữ
toàn trường lần thứ nhất”
Ngoài ra lớp còn đạt giải nhì văn nghệ trong đợt thi đua chào mừng ngày nhà
giáo Việt nam 20/11. Lớp có 2 phòng/4 phòng đạt phòng kiểu mẫu là phòng: 212
và 214 (trên tổng số 5 phòng kiểu mẫu/23 phòng cả trường).
* Về thành tích cá nhân:

Lớp 10A6 có điểm đầu vào, điểm chọn lớp tương đối thấp. Nhưng với sự
nỗ lực cố gắng vươn lên của mỗi thành viên trong lớp. Kết quả học tập rèn luyện
cuối năm của các em đạt được cụ thể như sau:
Thống kê lớp 10A6
Xếp loại

Học lực
SL
%
Giỏi-Tốt:
2
6.67%
Khá:
27
90.00%
T.bình:
1
3.33%
Yếu:
0
0.00%
Kém:
0
0.00%
Cộng
30
100.00%
Danh hiệu học sinh Giỏi
Danh hiệu học sinh Tiên tiến


Hạnh kiểm
SL
%
30
100.00%
0
0.00%
0
0.00%
0
0.00%
30
2
27

100.00%
6.67%
90.00%

(lớp 10A6 có tỉ lệ xếp loại học lực xếp thứ hai toàn trường, chỉ sau lớp mũi
nhọn tự nhiên 10A1: 4 giỏi, 27 khá)
Ngoài ra trong các kì thi học sinh giỏi văn hóa, TDTT lớp 10A6 cũng đóng góp
nhiều học sinh và cũng đã đạt giải. Cụ thể:
Kì thi HSG các môn văn hóa cấp tỉnh

Kì thi HSG TDTT cấp tỉnh
16


Học sinh dự thi

Bùi Thị Na
Phạm Thị Phương Thảo
Phạm Thị Nhung

Môn thi
Sinh học
Sinh học
Sinh học

Đạt giải

Học sinh dự thi
Phạm Tuấn Anh
Hà Minh Tiến
Bùi văn Ngọc
Phạm Thị Huyền

Môn thi
Vovinam
Vovinam
Vovinam
Điền kinh

Đạt giải
Ba
Ba
KK

Một điều rất đáng phấn khởi mà thầy trò lớp 10A6 làm được đó là sự tín nhiệm,
tin yêu của ban giám hiệu, các thầy cô giáo, bộ phận giáo vụ, nhà bếp, ban lao

động,…cũng như các lớp khác về tinh thần đoàn kết, sự ổn định hòa hợp và ý
thức tự lập (trong cả sinh hoạt và học tập). Một điều mà không phải lớp nào
cũng làm được trong năm học vừa qua.
Đây không chỉ là niềm tự hào, sự cổ vũ lớn lao đối với tập thể lớp 10A6
mà nó còn là động lực để các lớp khác và học sinh khóa mới cùng nỗ lực cố
gắng thi đua học tập rèn luyện đạt được những thành tích cao trong những năm
học tiếp theo.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Với đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 10A6, trường THPT
DTNT Ngọc Lặc sớm ổn định, tự tin hòa nhập và học tập trong môi trường
nội trú” tôi đã cố gắng hệ thống một số biện pháp cơ bản. Trong mỗi biện pháp
có căn cứ vào cơ sở lí thuyết và điều kiện thực tế vận dụng. Các biện pháp đưa
ra theo một trình tự logic và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhằm đạt được
mục đích của sáng kiến. Có những biện pháp mang tính phổ biến. Nhưng cũng
có những biện pháp chỉ mang tính cá nhân. Nhưng tất cả vẫn là sự đúc rút kinh
nghiệm nhiều năm làm công tác chủ nhiệm và cũng đã gặt hái được những thành
công nhất định.
Thực tế vận dụng SKKN này tại lớp 10A6, trường THPT DTNT Ngọc
Lặc trong năm học 2017-2018, tôi nhận thấy các biện pháp đưa ra cơ bản phù
hợp, kết quả đạt được đúng như dự liệu. Biện pháp đầu tiên giúp tôi nhanh
chóng tìm hiểu được những thông tin cơ bản và đa chiều về học sinh. Khi đã có
cái nhìn bao quát về học sinh thì cũng rất dễ để GVCN thực hiện các biện pháp
tiếp theo. Việc xếp phòng ở tương đối hợp lí (dù lúc đầu cũng khá vất vả), việc
chọn đội ngũ cán bộ lớp khá phù hợp (các vị trí làm việc rất đều tay, riêng vị trí
lớp trưởng làm rất tốt). Công tác thi đua khen thưởng, xếp loại hàng tuần được
học sinh thực hiện một cách hào hứng, phấn khởi. Phong trào thi đua học tập,
rèn luyện của lớp rất sôi nổi, tích cực và có chiều sâu. Học sinh không hề có
cảm giác nặng nề, gò bó khi phải thực hiện nội quy nề nếp trường, lớp.

Một yêu cầu quan trọng nhất là rèn luyện cho các em tinh thần đoàn kết
và tính tự lập thì đến nay có thể khẳng định đã thành công. Biểu hiện rõ nhất cho
điều này là mọi thành viên trong lớp sống với nhau rất vui vẻ, hòa đồng. Các em
xem nhau như anh em trong nhà, đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Cùng
bảo ban, nhắc nhở nhau thực hiện nội quy nề nếp và nhiệm vụ học tập của mình
(tuy rằng đầu học kì I, cũng đã có thời điểm một vài cá nhân gây mất đoàn kết

17


nội bộ tạm thời). Tóm lại sáng kiến đã đạt được mục đích đề ra là giúp học sinh
lớp 10A6 sớm ổn định, tự tin hòa nhập và học tập trong môi trường nội trú.
Để thành công của lớp 10A6 trong năm học 2017-2018 không phải là
“hiện tượng” mà phải là một “điển hình” thì trong năm học tiếp theo chắc chắn
tôi sẽ phải rút kinh nghiệm nhiều vấn đề, cái gì làm tốt thì cần phát huy, cái gì
chưa tốt thì phải điều chỉnh, thay đổi. Luôn luôn đổi mới, luôn luôn sáng tạo,
làm sao phải biến những gì đã làm được thành động lực cố gắng vươn tới những
đỉnh cao mới trong tương lai.
Nhận thấy các biện pháp sử dụng trong SKKN này hoàn toàn có thể áp
dụng cho học sinh đầu cấp (và cả các khối lớp khác) các khóa tiếp theo tại
trường THPT DTNT Ngọc Lặc, cũng như tại hầu hết các trường nội trú, bán trú
và các trường phổ thông khác trong tỉnh (chỉ cần điều chỉnh, thay đổi, bổ sung
sao cho phù hợp với điều kiện thực tế vận dụng)
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do thời gian và trình độ năng lực của bản
thân còn hạn chế, nguồn tài liệu tham khảo cũng chưa nhiều. Chính vì vậy
SKKN chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự động viên,
chia sẻ của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm và
hoàn thiện để cho SKKN này được hoàn chỉnh hơn.
3.2 Kiến nghị
* Đối với trường THPT DTNT Ngọc lặc:

- Cần triển khai, phổ biến SKKN này rộng rãi tới toàn thể cán bộ giáo viên trong
trường, đặc biệt là những đồng chí được giao nhiệm vụ chủ nhiệm nói chung và
chủ nhiệm lớp 10 nói riêng.
* Đối với Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa:
- Việc vận dụng SKKN này không chỉ đối với khối 10 mà với các các khối lớp
khác (lớp 11, 12), với các trường THPT DTNT hoặc các trường THPT khác
trong tỉnh (đặc biệt là những trường miền núi) cũng khá phù hợp và dễ dàng (tùy
vào điều kiện thực tế vận dụng mà GVCN có thể điều chỉnh, bổ sung, thay đổi
sao cho phù hợp nhất). Vì vậy tôi cũng kiến nghị Sở giáo dục và đào tạo phổ
biến SKKN này rộng rãi tới giáo viên các trường THPT. Bản thân tôi cũng sẽ
tiếp tục nghiên cứu mở rộng SKKN này lên một tầm cao hơn để có thể bao quát
vấn đề chủ nhiệm và có khả năng vận dụng tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của
người khác.
Người viết

Nguyễn Đức Lượng
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Module11: Chăm sóc hỗ trợ tâm lí học sinh nữ, học sinh dân tộc thiểu số
trong trường THPT
[2] Module 35: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
[3] Module 33: Giải quyết tình huống sư phạm trong công tác chủ nhiệm

[4] Module 2: Hoạt động học tập của học sinh THPT
[5] Các tài liệu khác trên mạng internet

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Đức Lượng
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT DTNT Ngọc Lặc

TT

Tên đề tài SKKN

1 Ứng dụng đạo hàm giải các bài
toán PT, HPT, BPT, HBPT chứa
tham số.
Phương pháp kết hợp dồn biến và
đạo hàm tìm GTLN, GTNN của
hàm nhiều biến trong luyện thi
2 THPTQG và bồi dưỡng HSG tại
trường THPT Lê Lai.

Cấp đánh giá xếp
loại

Kết quả

đánh giá
xếp loại

Năm học

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

đánh giá
xếp loại

Sở giáo dục và

C

2012-2013

B

2015-2016

đào tạo

Sở giáo dục và
đào tạo

20




×