Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân môn chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.45 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Tên phần, mục và tiểu mục

Trang
I. MỞ ĐẦU.
2
1. Lí do chọn đề tài.
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NHỮNG NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
4
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
5
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
11
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2.Kiến nghị

13
13


13

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 KHẮC PHỤC LỖI ÂM
ĐẦU, DẤU THANH TRONG PHÂN MÔN CHÍNH TẢ

1. Phần mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài:
- Chữ viết là đại diện của lời nói. Tuy nhiên, nếu chữ viết bị sai lỗi chính tả sẽ
gây khó khăn cho người đọc, người nghe; làm hiểu sai lệch về nghĩa. Vì thế, muốn
mọi người hiểu đúng chúng ta cần viết đúng. Và phân môn Chính tả trong nhà
1


trường là môn học giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính
tả, rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt
chuẩn mực.
- Việc luyện nói, rèn đọc đúng chính âm, viết đúng chính tả (khắc phục sự hạn
chế của tiếng địa phương), biết xây dựng phong cách ngôn ngữ thân thiện, thanh
lịch chính là xây dựng nét văn hóa trong giao tiếp.
- Tuy nhiên, thực tế cho thấy cách phát âm ở mỗi nơi có sự khác nhau và thói
quen nói sao viết vậy đã gây khó khăn trong việc “nghe và viết” sao cho đúng đối
với chính tả Việt Nam là rất rõ nét. Trong đó Trường Tiểu học Đông Vệ I - nơi tôi
đang công tác thuộc địa bàn Thành phố Thanh Hóa. Thanh Hóa là địa phương phát
âm bị lệch chuẩn, giọng địa phương và vùng miền là rất phổ biến.
- Tiếng địa phương Thanh Hóa và độ lệch chuẩn thường gặp là Thanh điệu;
Phụ âm đầu và Phần vần …
- Nói, viết tiếng địa phương lệch chuẩn Tiếng Việt phổ thông hiện đại chính là
sai kiến thức của môn học Tiếng Việt được dạy trong các nhà trường. Nói, viết
không chuẩn là chưa đạt tính mô phạm chuẩn mực của người làm thầy. Thậm chí
có khi làm sai lệch thông tin hoặc gây sự trào lộng, hài hước. Chính điều này đã

gây khó khăn cho bản thân tôi và các đồng nghiệp trong việc rèn kĩ năng phát âm
chuẩn cho các em dẫn đến việc rèn kĩ năng viết đúng chính tả là khó thực hiện.
- Việc mắc lỗi trong khi viết Chính tả đã phần nào ảnh hưởng tới kết quả học
tập của các em ở môn Tiếng Việt nói riêng và các môn học khác nói chung. Vì vậy,
nhằm giúp học sinh khắc phục nhược điểm này, tôi đã nghiên cứu: “Một số biện
pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân môn
Chính tả”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Thông qua việc rèn luyện thực hành để học sinh hình thành dần kỹ năng, kỹ xảo
và thói quen nói - viết đúng Chính tả.
Để đáp ứng với yêu cầu trên, khi dạy chính tả cho học sinh lớp 3, cụ thể là khắc
phục lỗi về âm đầu và dấu thanh, tôi đã từng đắn đo, suy nghĩ rất nhiều. Làm thế
nào để giúp cho các em nói đúng - viết đúng, biến cái đó thành kĩ năng vận dụng
của từng em. Vì vậy, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục lỗi
âm đầu, dấu thanh trong phân môn Chính tả”., đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng
9/2017 đến tháng 3/2018, tại lớp 3B, Trường Tiểu học Đông Vệ I
2


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực hành
.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Thuật ngữ Chính tả hiểu theo nghĩa gốc là “phép viết đúng” hoặc “lối viết
hợp với chuẩn”. Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ
của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách viết đúng âm đầu, vần và dấu
thanh… Giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Đọc thế nào thì viết thế ấy
tức là khi dạy Chính tả chúng ta phải đọc đúng chuẩn để cho học sinh viết đúng. Cơ
chế của cách viết đúng là xác lập mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết.
3


- Muốn viết đúng chính tả người viết phải hiểu nghĩa của từ, cách phát âm và
biết so sánh với các từ dễ lẫn.
- Viết đúng chính tả là ta đã tôn trọng chính bản thân mình và người đọc, đồng
thời giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Vì những lí do trên tôi mạnh dạn xin trình bày một vài kinh nghiệm mà tôi đã
để tâm suy nghĩ và thực hiện trong suốt quá trình dạy học lớp 3 của mình.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Tuy yêu cầu cần thiết và tính chất quan trọng của việc viết đúng Chính tả như thế,
nhưng thực tế của việc dạy và học Chính tả ở trong trường Tiểu học hiện nay vẫn
còn tồn tại một số lỗi nhất định. Những tồn tại phổ biến hiện nay thường biểu hiện
qua mấy điểm sau:
2.2.1. Về giáo viên.
- Nhìn chung, giáo viên chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí nhiệm vụ của
môn Chính tả trong trường Tiểu học. Chưa xác định được yêu cầu, kiến thức cần
đạt được về Chính tả ở khối lớp mình phụ trách. Từ những quan niệm, nhận thức
lệch lạc đó trong giảng dạy phân môn Chính tả, giáo viên ít dành thời gian và ít
nghiên cứu để dạy tốt môn Chính tả: Cụ thể như không chú ý để thống kê những lỗi
phổ biến ở lớp mình phụ trách, của địa phương học sinh đang sinh sống, chưa vận
dụng sáng tạo những từ, những bài dạy ngoài sách học sinh, để bài dạy thêm phong
phú đa dạng.

- Về nói, hầu hết các giáo viên chỉ phát âm đúng trong giờ dạy tập đọc và lúc
đọc Chính tả. Như vậy nghĩa là ở các môn học khác giáo viên luôn luôn phát âm
theo kiểu bình thường của người địa phương. Việc phát âm không đúng chuẩn, đã
phần nào ảnh hưởng đến Chính tả.
- Ngoài ra, trong giảng dạy giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc rèn kĩ
năng viết đúng chính tả cho học sinh. Những biện pháp khắc phục đưa ra chưa hiệu
quả, chưa có sự đầu tư, đổi mới trong giảng dạy .... Chính những điều này đã làm
cho chất lượng môn học Chính tả nói riêng hay bộ môn Tiếng Việt nói chung bị
giảm sút rất nhiều, đây là một trong những vấn đề mà mỗi người giáo viên đứng
lớp như tôi luôn trăn trở.
2.2.2. Về học sinh.
- Việc nói - viết chính tả của học sinh trường tôi nói chung và đặc biệt là học
sinh lớp 3B tôi chủ nhiêm hầu như đều mắc các lỗi chính tả. Nhưng trong phạm vi
đề tài này, tôi chỉ đưa ra những lỗi về phụ âm đầu (d/r/gi; s/x; ch/tr và lỗi viết dấu
thanh (hỏi - ngã) mà học sinh lớp tôi thường mắc phải.
4


Trong thực tế giảng dạy phân môn Chính tả cho học sinh, tôi đã tìm hiểu và
nhận thấy một số nguyên nhân chính sau:
- Do tiếng địa phương Thanh Hóa bị lệch chuẩn (từ ngữ và giọng điệu riêng
của vùng, miền.) Tiếng địa phương thể hiện bản sắc riêng của mỗi vùng và góp
phần làm nên sự phong phú của ngôn ngữ, văn hóa dân tộc. Nhưng bên cạnh tinh
hoa cần phát huy, tiếng địa phương Thanh Hóa còn nhiều hạn chế về ngôn từ, nhất
là trong cách phát âm việc phát âm giọng địa phương là rất phổ biến.
- Một số ít học sinh chưa nắm vững chính âm, chính tả; chưa nhớ kĩ mặt chữ,
quy tắc viết, Khi đọc, học sinh thường đánh vần chậm và rời rạc, đọc sai dấu thanh,
sai phụ âm đầu, vần, ngắt nghỉ hơi tự do. Đây là một trong những nguyên nhân
quan trọng làm ảnh hưởng đến kĩ năng viết của các em. Các em chỉ chú ý viết đúng
Chính tả trong giờ học Chính tả chủ yếu là nghe giáo viên phát âm, chứ không cần

nghe - hiểu nghĩa từ để viết đúng Chính tả. Vì thế, ở các môn học khác kể cả môn
tập làm văn, học sinh viết sai Chính tả rất nhiều. Do đó bài tập làm văn các em viết
có ý nhưng lại sai quá nhiều lỗi Chính tả, nên mất hết ý nghĩa của bài văn và mất
hay. Lỗi này do học sinh chưa có được ý thức và thói quen viết đúng Chính tả trong
mọi môn học. Vì thế, chúng ta cũng không lạ gì khi một học sinh có thể viết đúng
trong giờ Chính tả nhưng lại sai rất nhiều lỗi Chính tả trong môn học khác.
- Ý thức tự học, tự rèn viết của học sinh chưa tốt. Mặt khác, đa số phụ huynh ít
quan tâm đến kĩ năng viết của con em mình trong quá trình học tập.
Thực tế, trong nhiều năm giảng dạy các, tôi thấy kĩ năng viết đúng chính của
học sinh tả là khó thực hiện. Bản thân tôi đã khảo sát bằng bài viết chính tả, kết quả
khảo sát đầu năm học 2017 – 2018 ở lớp 3B như sau:
Sĩ số
43

Mắc lỗi
d/r/gi
SL

TL

Mắc lỗi
s/x; ch/tr
SL
TL

10

23,3%

15


34,8%

Mắc lỗi
dấu thanh (hỏi - ngã)
SL
TL
11

25,6%

Từ thực trạng và kết quả khảo sát trên, tôi thấy cần phải nâng cao chất lượng viết
đúng chính tả cho học sinh bằng cách áp dụng “Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 3 khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân môn Chính tả”.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:

5


Để nâng cao chất lượng khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân môn
Chính tả cho học sinh lớp 3, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là
một công việc rất khó khăn và cần phải đưa ra một số biên pháp để thực hiện. Từ
những biện pháp đã trải nghiệm, qua sự đóng góp ý kiến của bạn bè - đồng nghiệp
và tìm hiểu qua các phương tiện thông tin. Tuỳ theo nội dung yêu cầu của mỗi bài
học và đối tượng học sinh mà bản thân tôi đã áp dụng linh hoạt nhóm các biện pháp
sau:
2.3.1 Luyện phát âm: Muốn viết đúng yêu cầu phải đọc đúng vậy nên việc rèn
cách phát âm đã được tôi thực hiện thường xuyên trong tất cả các môn học, đặc biệt
là phân môn Tập đọc. Vì đa số các bài viết Chính tả đều được trích từ một bài Tập
đọc mà học sinh đã học trong chủ điểm tuần. Do đó, tôi đã lựa chọn các âm - vần,

dấu thanh mà học sinh thường phát âm sai trong từng bài Tập đọc để luyện cho các
em phát âm đúng. Ví dụ: Đa số học sinh lớp tôi thường phát âm sai d/r/gi; s/x;
tr/ch, thanh hỏi, thanh ngã. Do đó, ở tất cả các bài Tập đọc, tôi luôn quan tâm lựa
chọn những từ ngữ có cặp phụ âm đầu d/r/gi; s/ x; tr/ch và những từ ngữ có chứa
thanh hỏi, ngã để luyện.
* Ví dụ: Để luyện phát âm:
- Đối với âm “tr” - cần đưa lưỡi lên vòm miệng;
- Âm “s”- đọc cong lưỡi, phát hơi;
- Âm “r”- đọc cong lưỡi, lấy hơi;
- Âm “gi”- đọc xì hơi ra; …
+ Đối với học sinh hay sai dấu hỏi/ngã thì những tiếng có thanh ngã thường
được đọc nhấn giọng và dài hơi hơn: Ví dụ: trầm bổng - bỗng chốc, buồn bã - bả
vai, ...
- Để học sinh phát âm tốt giữa hai thanh hỏi - ngã, trước tiên tôi đã cho học sinh
luyện phát âm các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: Thanh
hỏi: gỏi, thỏi, giỏi, lỏi, cỏi (kém cỏi)…
+ Thanh ngã: bã (buồn bã), đã, giã (giã gạo).
Mặt khác, việc luyện phát âm chuẩn còn được tôi thực hiện trong tất cả các hoạt
động có liên quan đến giao tiếp. Để làm tốt được điều này, đòi hỏi giáo viên phải
triệt để dùng phương pháp làm gương, phát âm chuẩn trong lúc dạy các bài thơ, lời
hát, lời hướng dẫn học bài, trong lời bảo ban, căn dặn các em ... Ngoài ra tôi cũng
chọn cử một số học sinh có giọng phát âm tương đối chuẩn để làm mẫu trước lớp
trong mỗi tiết học và hỗ trợ tôi trong việc rèn sửa phát âm cho bạn mình trong quá

6


trình giao tiếp. Nếu thấy bạn phát âm sai các em sẽ nhắc nhở và hướng dẫn bạn
chỉnh sửa như vậy các em được học tập lẫn nhau.
Chính những việc làm này đã giúp học sinh ý thức hơn được tầm quan trọng

của tiếng nói phổ thông. Qua đó, các em đã luôn cố gắng thực hiện phát âm chuẩn
ở mọi lúc, mọi nơi.
2.3. 2 Phân biệt tiếng - từ:
Qua phân tích, so sánh với những từ ngữ khó, dễ lẫn tôi đã kết hợp luyện đọc
với phân tích cấu tạo tiếng, so sánh các tiếng đó với nhau (về âm - vần - dấu thanh)
để tìm ra những điểm khác nhau giúp học sinh dễ ghi nhớ.
Ví dụ: Tiếng “dành” và “giành”, tôi hướng dẫn học sinh: “dành” = (âm đầu) d +
(vần) anh + thanh huyền. Viết thành “dành” khi ta muốn cất giữ hoặc để lại cái
(điều) gì đó: dành dụm, để dành, ….
+ Tiếng “giành” = (âm đầu) gi + (vần) anh + thanh huyền. Viết thành “giành” khi
nói đến sự nỗ lực, cố gắng để đạt được điều gì đó: giành giải nhất, giành độc lập,
giành giật, ….
2.3. 3 Giải nghĩa từ:
Muốn viết đúng chính tả, ngoài việc nghe phải gắn với việc hiểu nội dung của
từ, cụm từ, câu, ... Việc giải nghĩa từ không chỉ được thực hiện trong các phân môn
Tập đọc, Luyện từ và câu mà nó cũng rất cần thiết trong dạy học Chính tả. Đặc biệt
khi học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo
tiếng do vốn từ còn hạn chế thì giáo viên cần dựa vào văn cảnh để giải thich để học
sinh rõ hơn.
*Đối với âm “tr”
- Ví dụ: Tiếng “trông” và “chông” muốn dùng đúng, người viết phải phân biệt được
sự khác nhau về nghĩa của hai từ này từ đó rút ra cách viết đúng chính tả:
+ Viết là “trông” khi muốn nói về sự hi vọng, chờ đợi: trông mong, trông ngóng,
trông cậy; Chỉ hoạt động (nhìn): trông coi, trông nom, trông chừng, ...
+ Viết là “chông” khi nói về sự vật: chông tre, hầm chông…; Chỉ sự khó khăn,
nguy hiểm: chông gai; Và nói đến sự không vững chãi, không chắc chắn: chông
chênh.
- Nếu chúng là từ chỉ vị trí thì ta ghi “tr”: Ví dụ: trên, trong, trước, ...
- Nếu chúng là các từ chỉ đồ vật trong gia đình, tên con vật hoặc chỉ người trong
mối quan hệ họ hàng thì đa số được viết là “ch”. Ví dụ: cha, chú, cháu, ...; chăn,

chiếu, chậu, chén, ... (ngoại lệ: tráp); chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, ....

7


- Nếu chúng là các từ chỉ đồ vật trong gia đình, tên con vật hoặc chỉ người trong
mối quan hệ họ hàng thì đa số được viết là “ch”. Ví dụ: cha, chú, cháu, ...; chăn,
chiếu, chậu, chén, ... (ngoại lệ: tráp); chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, ....
*Đối với âm “x”
- Nếu chúng là tên các thức ăn và đồ dùng liên quan đến nấu nướng thì đa số ta ghi
“x”: Ví dụ: xôi, xúc xích, xà lách, cái xoong, cái xiên (nướng), ... (ngoại lệ: siêu
đất)
- Nếu chúng là từ chỉ tên cây, tên con vật hoặc tên chỉ các hiện tượng thiên nhiên
thì ta ghi “s”: Ví dụ: sen, sắn, sung, su su, sầu riêng, ...; sâu, sẻ, sên, cá sấu, sư tử, ..
. (ngoại lệ: vịt xiêm); (ngôi) sao, (hạt) sương, sông, suối, ...
+ Phân biệt “s” hoặc “x”:
- Dựa vào mẹo kết hợp với âm đêm, vần: “S” không ði với các vần oa, oã, oe, uê,
chỉ có X là ði với các vần này.
Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoãn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa,
xuyên qua… (Có các trýờng hợp ngoại lệ nhý soát trong rà soát, kiểm soát…, soạn
trong soạn bài và những trýờng hợp ðiệp âm ðầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ
soạng…)
- Với những từ nhiều tiếng, từ nhiều nghĩa tôi đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để
gợi nghĩa từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
2.3.4 Củng cố, khắc sâu mẹo luật, quy tắc chính tả:
Việc kết hợp ghi nhớ các quy tắc chính tả, các “mẹo chính tả” giúp học sinh ghi
nhớ một cách khái quát, có hệ thống:
- Thường xuyên nhắc nhở học sinh ghi nhớ quy tắc: chữ ghi âm đầu như: “k, gh,
ngh” đứng trước các nguyên âm i, e, ê, ia, iê đã được học từ lớp 1.
- Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em nắm chắc những “mẹo” sau:

Trường hợp ch/tr:
Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần âm đệm (oa, oă, oe, uê). Do đó nếu gặp
các dạng này ta chọn ch để viết, không chọn tr.
Ví dụ: sáng choang, áo choàng, choáng váng, chập choạng, ... loắt choắt,
chích choè, chí chéo, chuệch choạc, chuếnh choáng, ...
- Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Do
đó nếu gặp các dạng này ta chọn tr để viết, không chọn ch.
Ví dụ: trịnh trọng, trường, trạng nguyên, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu, trù bị, ...
- Những từ chỉ đồ vật trong nhà, chỉ tên các loại quả, chỉ tên các món ăn, chỉ
tên các hoạt động, chỉ quan hệ giữa những người trong gia đình và những từ mang
8


ý nghĩa phủ định thường có âm đầu ch.
Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo, ... chuối, chanh,
chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ, ... cha, chú, chị, chồng, cháu,
chắt, chẳng, chưa, chớ, chả, ...
- Một số từ có thể thay âm đầu tr bằng âm đầu
gi. Ví dụ: trồng - giồng, trầu - giầu, trời - giời, ...
Trong cầu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả tr và ch đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp láy âm đầu thì ta có
thể chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu ch hoặc tr.
Ví dụ: chông chênh, chen chúc, chăm chỉ, chân chất, chập chững, ... tròn
trĩnh, trùng trục, trăn trở, tròng trành, trơ tráo, trập trùng, ...
+ Láy vần: Trong các từ láy vần có một tiếng ta chọn tiếng có âm đầu “ch” Ví
dụ: chơi vơi, lừng chừng, chàng màng, chênh vênh, chán ngán, chót vót..(trừ
một số trường hợp đặc biệt: trót lọt, trụi lủi)
Trường hợp s/x
- Chữ s không đứng đầu các tiềng có âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ) ngoại trừ
các trường hợp: soát, soạt, soạng, soạn, suất. Do đó nếu gặp các tiềng dạng này

thì ta chọn x để viết không chọn s.
Ví dụ: xuề xoà, xoay xở, xoành xoạch, xuềnh xoàng, xoăn, xoe, xuân, ...
- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả s và x đều có từ láy âm. Do đó nếu gặp từ láy âm đầu thì có thể
chọn cả hai tiếng cùng có âm đầu s hoặc x.
Ví dụ: sắc sảo, suy suyển, sờ soạng, sục sạo, sung sướng, sỗ sàng, ... xao xuyến,
xôn xao, xàm xỡ, xì xào, xí xoá, xấp xỉ, xoèn xoẹt, ...
+ Láy vần: Tiếng có x thường láy với tiềng có l, trừ một số trường hợp: lụp sụp, đồ
sộ, sáng láng. Do đó nếu gặp láy vần thì ta chọn tiếng chứa âm đầu x.
Ví dụ: liểng xiểng, loăn xoăn, loà xoà, lộn xộn, lao xao, xoi mói, xích mích, xa lạ, ..
- Một số từ ghép có một tiếng có âm đầu s và có một số tiếng có âm đầu x:
Ví dụ: xứ sở, sản xuất, xuất sắc, xác suất, xổ số, soi xét, ...
Trường hợp r/d/gi
- Chữ r và gi không đứng đầu các tiềng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy).
Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, không chọn r hoặc gi.
Ví dụ: kinh doanh, doạ nạt, doãng ra, hậu duệ, duy nhất, duyệt binh, ...
- Trong các từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
9


Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu, ...
+ Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi.
Ví dụ: giải thích, giảng giải, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác, ...
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có
âm đầu a và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.
Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dư
dật, ung dung, ...
- Trong cấu tạo từ láy:
+ Láy âm: Cả gi, r, d đều có từ láy âm. Nếu gặp từ láy âm thì có thể chọn cả hai

tiếng cùng có âm đầu gi, r hoặc d.
Ví dụ: giành giật, giãy giụa, giục giã, già giặn, giấm giúi, ... dai dẳng, dào dạt, dằng
dặc, dập dìu, dãi dầu, ... ríu rít, ra rả, rì rào, réo rắt, run rẩy, rung rinh, rưng rức,
rùng rợn, rón rén, rừng rực, rạng rỡ, rực rỡ, ...
+ Láy vần: Tiếng có d thường láy với tiếng có l, tiếng có r thường láy với tiếng
có b hoặc c, tiếng có gi thường láy với tiếng có n.
Ví dụ: lim dim, lò dò, lai dai, ... bứt rứt, cập rập, bịn rịn, co ro, cò rò, bủn rủn, ...
gian nan, gieo neo, giãy nảy.
- Một số từ láy có các biến thể khác nhau: rào rạt - dào dạt, rập rờn - giập
giờn, dân dấn - rân rấn, dun dủi - giun giủi, dấm dứt - rấm rứt, dở dói - giở
giói, gióng giả - dóng dả, réo rắt - giéo giắt. rậm rật - giậm giật, ...
- Trong cấu tạo từ ghép giữa r, d, và gi. Chỉ có từ ghép có tiếng âm đầu gi và
tiếng có âm đầu d, không có từ ghép có tiếng âm đầu r và âm đầu d hay âm đầu r và
âm đầu gi.
Ví dụ: già dặn, giáo dục, giao dịch, giả dối, giản dị, giao du, giảng dạy, giận dữ,
gian dối, giận dỗi, giao duyên, ...
+ Phân biệt thanh hỏi - ngã thì: Phần nhiều các tiếng có phụ âm đầu là “m, n, nh, v,
l, d, ng” thường được viết dấu ngã. Ví dụ: mạnh mẽ, nỗ lực, nhẫn nại, vĩ cầm, ngôn
ngữ, lãng mạn, dĩ nhiên, ...
+ Đa số tên họ cá nhân (họ của một người) được viết bằng dấu ngã: Ví dụ: Đỗ Thị
Thu Hà, Nguyễn Thị Tâm, Lữ Thị Hải, Võ Văn Nam, …
Mẹo, luật thường khó nhớ. Vì thế trong quá trình giảng dạy, tôi thường xuyên
cho học sinh quan sát, nhắc nhở, khuyến khích các em luyện viết nhiều lần để tạo thói
quen dùng từ đúng. Dựa vào các mẹo luật, tổ chức cho học sinh thi tìm tiếng có cùng
một âm (vần), dấu thanh, … Ví dụ: Viết và trưng bày các mẹo luật quanh lớp, sưu tầm
tranh ảnh có liên quan về một phụ âm (dấu thanh) xếp - tạo hình, ….
10


2.3. 5 Tổ chức đa dạng hoá các hoạt động học tập

* Trò chơi học tập: Trong các tiết học, tôi đã tổ chức cho học sinh tham gia vừa
học vừa chơi một cách thoải mái các trò chơi học tập nhằm phát huy tính tích cực
của các em như thi đọc nhanh; thi tìm tiếng, từ có chứa âm, vần; ghép thẻ từ; thi
tìm tiếng, từ sai và sửa lại cho đúng, .... Ví dụ: Tôi chuẩn bị thẻ từ có sẵn phần âm,
vần, dấu thanh. Học sinh sẽ lên thi ghép thành tiếng từ với các âm - vần, dấu thanh
đó với nhau sao cho đúng. Tôi tổ chức chia nhóm để học sinh thực hành luyện tập
trong nhóm: Tổ chức thi giữa các nhóm. Sau khi chơi và tiến hành nhận xét - đánh
giá, tôi sẽ chọn một vài tiếng từ để các em phân tích, giải thích sự đúng sai ở mỗi
tiếng - từ đó nhằm khắc sâu kiến thức.
- Hoặc khi sinh hoạt lớp tôi có thể dành một phần thời lượng để tổ chức ôn luyện kĩ
năng viết đúng chính tả (đã học trong tuần) cho học sinh thông qua các trò chơi
như: Hái hoa dân chủ, Ai nhanh đúng… Quá trình vừa học vừa chơi đó sẽ giúp học
sinh ghi nhớ, củng cố kiến thức sâu hơn. Trên đây là một vài biện pháp nhằm khắc
phục lỗi chính tả cho học sinh. Để làm tốt điều này, giáo viên phải thường xuyên
theo dõi, nhắc nhở; học sinh gặp sai ở phần nào thì giáo viên nên củng cố ngay
phần đó để các em dễ nhớ và thấm sâu vào trí nhớ của các em.
* Luyện tập, thực hành:
Ngay từ đầu năm học, tôi căn cứ vào tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học
sinh để thành lập các trọng điểm chính tả cần dạy.
- Trong giảng dạy, tôi đã tiến hành xây dựng nội dung bài dạy phù hợp hơn với đối
tượng học sinh lớp mình bằng cách điều chỉnh, thay thế một vài bài tập mà học sinh
đã làm tốt bằng các bài tập khác mà các em hay mắc lỗi.:
- Nếu chúng là các từ chỉ đồ vật trong gia đình, tên con vật hoặc chỉ người
trong mối quan hệ họ hàng thì đa số được viết là “ch”. Ví dụ: cha, chú, cháu...;
chăn, chiếu, chậu, chén, ... (ngoại lệ: tráp); chồn, chuột, chó, chuồn chuồn, châu
chấu…
- Để nâng cao kĩ năng viết đúng của học sinh, tôi đã đưa ra những đoạn văn, khổ
thơ trong đó có nhiều từ viết sai chính tả để học sinh tự phát hiện lỗi, tìm hiểu
nguyên nhân sai và có ý thức chữa lại cho đúng (trong thời gian luyện tập hay phụ
đạo học sinh). Ví dụ: Hãy gạch chân tiếng viết sai và sửa lại cho đúng câu văn sau:

“Nghe kể truyện không hay bằng tự đọc truyện”.
* Tự chấm, chữa bài: Trong quá trình viết, tôi thường xuyên nhắc nhở học sinh
kiểm tra ngay lại chữ vừa viết để có thể chỉnh sửa kịp thời. Việc tổ chức soát lỗi
cũng được tổ chức linh động sau khi học sinh viết xong bài viết. Để đỡ mất thời
11


gian và có thể biết được chất lượng bài viết của đa số học sinh trong mỗi tiết học,
tôi đã hướng dẫn các em cách tự phát hiện lỗi qua bài viết mẫu của bạn trên bảng
phụ hoặc xem trực tiếp.
Đồng thời, tôi luôn bám sát theo dõi kĩ những học sinh có năng khiếu và nhanh
nhẹn để dần các em có thể hỗ trợ mình trong quá trình soát lỗi khi viết. Để tăng
cường khuyến khích việc phát triển kĩ năng soát lỗi chính xác ở học sinh, tôi đã tổ
chức các hình thức thưởng phạt nhẹ nhàng và vui vẻ như cộng điểm thưởng, phạt
làm trò, tuyên dương, ....
* Tự học:
- Tự đọc: Để hỗ trợ cho quá trình viết tốt, tôi luôn nhắc nhở học sinh đọc trước
đoạn (bài) sẽ viết. Việc làm này vừa giúp các em rèn đọc tốt hơn, vừa ghi nhớ được
mặt chữ. Buổi học sau ở 10 phút đầu giờ, tôi luôn cùng Ban cán sự lớp học trực tiếp
kiểm tra, chỉnh sửa cho các em. Bên cạnh đó, tôi luôn chia nhóm “Đôi bạn cùng
tiến” để các em có điều kiện học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng tiến bộ; đồng
thời khêu gợi được sự yêu thương, đoàn kết, biết giúp đỡ nhau trong mọi hoạt
động.
- Tự viết: Trước mỗi tiết Chính tả, tôi đã yêu cầu học sinh tự học thông qua việc tự
mỗi học sinh tìm những từ ngữ mà các em dễ viết sai để quan sát và ghi nhớ mặt
chữ. Sau đó, tập chép trước câu, đoạn Chính tả ở nhà và tự soát lỗi; mỗi tiếng sai
các em sẽ gạch chân và tập viết lại một lần nữa. Việc này giúp các em dần dần khắc
phục những lỗi chính tả thường mắc phải và cũng là dịp để các em rèn cách trình
bày, rèn viết chữ đẹp hơn. Đây là một việc làm khá hữu hiệu đối với học sinh Tiểu
học vì các em có khả năng ghi nhớ máy móc khá tốt, thuộc nhanh. Song song đó,

tôi thường xuyên kiểm tra, uốn nắn, tiến hành cho các em phân tích và luyện viết
các tiếng từ sai nhiều lần tại lớp. Ví dụ: Với bài nghe - viết “Cô giáo tí hon” thì cần
cho học sinh quan sát và luyện viết từ khó mà các em dễ mắc lỗi như: tỉnh khô,
trâm bầu, ríu rít vì học sinh dễ viết sai các từ này thành: tĩnh khô, châm bầu, díu dít.
Với những học sinh thường viết sai, tôi dành nhiều thời gian để hướng dẫn cho các
em; cùng các em tìm hiểu lỗi sai và gợi ý biện pháp khắc phục giúp các em tự tin
hơn trong quá trình rèn viết đúng; kịp thời khuyến khích, động viên khi các em có
những biểu hiện tiến bộ.
- Kết hợp rèn viết Chính tả ở tất cả các môn học. Viết sai chính tả sẽ làm mất đi ý
nghĩa thực sự của câu văn, bài viết. Vì thế, quá trình rèn viết đúng chính tả cũng
cần được tiến hành triệt để trong tất cả các môn học: Trong môn Tiếng Việt: Để hỗ
trợ quá trình rèn viết đúng, ngoài phân môn Tập đọc; khi dạy Luyện từ và câu, Tập
12


làm văn, …tôi đã chú ý đến việc sử dụng từ ngữ của học sinh. Khi dạy Tập làm văn
tôi chú ý học sinh cách dùng từ; với Luyện từ và câu, tôi cho các em đặt các loại
câu thật nhiều lần và phát hiện chính tả sai trong câu; có thể hỏi “nếu như từ này
đặt trong văn cảnh này thì nó có ý nghĩa gì không?” Ví dụ: “Mẹ em mặc cái áo màu
xanh cốm chông rất hợp với mẹ”. Những từ các em viết sai trong câu dẫn đến câu
văn không còn rõ nghĩa, từ chỗ hiểu nghĩa, nêu nghĩa của câu thì các em sẽ khắc
phục được lỗi chính tả. Việc làm này được tôi tiến hành một cách kiên trì, thường
xuyên để giúp học sinh dần có ý thức rèn kĩ năng “viết đúng” trong mọi tình huống;
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo, đưa dạy học Chính tả vào đúng mục
tiêu, đúng vị trí của nó; Ở môn Toán: Trong quá trình trình bày bài giải có lời văn,
nếu viết sai lỗi đề toán sẽ không có nghĩa, gây khó hiểu cho người đọc. Do đó, tôi
luôn nhắc nhở học sinh chú ý đến câu chữ khi viết; hướng dẫn, yêu cầu các em đọc
kĩ lại câu - từ khi đặt đề toán, viết lời giải, ....
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường:

* Trong quá trình giảng dạy: Với việc áp dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy
học sinh đã có những tiến bộ. Đa số học sinh đã ý thức được tầm quan trọng của
tiếng nói phổ thông, vì thế khả năng phát âm chuẩn ngày một nâng lên. Tỉ lệ học
sinh viết đúng chính tả tăng lên rõ rệt, tốc độ viết chính tả cũng vì thế mà nhanh
hơn, đúng hơn.
Kết quả điều tra về khả năng viết đúng Chính tả của học sinh lớp 3B do
tôi phụ trách đã chuyển biến rõ rệt và cụ thể hiện trong năm học. Năm học 20172018 đạt Kết quả đạt được cụ thể như sau:
Sĩ số
43

Mắc lỗi
d/r/gi
SL
1

TL
2,3%

Mắc lỗi
s/x; ch/tr
SL
TL
2

4,6%

Mắc lỗi
dấu thanh (hỏi - ngã)
SL
TL

1

2,3%

Ngoài ra, ở phân môn Tập đọc tôi không còn phải mất nhiều thời gian để luyện
phát âm; các tiết học trở nên nhẹ nhàng, hứng thú hơn. Học sinh thực hành các
phân môn Luyện từ và câu, Tập làm văn cũng tốt hơn; các em luôn có sự chú ý khi
viết nên câu chữ cũng vì thế mà bài làm đúng hơn, hay hơn.
13


* Công tác khác: Trong công tác chuyên môn - tổ khối, qua việc triển khai áp
dụng các sáng kiến kinh nghiệm trong toàn trường, tôi cũng nhận được rất nhiều ý
kiến phản hồi tốt về hiệu quả của việc áp dụng biện pháp khắc phục lỗi âm đầu dấu thanh cho học sinh từ các giáo viên chủ nhiệm trong và ngoài khối. Bên cạnh
hiệu quả viết đúng chính tả, vì không còn phải chú ý đến lỗi khi viết nên chất lượng
trong công tác rèn chữ - giữ vở của lớp tôi cũng vì thế mà ngày một hiệu quả hơn.
3. Kết luận, đề xuất.
3.1. Kết luận:
Với học hỏi của đồng nghiệp và cố gắng của bản thân, tôi đã tìm ra được “Một
số biện pháp giúp học sinh lớp 3 khắc phục lỗi âm đầu, dấu thanh trong phân
môn Chính tả”. để dạy Chính tả cho học sinh ở bậc Tiểu học, mà cụ thể là ở lớp 3
tôi đang dạy. Tôi nhận thấy với cách dạy này học sinh thích học Chính tả và đạt kết
quả cao trong giờ học.
3.2. Đề xuất:
Xuất phát từ thực tế dạy chính tả cho học sinh ở lớp 3 và dựa vào mục đích, yêu
cầu nội dung phương pháp dạy học Chính tả cho học sinh tiểu học nói chung và
học sinh lớp 3 nói riêng Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả tôi
xin phép nêu ra một số kiến nghị sau:
* Đối với giáo viên dạy :
- Trước hết ngay từ lớp 1 giáo viên phải chú trọng luyện cho học sinh đọc chuẩn

29 chữ cái (rõ các âm quặt lưỡi), 6 thanh điệu (trong đó phân biệt dấu hỏi/ngã); biết
đọc, viết đúng âm tiết có vần, phụ âm đầu khó, phức tạp (p, r, s, tr); Lên các lớp
trên giáo viên phối hợp thông qua các phân môn: Tập đọc; Luyện từ và câu; Kể
chuyện; Làm văn; Chính tả; Tập viết, giáo viên cho học sinh tiếp tục luyện đọc, nói
đúng chính âm và viết đúng chính tả. Về cơ bản cần phân biệt rõ các nguyên âm d,
gi/ r; s/x; ch/ tr; g/gh; ng/ngh; k/q/c; phân biệt dấu hỏi/ ngã, các vần chứa nguyên
âm đôi (iê, uô, ươ).
- Cần thực hiện nghiêm túc các biện pháp khi hướng dẫn học sinh viết đúng chính
tả.
- Nắm chắc quy trình, các bước lên lớp của một tiết dạy Chính tả theo khối lớp. Chú ý đến những phương ngữ vùng miền tạo điều kiện cho quá trình giảng dạy và
rèn luyện. Đặc biệt là bản thân phải luôn tự ý thức phát âm chuẩn.
- Trong mỗi tiết dạy cụ thể phải vận dụng phối kết hợp, tích hợp các biện pháp và
phương pháp dạy học vì không phương pháp nào là vạn năng.
- Với học sinh chưa hoàn thành, cần thường xuyên theo dõi, động viên giúp các em.
14


- Việc sửa chữa và khắc phục lỗi viết Chính tả là một quá trình lâu dài và bền bỉ,
đòi hỏi mỗi người giáo viên phải có tính kiên trì, nhẫn nại; tránh việc hấp tấp, nóng
vội sẽ không đạt kết quả.
- Luôn rèn luyện để chữ viết rõ ràng, đều nét, đúng quy cách, tốc độ nhằm làm
gương cho học sinh.
* Đối với nhà trường:
- Thư viện nhà trường cần bổ sung các tư liệu, tài liệu, cẩm nang phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy cho phân môn Chính tả; Cần làm thêm thẻ từ hoặc sưu tầm
tranh ảnh, vật thật nhằm tạo nên một tiết học sinh động, hấp dẫn.
Tuy có tìm ra mộ vài biện pháp mới, nhưng chắc chắn rằng vẫn còn nhiều chỗ
thiếu sót và vụng về. Kính mong các cấp trên và các đồng nghiệp tận tình sử chữa
để giúp tôi dạy tốt môn Chính tả hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã áp dụng và bước đầu đạt được những

hiệu quả rất khả quan. Trong quá trình trình bày có thể có những sai sót, kính mong
Hội đồng chuyên môn xét duyệt, quý thầy cô, anh chị đồng nghiệp góp ý để tôi
hoàn chỉnh hơn và từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng việc dạy học phân môn
Chính tả của đơn vị. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày10 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN
Lê Thị Hà
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Giáo trình Phương pháp dạy học
Chính tả. Đặng Kim Nga.
2. Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 (Tập 1, 2) NXB Giáo dục. H, 2003
3. Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 (Tập 1, 2) NXB Giáo dục. H, 2003.
4. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 (Tập 1, 2) NXB Giáo dục. H, 2002.
5. Chuyên đề: Viết chuẩn, nói chuẩn tiếng phổ thông trong các nhà trường trên địa
bàn thành phố Thanh Hoá
6. Sổ tay chính tả Tiếng Việt.
PHỤ LỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI.
15


Họ và tên tác giả: Lê Thị Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Vệ I TP Thanh Hóa
Cấp đánh giá xếp
TT
Tên đề tài SKKN

Kết quả
Năm học
loại (Phòng, Sở,
đánh giá
đánh giá
Tỉnh…)
xếp loại
xếp loại

1

Một vài kinh nghiệm rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 2

Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT

(A,B,
hoặc C)
Loại A
Loại C

2014 - 2015

16


17




×