Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.37 MB, 219 trang )

B ộ G IÁ O ờ iộ C ‘VẢ j \ i ữ T A Ỏ
'T
m v~“. *J -r VW'\
i"--' z 2. j;:„4> ỷĩ
iĩK L""••■i ’\vi
r: <; -■" ■•' V
i.íẠ
1 _.

«1»3* .,> ^

à *ỹ -

-ÍT..



'• V..-

f~ fjỊ



®*ÍỒ23Ỉ

K 3 i;i® ặ
. -v ;;r

. ■•■•:‘V . ■. , J ••• i

'



• • ••

• . '•-"■Ví"
.. . ..' í.-UlNu’

•■. * ... ■ ?

Ẩ;

aẰ M Ộ Ả M B Ả O Q O yÊV ỊỘ I ỉ |



- : -.
■ ị ■ ÌM


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI NGỌC CƯỜNG

XÂY DỰNG
■ VÀ HOÀN THIỆN
■ PHÁP LUẬT
■ KINH TÊ

NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN Tự DO KINH DOANH ở Nước TA

Chuyên ngành : Luật kinh tế
M ã số

: 5.05.15

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC




1ỉ —
T

7-j -M/T

r>

7



i 'I

.-7 !

; :,ụ ị,- H ị

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Hồng Hạnh


HÀ NỘI - 2001


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ổ trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bùi Ngọc Cường


M Ụ C LỤ C

Trang
MỞ ĐẦU

I

Chương 1: QUYỀN Tự DO KINH DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP
LUẬT KINH TÊ TRONG VIỆC ĐẢM BẢO QUYỂN Tự
DO KINH DOANH

1.1.


Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh

7

1.2.

Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo quyền tự do
kinh doanh

36

Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG c ơ BẢN CỦA QƯYỂN Tự DO KINH

61

DOANH TRONG PHÁP LUẬT KINH TẾ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

2.1.

Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản

61

2.2.

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp

70


2.3.

Quyền tự do hợp đồng

83

2.4.

Quyền tự do cạnh tranh lành mạnh

93

2.5.

Quyén tự do định đoạt trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế

105

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP c ơ BẢN VỂ XÂY DỰNG

121

VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KINH TẾ NHẢM ĐẢM
BẢO QUYỂN Tự DO KINH DOANH Ở NƯỚC TA TRONG
THÒI GIAN TỚI

3.1.

Những căn cứ cho việc hình thành những định hướng và giải pháp


121

3.2.

Một số định hướng chủ yếu của việc hoàn thiện pháp luật kinh
tê đám bảo quyền tự do kinh doanh

132

3.3.

Những giải pháp cụ thể xây dựng, hoàn thiên pháp luật kinh tế

[42

đảm bảo quyền tự do kinh doanh
KẾT LUẬN

196

NHŨNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN cứ u LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

199

ĐÃ ĐƯỢC CỒNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

200

PHỤ LỤC


206


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh
doanh. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở trong từng thời kỳ lịch sử
cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh doanh cũng khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó pháp luật giữ vai trò
đặc biệt quan trọng. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh hệ thống pháp luật là
một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo quyền tự do kinh
doanh. Sự khác nhau về tính hoàn thiện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật
là một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo thực hiện quyền lự
do kinh doanh. Thông thường, ở những quốc gia có hệ thống pháp luật đồng
hộ thống nhất, minh bạch, có hiệu quả là những nước có thể khơi dậy nguồn
hứng khởi cho các nhà kinh doanh, thu hút được các nguồn đầu tư cho sự phát
triển kinh tế. Ớ nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, do áp dụng cơ
chê kế hoạch hóa lập trung baơ cấp, tự dơ kinh dơanli dã không đưực pháp luật
công nhận và trên thực tế không tồn tại khái niệm "quyển tự do kinh doanh".
Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn kiện chính thức của Đảng và
Nhà nước ta lúc đó khó có thể tìm thấy khái niệm "quyền tự do kinh doanh".
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi
mới nói chung và cơ chế quản lý kinh tế nói riêng. Theo đó, tự do kinh doanh
đã chính thức trở thành quyền pháp định. Điều 4 Luật Công ty (1990) quy
định "trong khuôn khổ pháp luật, công ty có quyền tự do kinh doanh". Đến
Hiến pháp (1992) thì tự do kinh doanh đã trở thành quyền hiến định: "Công
dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" (Điều 57). Ở

nước ta, quyền tự do kinh doanh là vấn đề còn rất mới mẻ trong khoa học pháp
lý. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, nội dung của quyền tự do
kinh doanh, trên cơ sở đó thể chế hóa kịp thời và đầy đú những yêu cầu mà


2

quyền lự do kinh doanh đặt ra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở phương diện
này, pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng có vai trò quyết định
đối với việc đảm bảo tự do kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra
những luận cứ khoa học, những định hướng và giải pháp cho việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo tự do kinh doanh ở nước ta là đòi hỏi bức
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, khái niệm quyền tự do kinh doanh từ lâu đã được sử
dụng khá phổ biến và rộng rãi. Quyền tự do kinh doanh gắn liền với thuyết tự
do hóa kinh tế của Adam Smith. Ông cho rằng, tự do trong kinh tế là tự do
chọn nghề, tự do hành nghề, tự do sở hữu và tự do cạnh tranh được pháp luật
đảm bảo.
Quyền tự do kinh doanh ở nước ta gắn liền với quá trình đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế. Đặt ra yêu cầu bức xúc trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đang được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học thuộc
nhiều lĩnh vực. Ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có khá nhiều công
trình trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề quyền tự do kinh doanh và
pháp luật kinh tế, như: Quyền con người trong th ế giới hiện đại do TS. Phạm
Khiêm ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo chủ biên; Pháp luật trong cơ ch ế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước của PGS.TS Trần Ngọc Đường; Thực
trạng pháp luật kinh tế ở nước ta và các quan điểm đổi mới đưa pháp luật
kinh tế vào cuộc sống của PGS.TS Nguyễn Niên; Quan điểm pháp luật kinh tế
Irong nên kinh tê thị trường của cố PGS.TS Trần Trọng Hựu; Một sô vấn đề

cấp thiết cần giải quyết đ ể đảm bảo quyền tự do kinh doanh của TS. Dương
Đăng Huệ; Pháp luật kinh t ế nước ta trong bước chuyển sang kinh t ế thị
trường của TS. Nguyễn Như Phát; Môi trường pháp luật kinh tế đầy đủ phù
hợp với cơ c h ế thị trường của TS. Hoàng Thế Liên; Pháp luật và quyền tự do
kinh doanh của PGS.TS Lê Hồng Hạnh; Hoàn thiện luật kinh tế ở Việt Nam


3

trong nền kinh tế thị ỉrườìig định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó Tiến sĩ
của Nguyễn Am Hiếu; Đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong
điều kiện kinh tê thị trườìig Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Minh
Mẫn; Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tê Việt Nam , Luận văn
Thạc sĩ của Bùi Ngọc Cường.
Ngoài ra, vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế còn thu hút sự chú ý của
nhiều đề tài khoa học thuộc dự án do các tổ chức quốc tế thực hiện như: Dự án
của UNDP mang tên Tăng cườìig năng lực pháp luật tại Việt Nam (Dự án
VIE/94/003), mà nội dung chính là xây dựng khung pháp luật kinh tê phù hợp
với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập
đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của quyền tự do kinh doanh.
Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống lý luận về quyền
tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và nhất là thực trạng của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay, trên cơ sớ đó đưa ra những kiến
nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh
doanh thì cho đến nay vẫn chưa có.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Căn cứ vào những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như từ thực tiễn xây dựng pháp luật trong thời
gian qua, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ quan niệm về quyền
tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc đảm bảo quyền tự
do kinh doanh. Trên cơ sở đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm xây
dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:


4

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh; từ đó xác
định đúng đắn bản chất, nội dung, những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh.
- Nghiên cứu, lý giải vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của quyền tự
do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành.
- Đề ra những định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam.
4.Phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do kinh doanh là vấn đề rất nhạy cảm có quan hệ mật thiết
với nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phương
tiện quan trọng nhất đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh được thực hiện và
phát huy giá trị tích cực trong cuộc sống. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung
nghiên cứu trong khuôn khổ pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế là bộ phận
Cấu thành của cơ chế kinh tế. Với nội dung, cơ cấu, cơ chế điều chỉnh của
mình, pháp luật kinh tế có mối quan hệ mật thiết và có vai trò quan trọng,
trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Pháp luật kinh tế được đề cập
trong luận án là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các quy phạm pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có quan hệ trực tiếp đến quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý nền kinh tế.

Khi nghiên cứu hệ thống pháp luật kinh tế, luận án cũng chủ yếu chỉ đi
sâu nghiên cứu những chế định pháp luật có liên quan trực tiếp nhất với sự
hình thành và đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Vì vậy, hướng nghiên cứu của

luận án là luôn bám sát mối quan hệ giữa yêu cầu của quyền tự do kinh doanh
mà pháp luật kinh tế phải thể chế hóa và đảm bảo.
Tác giả của luận án cũng ý thức rằng để đảm bảo quyền tự do kinh
doanh cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau như cải


5

cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ, công chức
nhà nước, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh... Đó là những vấn đề phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu ở các
công trình khoa học pháp lý tiếp theo sau này.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mà thực chất là dân chủ hóa trong đời sống kinh
tế - xã hội để phát huy mọi tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Luận án vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật, đặc biệt là lý
luận về pháp luật kinh tế trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Trong đó, luận án
đặc biệt chú ý đến việc vân dụng phương pháp biện chứng, phương pháp lịch
sử để phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những
vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án

Luận án có những điểm mới sau:
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống lý
luận về quyền tự do kinh doanh.
- Luận án phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nước ta hiện nay.
- Luận án đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện những
chế định pháp luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc đảm bảo thực
hiện quyền tự do kinh doanh. Trong đó, đáng chú ý là hình thức sở hữu pháp
nhân; thống nhất sự điều chỉnh pháp luật về doanh nghiệp; thống nhất sự điều


6

chỉnh pháp luật về hợp đồng. Đó là những vấn đề mới mẻ trong khoa học pháp
lý nước ta hiện nay.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật kinh tế đảm
bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta, luận án đã đưa ra những kiến nghị cụ
thể góp phần vào hoạt động xây dựng pháp luật kinh tế của nước ta trong thời
gian tới, nhằm đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc
cơ bản là tự do kinh doanh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, nội dung luận án bao gồm 3 chương.


7

Chương 1
QUYỂN T ự DO KINH DOANH VÀ VAI TRÒ
CỦA PHÁP LUẬT KINH TẾ TRONG VIỆC ĐẢM BẢO

QUYỂN T ự DO KINH DOANH

1.1. NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ QUYỀN Tự DO KINH DOANH

1.1.1. Khái niệm kinh doanh và quyền tự do kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm kinh doanh
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất
hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương pháp và biện pháp nhằm tổ chức
các hoạt động kinh tế, phản ánh quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhầm mục đích
thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.
Hoạt động kinh dơanh gắn liền với quan hệ sù hữu và bị quan hệ sở
hữu chi phối. Trong "Tư bản", C.Mác đã phân biệt rõ hai loại tư bản: tư bản sở
hữu và tư bản chức năng. Tư bản sở hữu là tư bản "chết", nằm yên; tư bản chức
năng là lư bản hoạt động, tư bản kinh doanh, làm cho tư bản "chết" thành tư
bản "sống". Tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu sẽ có một chế độ kinh
doanh nhất định. Mặt khác, quan hệ kinh doanh có tác động trở lại quan hệ sở
hữu. Quan hệ sở hữu quyết định bản chất xã hội của quan hệ kinh doanh, mục
đích và xu hướng vận động của nó. Nhưng tự nó, quan hệ sở hữu không tạo ra
và không làm tăng thêm sản phẩm và giá trị. Nó chỉ là điều kiện cơ bản và tiên
quyết của kinh doanh. Muốn làm được điều đó quan hệ sở hữu phải được thực
hiện thông qua quan hê kinh doanh. Nhờ có quan hê kinh doanh mà quan hê
sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, kinh doanh càng có hiệu quả thì mức độ
thực hiện sở hữu về mặt kinh tế càng cao. Kinh doanh bao giờ cũng phục vụ


8

cho chê độ sở hữu, là hành động tiếp theo của sở hữu. Do đó, kinh doanh đóng
vai trò làm cho sở hữu từ chỗ tồn tại về mặt hình thức trở thành tồn tại hiện thực.

Với quan niệm đó, kinh doanh được chia thành nhiều kiểu, chế độ,
lĩnh vực khác nhau, như kinh doanh trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn,
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; kinh doanh tư bản chủ nghĩa, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa; kinh doanh trong công nghiệp, kinh doanh trong
nông nghiệp, kinh doanh trong thương nghiệp, kinh doanh trong vận tải... Tuy
nhiên, dù phân chia như thế nào thì mục đích cuối cùng của kinh doanh là làm
tăng thêm giá trị vật chất cho xã hội và đối với từng nhà kinh doanh thì đó
chính là lợi nhuận.
Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây đã
có quan niệm không đầy đủ, không đúng về kinh doanh. Kinh doanh được
hiểu theo nghĩa rất hẹp, kinh doanh được coi là một phần của quá trình tái sản
xuất, cụ thể là chỉ gắn với hoạt động lưu thông, trao đổi, là buôn bán. Thậm
chí, có người còn ác cảm với kinh doanh, coi kinh doanh là con đường dẫn tới
bóc lột. Do vậy, chỉ có các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập
thể) mới được phép kinh doanh, còn các thành phần kinh tế khác thì bị hạn
chế và cấm đoán.
Thực ra, kinh doanh như đã trình bày ở trên luôn gấn với quan hệ hàng
hóa - tiền tệ và quy luật giá trị. Trong bất cứ phương thức sản xuất nào, còn
sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị tồn tại khách quan thì còn kinh doanh với
tính cách là phương thức hoạt động kinh tế của con người.
Ở nước ta, khái niệm kinh doanh được định nghĩa trong Luật Công ty
(1990). Theo quy định tại Điều 3 của đạo luật này thì: "Kinh doanh là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi". Khái niệm kinh doanh được khẳng định lại trong Luật Doanh
nghiệp (1999) (khoản 2 Điều 3).


9


Với khái niệm trên, kinh doanh đã được hiểu một cách đầy đủ, đúng
đắn bao gồm tất cả các hoạt động như: đầu tư, sản xuất, trao đổi, dịch vụ nếu
các hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động này không nhất thiết
phải bao gồm tất cả các công đoạn để đạt đến kết quả cuối cùng mà chỉ cần
một trong các hoạt động nói trên là đủ, miễn sao hoạt động đó có mục đích
sinh lợi. Với khái niệm này, kinh doanh có nội dung rất rộng và ở mức độ khái
quát có thể đưa ra những dấu hiệu đặc trưng sau:
- Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là
trong xã hội đã có những người, nhóm người, tổ chức mà nghề nghiệp chính
của họ là kinh doanh, sống bằng nghề kinh doanh. Kinh doanh mang tính
thường xuyên, liên tục, ổn định và lâu dài.
- Kinh doanh là hành vi diễn ra trên thị trường. Cụ thể, hoạt độngkinh
doanh phản ánh mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau, với xã hội nói
chung thông qua các quan hệ mua bán, trao đổi, tiêu dùng... Những quan hệ
này tự nó phản ánh quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
- Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận.
Kinh doanh đã trở thành một nghề trong xã hội (và là nghề quan trọng
vì nó tạo ra của cải vật chất, tinh thần để xã hội tồn tại và phát triển), do đó nó
có những đòi hỏi riêng về chủ thể cũng như điều kiện để hoạt động kinh doanh.
Một trong những đòi hỏi mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường
là phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho con người. Vấn đề này bắt nguồn từ
yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường là sự tồn tại những hình thức sở
hữu khác nhau, của quy luật giá trị, quy luật canh tranh. Đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế vận động phát triển của xã hội trong thế giới văn minh hiện đại.

1.1.1.2. Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các
quyền tự do của công dân. Để có quan niệm đúng đắn về nó, trước hết cần tìm



10

hiểu để nhận thức đầy đủ nội hàm các khái niệm quyền con người, quyền
công dân nói chung dưới góc độ lịch sử, nguồn gốc và bản chất.
Quyền con người (nhân quyền), quyền công dân (dân quyền) luôn là
mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời kỳ lịch sử. Mỗi bước phát triển của lịch
sử xã hội loài người đều gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã
hội nhằm giải phóng con người.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại có các quan niệm khác nhau về sự ra
đời, bản chất của quyền con người.
Trước khi học thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời, trong lịch sử nhân
loại đã từng có quan niệm (tuy còn ít và rời rạc) cho rằng con người mang
thuộc tính tự nhiên, con người ra đời đương nhiên có quyền tự do. Quyền tự do
của con người không do ai ban phát. Quyền con người xuất hiện trước khi có
Nhà nước, pháp luật. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, quan niệm này thể
hiện khát vọng của con người, khi mà các quyền tự do của họ bị chà đạp, nhu
cầu về quyền tự do đã trở nên bức xúc. Lúc đó người ta thường tìm đến tính
chất tự nhiên "tạo hóa", "bẩm sinh" các quyền tự do của con người. Nhận xét
về quan niệm này, GS.TS Hoàng Văn Hảo viết: "Quan niệm này thể hiện tính
triết học nhân bản, nhưng khó tránh khỏi tính trừu tượng phi lịch sử, khó tránh
khỏi tính chất ảo tưởng khi xác định nội dung các quyền con người, quyền
công dân trong đời sống thực tiễn" [11, tr. 13].
Đến thế kỷ XVII, XVIII các nhà tư tưởng, nhà cải cách lỗi lạc như
Locke, Rousseau... đã đưa ra học thuyết "pháp luật tự nhiên nhân". Theo quan
niệm của thuyết "pháp luật tự nhiên nhân" thì quyền con người là đặc quyền tự
nhiên, quyền tự nhiên, "pháp luật tự nhiên" đứng trên, cao hơn pháp luật Nhà
nước. Locke cho rằng các quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm:
quyền sống, quyền được tự do và quyền có tài sản. Thuyết pháp luật tự nhiên
ra đời có nguyên nhân lịch sử của nó. Ó thời kỳ đó, xã hội phong kiến châu
Âu đang thống trị bởi hai thứ quyền lực là "Vương quyền" - quyền lực của



11

Nhà nước và "Thần quyền" - quyền lực của chúa trời. Thế kỷ thứ XVII, XVIII,
chế độ quân chủ đã được thiết lập ở hầu hết các nước phong kiến châu Âu và
đạt đến đỉnh cao của sự tha hóa, nô dịch. Đó cũng là thời kỳ các Vua coi
Chúa, Thánh thần là đồng minh để hợp pháp hóa uy quyền của họ. Sự liên
minh quyền lực giữa "Vương quyền" và "Thẩn quyền" đã chà đạp thô bạo các
quyền con người. Vì lẽ đó, thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời nhằm thể hiện
nhu cầu tự do của con người, khẳng định quyền con người là tự nhiên vốn có.
Thuyết pháp luật tự nhiên ra đời để chống lại, phủ nhận quyền lực, pháp luật
của Nhà nước (Vương quyền), quyền lực, luật lệ của Nhà thờ thiên chúa giáo
(Thần quyền).
Xét về mặt lịch sử, thuyết pháp luật tự nhiên mang giá trị nhân bản,
nhân đạo về con người. Nó đưa ra những tư tưởng, nguyên tắc để bảo vệ quyền
cá nhân con người trước quyền lực nhà nước. Những giá trị đó về sau đã được
thấm nhuần, được tiếp thu trong khoa học chính trị, pháp lý ở các nước tư sản.
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 coi quyền con người là quyền sống,
quyền tư do và quyền mưu cầu hanh phúc. Tuyên ngôn về quyền con người
của Liên Hợp Quốc 1948 đã đề ra 30 điều có tính nguyên tắc về quyền con
người. Các Công ước của Liên Hợp Quốc khẳng định lại và cụ thể hóa thêm
những nguyên tắc đó thành các quyền trong các lĩnh vực: chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa và xã hội.
Quan điổm của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đặt con người cũng như
quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của con
người là khái niệm mang tính lịch sử, hình thành và phát triển trong cuộc đấu
tranh giai cấp vì sự tiến bộ xã hội. Quyền tự do của con người không phải là
khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính
tự nhiên bẩm sinh, mà luôn gắn với trình độ phát triển và tiến bộ xã hội, chịu

sự chi phối của chế độ chính trị, chế độ kinh tế... Khái niệm quyền tự do của
con người không thể đặt trừu tượng bên ngoài Nhà nước và pháp luật. Quyền


12

tự do của con người phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Với
quan niệm đó, quyền con người được xem là giá trị được xã hội hóa, nghĩa là
phải được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật thì mới trở thành
hiện thực.
Một mặt, quyền con người mang tính chất tự nhiên, do đó
không phải Nhà nước (hoặc bất cứ ai) là kẻ ban tặng cho con người
cái quyền vốn có của họ. Mật khác, khi chưa được Nhà nước quy
phạm hóa bằng pháp luật thì các quyền con người chưa được xã hội
thừa nhận, cũng có nghĩa là chưa chính thức ra đời. Vai trò của Nhà
nước chính là ở chỗ đáp ứng được nhu cầu về quyền cá nhân con
người trong xã hội, biết phát hiện nhu cầu hiện thực của việc xuất
hiện các quyền con người để sớm thể chế hóa và bảo vệ bằng pháp
luật [11, tr. 19].
Cũng cần lưu ý là khái niệm quyền con người và khái niệm quyền
công dân là không đồng nhất, xét về cả hai phương diện chủ thể và nội dung.
Quyền con người là khái niệm rộng hơn khái niệm quyền công dân. Khái
niệm quyển công dân mang tính xác định gắn liền với mỗi quốc gia, được
pháp luật của mỗi quốc gia quy định, khái niệm quyền công dân không chứa
đựng hết khái niệm quyền con người, v ề phương diện chủ thể, quyền công
dân là cá nhân được xác định là công dân (có quốc tịch) trong khi đó chủ thể
quyền con người ngoài những cá nhân là công dân còn bao gồm cả những
người không phải là công dân (người nước ngoài, người không có quốc tịch,
người bị pháp luật tước quyền công dân). Những người này tuy không được
hưởng quyền công dân nhưng vẫn được hưởng các quyền con người với tư

cách là một thực thể tự nhiên - xã hội.
Ở Việt nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, quyền con
người ít được nói đến, được mặc nhiên đồng nhất với quyền công dân. Trong
các vãn bản pháp luật chỉ sử dụng thuật ngữ quyền công dân. Trong quá trình


13

đổi mới do Đảng ta đề xướng, những tri thức hợp lý của nhân loại đã và đang
được chúng ta tiếp thu. Điều 50 Hiến pháp (1992) nước ta quy định: "Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và

được quy định trong Hiến pháp và pháp luật." Như vậy, có thể khẳng định
rằng, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện tốt các quyền công dân cũng chính
là đã thực hiện nội dung cơ bản của quyền con người.
Các quyền tự do của công dân rất đa dạng, liên quan đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Trong hệ thống các quyền tự do đó thì quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền tự do kinh
doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế
luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các hoạt động khác.
Từ quan niệm chung về quyền tự do của con người, cho phép chúng la
khẳng định: Quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý. Dưới góc độ này,
quyền tự do kinh doanh được hiểu theo nghĩa chủ quan và nghĩa khách quan.
+ Theo nghĩa chú quan hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chú thể:
quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức
của cá nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân
hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh
nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để

thiết lập các quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh... Những khả năng xử
sự này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp nhân) chứ không phải do
Nhà nước ban tặng. Song những khả năng xử sự đó muốn trở thành hiện thực
thì phải được Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó nó mới trở thành
"thực quyền". Cũng chính vì vậy mà quyền tự do kinh doanh với tư cách là
quyền năng chủ thể cũng có giới hạn nhất định, vì như Lênin từng chỉ rõ:


14

"Sông trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều
không thể được" [56, tr. 127].
+ Theo nghĩa khách quan hoặc được xem xét dưới góc độ là một chế
định pháp luật: quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật và
những đảm bảo pháp lý do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các cá
nhân hay pháp nhân thực hiện quyền chủ thể nói trên. Với quan niệm đó,
quyền tự do kinh doanh - một mặt bao gồm những quyền mà họ được hưởng;
mặt khác, đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước
khi thực hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ những quyền

của chủ thể kinh doanh. Hai mặt này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý
tự do kinh doanh. Nếu chỉ thừa nhận những quyền của chủ thể mà không đảm
bảo cho nó những điều kiện để thực hiện thì quyền tự do kinh doanh cũng chỉ
mang tính hình thức mà thôi.
Tóm lại, theo chúng tôi, quan niệm về quyền tự do kinh doanh phải được
nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện trên những khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, quyền tự do kinh doanh là một phần hợp thành và đóng vai trò
quan trọng trong hệ thống các quyền tự do của con người. Như vậy, quyền tự
do kinh doanh phải được xem như là một giá trị tự thân của con người mà Nhà

nước phải thừa nhận và bảo vệ chứ không phải là sự ban phát, trao tặng.
Hai là, quyền tự do kinh doanh có trở thành hiện thực và phát huy tác
dụng trong thực tiễn hay không, tùy thuộc vào việc Nhà nước có đáp ứng được
những đòi hỏi mà quyền tự do kinh doanh đặt ra để kịp thời thể chế hóa và bảo
vệ bằng pháp luật.
Ba là, quyền tự do kinh doanh của công dân tồn tại như một nhu cầu
tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó phải là mục tiêu mà Nhà
nước hướng tới nếu như muốn thực hiện địa vị hợp pháp, tính nhân vãn tiến bộ
trong quá Irình thực hiện quyền thống trị của mình.


15

1.1.2. Nội dung của quyền tự do kinh doanh
1.1.2.1. Căn cứ xác định nội dung quyền tự do kinh doanh
Xác định đúng đắn, đầy đủ những yếu tô hợp thành quyền tự do kinh
doanh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Trước hết, nó giúp chúng ta
hiểu biết một cách toàn diện, có hệ thống về những yếu tố hợp thành quyền tự
do kinh doanh, vị trí vai trò của từng yếu tố và mối quan hệ giữa chúng. Từ đó,
có căn cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
Việc xác định này còn giúp cho các nhà kinh doanh nắm được những quyền
mà họ được làm, cách thức thực hiện những quyền đó như thế nào. Đối với các
cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, khi thực hiện chức năng quản lý của
mình, có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm những quyền đó cho nhà kinh doanh.
Để đảm bảo tính khách quan, việc xác định nội dung của quyền tự do kinh
doanh cần phải dựa vào hai cãn cứ sau:
Thứ nhất, căn cứ vào đặc điểm của nền kinh tế thị trường để xác định
nội dung quyền tự do kinh doanh. Những tính chất và đặc điểm của nền kinh
tê thị trường quy định nội dung, tính chất của các quan hệ kinh tế, đồng thời
cũng xác định nội dung của hoạt động kinh doanh. Để xác định những nội

dung cụ thể của quyền tự do kinh doanh phải căn cứ vào yêu cầu nội tại của
bản thân quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tức là những yêu cầu mà
hoạt động sản xuất kinh doanh đặt ra cho các nhà kinh doanh, ớ mức độ khái
quát có thể hình dung những việc mà các nhà kinh doanh phải thực hiện:
Trước hết tạo nguồn vốn, tài sản; tiếp theo lựa chọn ngành nghề kinh doanh;
tiến hành thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanhy Trong quá trình hoạt
động, các nhà kinh doanh phải thực hiện rất nhiều hành vi khác như: thiết lập

các quan hệ kinh doanh (liên doanh, liên kết; mua bán, trao đổi, thực hiện các
dịch vụ...). Tất cả những công việc đó, khi đã được pháp luật thừa nhận và
được bảo đảm, sẽ trở thành quyền của các nhà kinh doanh, tạo thành nội dung
của quyền tự do kinh doanh.


16

Thứ hai, căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành để xác định
nội dung của quyền tự do kinh doanh. Như đã khẳng định, quyền tự do kinh doanh
trước hết là quyền chủ thể, song nó phải được pháp luật thừa nhận và đảm bảo
thì mới trở thành thực quyền. Điều này cho thấy nếu chỉ căn cứ vào yêu cầu
nội tại của hoạt động kinh doanh để xác định nội dung quyền tự do kinh doanh
thì sẽ chủ quan và sinh ra tùy tiện. Trong thực tiễn, có những yêu cầu, những đòi
hỏi của hoạt động kinh doanh khi chưa được Nhà nước thể chế hóa hoặc thừa
nhận thì các nhà kinh doanh cũng chưa được phép tiến hành. Chẳng hạn, như
nhu cầu tạo vốn để kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập công ty là yêu
cầu nội tại của hoạt động kinh doanh. Nếu Nhà nước không ban hành Luật Công
ty thì các nhà kinh doanh cũng không thực hiện được quyền góp vốn để thành
lập công ty. Dựa vào căn cứ này ta thấy rõ mức độ hoàn thiện của nội dung quyền
tự do kinh doanh luôn phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện pháp luật. Việc mở
rộng hay hạn chế nội dung quyền tự do kinh doanh do pháp luật quy định phù

hợp với điều kiện kinh tế khách quan mà ở đó quyền tự do kinh doanh tồn tại.
1.1.2.2. Những nội dung cụ thê của quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh được hiểu là hệ thống các quyền gắn với chủ
thể kinh doanh, mà chủ yếu và trước hết là:
- Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản;
- Quyền tự do thành lập doanh nghiệp (trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh, lựa chọn mô hình doanh nghiệp);
- Quyền tự do hợp đồng;
- Quyền tự do cạnh tranh theo pháp luật;
- Quyền tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp;
Các quyền tự do trên có mối quan hệ hữu cơ tạo thành thể thống nhất
của nội dung quyền tự do kinh doanh. Quá trình phát triển của nền kinh tế
chắc chắn sẽ làm phong phú thêm nội dung của quyền tự do kinh doanh.


17

ứ) Quyển được đảm bảo sở hữu đôi với tài sản
Sở hữu là hình thức xã hội của việc chiếm hữu. Nó phản ánh mối quan
hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất về việc chiếm hữu
những của cải vật chất trong xã hội, mà trước hết là tư liệu sản xuất. Các hình
thức sở hữu được pháp luật ghi nhận trở thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là
vấn đề cơ bản nhất của một chế độ kinh tế - xã hội.
Đối với quyền tự do kinh doanh thì ^quyền sở hữu tư liệu sản xuất giữ
vị trí vai trò quan trọng nhất; nó được coi là nền tảng, là tiền đề cho việc hình
thành và thực hiện quyền tự do kinh doanh. Chỉ khi được sở hữu tư liệu sản
xuất thì người ta mới có thể dùng tài sản đó đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh. Không ai có thể tiến hành đầu tư để kinh doanh nếu không sở hữu một
số tư liệu sản xuất, hàng hóa hay giá trị nhất định. Người nắm giữ sở hữu tài sản
sẽ nắm quyền quản lý, quyền phân phối thu nhập. Điều này đã được thực tiễn

chứng minh, ở các nước tư bản chủ nghĩa, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được
coi là nguyên tắc "bất khả xâm phạm" và gắn liền với nó là quyền tự do kinh
doanh được coi là lẽ tự nhiên, là điều "thiêng liêng" mà Nhà nước phải bảo vệ.
ở nước ta cũng như ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa trước đây, do
nhận thức chủ quan, duy ý chí, chúng ta đã nóng vội thiết lập chế độ công hữu
đối với tư liệu sản xuất trên phạm vi toàn xã hội. Sở hữu tư nhân đối với tư liệu
sản xuất không được thừa nhận, do đó không tồn tại khái niệm quyền tự do
kinh doanh. Từ khi chúng ta tiến hành đổi mới mọi mặt trong đời sống kinh tế xã hội thì quan niệm về quyền sở hữu đã có sự thay đổi cơ bản. Nền kinh tế
nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất đã chính thức được thừa nhận. Quyền
tự do kinh doanh - quyền cơ bản của công dân - đã chính thức trở thành hiện
thực trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản có tác động tích cực, mạnh
mẽ đến các quyền tự do khác, như: tự do thành lập doanh nghiệp, tự do hợp

v l h h Gí A o VI EN
1 c, ỏ b K


18

đồng, tự do cạnh tranh... Đối với quyền tự do thành lập doanh nghiệp, đăng ký
kinh doanh, quyền sở hữu tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Không ai
có thể thành lập doanh nghiệp - đăng ký kinh doanh nếu không có trong tay
những tư liệu sản xuất, số vốn nhất định. Tư liệu sản xuất, vốn đó phải thuộc
quyền sở hữu của người góp vốn, người thành lập doanh nghiệp, người đăng
ký kinh doanh. Khi thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, vấn đề sở
hữu bao giờ cũng nổi lên hàng đầu. Chẳng hạn, như việc thành lập, đăng ký
kinh doanh đối với công ty thì vấn đề góp vốn, cơ chế góp vốn luôn có ý nghĩa
quyết định. Theo PGS.TS Lê Hồng Hạnh, "việc góp vốn là cơ sở hình thành sở

hữu doanh nghiệp. Bản thân vấn đề góp vốn cũng là vấn đề thuần túy mang
tính chất sở hữu" [9, tr. 21].
Mặt khác, quyền sở hữu tư liệu sản xuất đã tác động tích cực làm đa dạng
hóa, phong phú thêm các loại hình doanh nghiệp. Trước đây, pháp luật chỉ thừa
nhận sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể nên trong nền kinh tế nước ta hầu hết tồn
tại doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Từ khi pháp luật nước ta thừa nhận
nhiều hình thức sở hữu đã xuất hiên nhiều loai hình doanh nghiêp mới như các
loại công ty, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với quyền tự do hợp đồng thì vai trò của quyền sở hữu tư liệu sản
xuất càng có vai trò quan trọng. Theo lôgíc của hợp đồng thì không ai có thể
mua bán, trao đổi hàng hóa, nếu không xác định được sở hữu của người bán
đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng. Trong quá trình kinh doanh, các
quan hệ kinh tế được thiết lập bởi sự thúc đẩy của lợi ích. Lợi ích chỉ có thể có
được khi các quan hệ đó được hình thành trên cơ sở tư do ý chí. Sự tự do ý chí
trong hợp đồng là biểu hiện của việc thực hiện quyền sở hữu của các chủ thể
trong quan hệ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng chính là sự vận động tự do của
vốn và hàng hóa (hợp đồng là hình thức của quan hệ hàng hóa - tiền tệ xét
dưới góc độ kinh tế). Suy cho cùng thì bản chất của hợp đồng là sự vận động
của quan hệ sở hữu. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện


19

nay đã khảng định vai trò của quyền sở hữu tư liệu sản xuất đối với quyền tự
do hợp đồng. Các quan hộ kinh tế hiện nay đã phát triển sống động, đa dạng
(thông qua hợp đồng) trên các lĩnh vực của nền kinh tế trong nước cũng như
với nước ngoài; giữa các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau;
giữa các nhà kinh doanh trong nước với các thương gia nước ngoài.
Để thực hiện được quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì các điều
kiện sau đây cần phải được đáp ứng:

- Mở rộng các đối tượng có khả năng trở thành chú sở hữu tư liệu sản xuất.
- Quy định nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất; các hình thức sở
hữu phải được đối xử bình đẳng.
- Tạo cơ sở cho sự phát triển tự giác các hình thức sở hữu tồn tại với
những đặc trưng vốn có của chúng.
- Đảm bảo việc chuyển dịch sở hữu được thuận lợi, nhanh chóng, an
toàn và sinh lợi.
- Mở rộng khách thể của quyền sở hữu.
- Phải có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các hình thức sở hữu
khác nhau đối với tư liệu sản xuất. Chủ sở hữu phải có những biện pháp pháp

lý để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
b)

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp là nội dung cơ bản, quan trọng
trong hộ thống các quyền tự do kinh doanh. Vị trí, vai trò quan trọng đó được
thể hiện ở chỗ công dân muốn trở thành nhà kinh doanh hợp pháp (có tư cách
pháp lý hợp pháp) thì họ phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Khi đã tiến hành đãng ký kinh doanh (được công nhận tư
cách pháp lý) thì lúc đó họ mới có tư cách của nhà kinh doanh và mới được
phép tiến hành các hoạt động kinh doanh như: sản xuất, trao đổi, mua bán.
thực hiện các dịch vụ... Như vậy, quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh


20

là cơ sở để cá nhân, pháp nhân được Nhà nước công nhận là chú thể kinh doanh
hợp pháp, là tiền đề để họ tiến hành các hoạt động kinh doanh khác. TS Dương


Đăng Huệ cho rằng, thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh chưa có nội
dung kinh tế, nhưng nó là tất yếu, là cần thiết, là tiền đề để hình thành các
quan hệ kinh tế thuần túy - quan hộ sản xuất kinh doanh đích thực [21, tr. 3].
Nói đến quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh chúng ta hiểu
rằng đây là quyền của cá nhân hay pháp nhân ưong việc tạo lập tư cách pháp
lý thông qua các thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh. Không ai có quyền
can thiệp, ngăn cản trái phép quyền thành lập và đăng ký kinh doanh của họ.
Đồng thời với quyền của cá nhân, pháp nhân là nghĩa vụ của cơ quan nhà nước
phải tạo những điều kiện đảm bảo cho họ thực hiện quyền của mình. Vấn đề
đặt ra là: cá nhân, pháp nhân muốn có tư cách của nhà kinh doanh hợp pháp
lại phải tiến hành thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Điều này có vi
phạm quyền tự do kinh doanh hay không? Trước hết, cần khẳng định rằng,
việc thành lập và đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính thông thường
nhằm thừa nhân tư cách pháp lỷ cho các nhà đầu tư và thể hiện sự quản lý của
Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Khi cá nhân, pháp nhân đã nộp đủ hồ
sơ hựp lệ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy đăng ký kinh
doanh cho họ. Việc cấp giấy đăng ký kinh doanh là góp phần tích cực vào
hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời cũng chính là bảo vệ lợi ích cho bản
thân nhà kinh doanh.
Theo TS. Dương Đăng Huệ thì "trong xã hội văn minh con người được
tự do kinh doanh, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không phải làm bất cứ
một thủ tục pháp lý nào trước khi trở thành nhà kinh doanh. Ở các nước phát
triển, thủ tục này đơn giản, gọn nhẹ được thực hiện thông qua hình thức đãng
ký kinh doanh" [21, tr. 2].
Gắn liền với quyền thành lập và đãng ký kinh doanh là quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh; hình thức tổ chức trong kinh doanh và địa điểm


21


kinh doanh. Khi thực hiện quyền tự do thành lập và đăng ký kinh doanh, các
chủ thể kinh doanh đã quyết định lựa chọn ngành nghề kinh doanh cho mình.
Việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn, điều
kiện và khả năng của các nhà kinh doanh, dựa trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu thị
trường. Sự lựa chọn này có tác dụng rất lớn đến sự nghiệp kinh doanh của nhà
doanh nghiệp trên thương trường. Không ai có quyền can thiệp trái phép vào
quyền này của họ, bởi lẽ người chịu trách nhiệm về những kết quả kinh doanh
chính là các chủ doanh nghiệp. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh
tạo ra khả năng rộng lớn cho nhà kinh doanh trong việc tìm hiểu nhu cầu thị
trường. Ngành nghề kinh doanh rất đa dạng, phong phú, có thể là trong công
nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng, dịch vụ... Trong từng lĩnh vực đó lại chia
thành những lĩnh vực nhỏ hơn tạo nên sự đa dạng muôn màu muôn vẻ của đời
sống kinh doanh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh cũng bị giới hạn bởi một số lĩnh
vực có liên quan đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Trên cơ sở lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, các nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn hình
thức tổ chức kinh doanh phù hợp với điều kiện của mình. Các nhà đầu tư có
thể thành lập và đăng ký kinh doanh theo mô hình công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân...
Một quyền tự do không kém phần quan trọng của các nhà đầu tư là lựa
chọn địa điểm kinh doanh. Địa điểm kinh doanh là nơi mà họ tiến hành các
hoạt động kinh doanh, nó không chỉ phản ánh tính không gian của hoạt động
kinh doanh mà tự nó còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
Lựa chọn ngành nghề kinh doanh, hình thức tổ chức trong kinh doanh,
địa điểm kinh doanh là những quyết định đầu tiên của nhà kinh doanh. Thừa
nhận quyền tự do này chính là tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu và
tạo ra khả năng thuận lợi ban đầu cho sự nghiệp kinh doanh của họ; đồng thời
cũng giúp họ trả lời ba câu hỏi cơ bản mà nền kinh tế thị trường đặt ra. Đó là



×