Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

tổ chức dạy học với chủ đề truyện ngụ ngôn cho học sinh khối 6 qua hai bài “ếch ngồi đáy giếng” và “thầy bói xem voi” theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.35 MB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP BẢO LỘC
TRƯỜNG THCS QUANG TRUNG

Chuyên đề
TỔ CHỨC DẠY HỌC VỚI CHỦ ĐỀ: TRUYỆN NGỤ NGÔN
CHO HỌC SINH KHỐI 6 QUA HAI BÀI:
“ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG” và “THẦY BÓI XEM VOI”
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC.
Học kỳ I, Năm học 2019 - 2020

A. Mở đầu
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội thì việc hình thành các kĩ năng, năng
lực cho người học càng trở nên quan trọng và cần thiết, nó trở thành một trong những
vấn đề được quan tâm của toàn xã hội nói chung và toàn ngành giáo dục nước nhà nói
riêng. Trong dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ
thông sau 2015 nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là xây dựng chương trình
theo định hướng dạy học phát triển năng lực cho học sinh.
Theo từ điển tiếng Việt, năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt
và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm
đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng
lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất, kiến thức, kĩ năng) được thể
hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là một mô hình mới
của hoạt động học tập thay thế cho lối học truyền thống. Bằng việc chú trọng những nội
dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trọng tâm tập trung vào
học sinh và nội dung tích hợp với những vấn đề, hoạt động thực hành gắn liền với thực
tiễn. Mức độ hiểu biết của các em sau bài học không chỉ là biết, hiểu, vận dụng mà còn
biết phân tích, tổng hợp, đánh giá. Mục tiêu của bài học không chỉ bảo đảm kiến thức,
kĩ năng, thái độ theo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà còn định hướng hình thành, phát triển
các năng lực và phẩm chất cần thiết cho con người. Việc học của học sinh sẽ thực sự có
giá trị khi nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiều kĩ năng hoạt động, kĩ năng


sống.
Trong giai đoạn hiện nay, dạy học phải hướng đến phát huy tính tích cực của học
sinh, đòi hỏi học sinh phải tự mình khám phá, chinh phục kiến thức, không chỉ có thế
mà qua những kiến thức đó, người giáo viên cần phải hướng các em học sinh làm sao
hình thành được những kĩ năng cơ bản trong cuộc sống như kĩ năng tư duy, sáng tạo, kĩ
1


năng hợp tác… Bên cạnh đó giúp học sinh có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm,
biết ứng xử, hành động tích cực, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hàng
ngày, có suy nghĩ và hành động tích cực, có quyết định đúng đắn trong so sánh, có quan
hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh hưởng
đến sự an toàn và lành mạnh của cuộc sống.
Theo quan điểm dạy học nêu trên và hướng đến mục tiêu đổi mới hoạt động dạy học,
tổ Ngữ văn trường THCS Quang Trung tổ chức chuyên đề: Tổ chức dạy học với chủ
đề: Truyện ngụ ngôn cho học sinh khối 6 qua hai bài: “Ếch ngồi đáy giếng” và “Thầy
bói xem voi” theo định hướng phát triển năng lực.

B. NỘI DUNG
I/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thuận lợi:
Được sự chỉ đạo thống nhất từ Bộ GD & ĐT, Sở GD & ĐT Lâm Đồng, Phòng
GD & ĐT Bảo Lộc cũng như sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường và Tổ
chuyên môn, đây là cơ sở giúp giáo viên thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học,
dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh ngày càng hoàn thiện hơn.
Truyện ngụ ngôn là một thể loại có nội dung gần gũi với đời sống, chứa đựng
những bài học luân lý sâu sắc, những kinh nghiệm sống phong phú tạo thuận lợi cho
việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
Đặc điểm của truyện ngụ ngôn là ngắn gọn và cũng không kém phần hóm hỉnh,
hài hước, nhân vật thường là loài vật, đồ vật hoặc chính con người, điều đó làm cho học

sinh có ấn tượng, dễ nhớ, dễ tiếp thu. Vì vậy, giáo viên cũng dễ dàng hơn trong việc định
hướng phát triển các năng lực cho học sinh.
Trong thời gian qua, giáo viên đã thực hiện nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực góp phần làm tiền đề cho việc dạy học theo định hướng phát triển các năng
lực cho học sinh.
2. Khó khăn:
Dạy môn Ngữ văn nói chung và dạy truyện ngụ ngôn nói riêng, khi thực hiện việc
“Dạy học chủ đề - nghĩa rộng hay hẹp – theo định hướng phát triển năng lực cho học
sinh” cũng gặp khó khăn nhất định vì đây là cách tiếp cận mới.
Nhận thức về đổi mới của một số giáo viên còn hạn chế, dạy học vẫn nặng về
truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện các năng lực, kĩ năng cho học sinh có sự quan tâm
song chưa được đầu tư nhiều.
Áp lực về thời gian là một vấn đề chi phối việc dạy học theo theo chủ đề với định
hướng phát triển năng lực cho học sinh. Trong quá trình dạy, phần lớn giáo viên dành
thời gian truyền thụ hết nội dung, kiến thức có trong tác phẩm vì sợ không dạy hết sẽ bị
2


thiếu sót. Vì thế, việc phát triển các năng lực cho học sinh trong từng bài dạy còn bị hạn
chế, chưa phát huy được khả năng tư duy của các đối tượng học sinh.
Tỉ lệ học sinh tích cực, chủ động trong học tập còn ít. Khả năng tự học của học
sinh còn hạn chế, vì vậy việc dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực
cho học sinh còn gặp khó khăn.
II/ NHỮNG VẤN ĐỀ GIÁO VIÊN CẦN HIỂU VÀ NẮM RÕ KHI DẠY HỌC
THEO CHỦ ĐỀ VỚI ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HS.
1.
Dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực cho HS ở môn Ngữ
văn. Năng lực Ngữ văn được xác định là khả năng của mỗi học sinh thể hiện trong
việc thực hiện những mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ mà các em đã có sẵn hoặc
tiếp thu được để vận dụng trong quá trình học tập, để từ đó hình thành và phát triển các

năng lực: năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản, năng lực cảm thụ
thẩm mĩ, năng lực tự quản bản thân, năng lực tự học…
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để
học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người và bồi dưỡng năng lực tư
duy, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân
cách cho học sinh, sẽ tạo được nhiều cơ hội hơn cho học sinh thể hiện mình. Với mỗi
hoạt động, học sinh sẽ nhận thấy vai trò, vị trí của cá nhân trong tập thể, từ đó các em sẽ
tự tin hơn trong quá trình học tập. Cách dạy này sẽ kích thích được mọi học sinh tích
cực làm việc đặc biệt là những học sinh yếu bởi những học sinh này sẽ được giáo viên
và các bạn cùng nhóm để ý đến nhiều hơn. Khi phát triển được các năng lực trong quá
trình học tập tức là học sinh thấy rõ vai trò, vị trí của mình, từ đó sẽ biết nỗ lực để hoàn
thành nhiệm vụ, biết hành động vì người khác và đó chính là một cách để hoàn thiện
nhân cách người học sinh.
2.
Dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực được thể hiện trong
các yêu cầu của quá trình dạy học như sau:
- Về mục tiêu dạy học: Ngoài các yêu cầu về mức độ như nhận biết, tái hiện kiến thức
cần có những mức độ cao hơn như vận dụng các kiến thức trong các tình huống, các
nhiệm vụ gắn với thực tế. Các mục tiêu này đạt được thông qua các hoạt động trong và
ngoài nhà trường.
- Về phương pháp dạy học: Ngoài cách dạy thuyết trình để cung cấp kiến thức, cần tổ
chức hoạt động dạy học thông qua trải nghiệm, giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn.
Như vậy, thông thường qua một hoạt động học tập, học sinh sẽ được hình thành và
phát triển không phải một năng lực mà được hình thành đồng thời nhiều năng lực. - Về
nội dung: Cần xây dựng các hoạt động, chủ đề, nhiệm vụ đa dạng gắn với thực tiễn.

3


- Về kiểm tra đánh giá: về bản chất, đánh giá năng lực phải thông qua đánh giá khả năng

vận dụng kiến thức và kĩ năng thực hiện nhiệm vụ của học sinh trong các loại tình
huống phức tạp khác nhau.
Những yêu cầu một giờ học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực.
- Giờ học phải phát huy được tính tích cực của học sinh: ngoài những yêu cầu có tính
chất truyền thống như bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học
phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi thì còn có những yêu cầu mới như thông qua việc giáo
viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện
phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin, được thực
hiện theo nguyên tắc nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa học sinh với nhau.
- Dạy học tích hợp và phân hóa: dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên phải thấy được mối
liên hệ nội môn (nghe, nói, đọc, viết), theo đó nội dung dạy đọc có liên quan lặp lại ở
nội dung viết, nói và nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà học sinh tích lũy được
trong quá trình tiếp nhận văn bản sẽ giúp cho năng lực giao tiếp (nghe, nói) của học
sinh tốt hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt mà học sinh được học trong quá
trình đọc sẽ được các em dùng để thực hành viết. Những điều các em được dùng khi
đọc, viết sẽ được các em vận dụng vào nói. Cùng với tích hợp nội môn, trong quá trình
dạy giáo viên có thể tích hợp các kiến thức liên môn khác để định hướng phát triển các
năng lực khác nhau cho học sinh khi vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Dạy học phân hóa có thể thực hiện bằng nhiều cách theo nhiều mức độ khác nhau
bằng hệ thống câu hỏi phù hợp để làm sao tất cả học sinh đều làm việc và lựa chọn vấn
đề phù hợp với mình.
- Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học.
3. Cấu trúc bài soạn giáo án.
- Xác định vấn đề dạy học trong bài giảng.
- Nội dung của bài học và thời lượng thực hiện.
- Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ và những phẩm chất, năng lực của học sinh có thể
hình thành và phát triển trong quá trình dạy học.
- Bảng mô tả bốn mức yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của các
loại câu hỏi/ bài tập kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học.
- Các câu hỏi bài tập tương ứng với mỗi loại, mức độ yêu cầu được mô tả trong quá trình

tổ chức hoạt động học của học sinh. - Tiến trình thiết kế các hoạt động dạy, học.
1. Hoạt động khởi động (tạo tình huống xuất phát);
2. Hoạt động hình thành kiến thức - kĩ năng mới;
3. Hoạt động củng cố, luyện tập;
4. Hoạt động vận dụng;
4


5. Hoạt động mở rộng, phát triển ý tưởng sáng tạo.
III/ DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CHO HỌC SINH KHI DẠY HAI BÀI “ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG” VÀ “THẦY
BÓI XEM VOI”.
1. Xác định các năng lực cần định hướng.
- Năng lực hợp tác: Học sinh thể hiện năng lực hợp tác của mình qua hoạt động thảo
luận nhóm để tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách giáo huấn, cách kể
chuyện, hợp tác cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của các truyện ngụ ngôn được học. Trong
quá trình thảo luận nhóm học sinh biết chia sẻ ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của
bạn để giải quyết vấn đề của câu hỏi.
Khi dạy truyện Thầy bói xem voi giáo viên giúp học sinh thấy được mâu thuẫn giữa
năm ông thầy bói và hậu quả của sự mâu thuẫn đó. Nguyên nhân của mâu thuẫn đó bắt
nguồn từ sự thiếu sự hợp tác dẫn đến mất đoàn kết giữa năm ông thầy bói. Năm ông thầy
bói phán về con voi đều sai nhưng không ông nào chịu nhận, ai cũng cho là mình đúng.
Nếu năm ông thầy bói biết tổng hợp các lời phán của các ông lại với nhau thì họ sẽ hình
dung ra được hình thù một con voi hoàn chỉnh. Bài học về năng lực hợp tác cần phát
triển cho học sinh ở đây là các em cần bắt tay nhau trong công việc vì một mục đích
chung, biết đưa ra ý tưởng của bản thân nhưng cũng cần biết lắng nghe ý kiến của người
khác, biết tôn trọng lẫn nhau, không nên cố chấp, bảo thủ.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Học sinh nhận thức, khám phá được những tình huống
có vấn đề trong học tập. Chẳng hạn khi học truyện Ếch ngồi đáy giếng học sinh sẽ hiểu
được vấn đề vì sao ếch bị trâu giẫm bẹp. Vì sao năm ông thầy bói phán về con voi lại

sai.... Học sinh giải thích, phân tích, tổng hợp các vấn đề trên nhằm tạo nên sự hiểu
biết của mình về tác hại của tính chủ quan, tác hại của cách nhìn phiến diện. Khi tìm
hiểu khái niệm truyện ngụ ngôn, học sinh nhận thức được vấn đề thế nào là truyện ngụ
ngôn để tìm hiểu về đặc điểm của truyện ngụ ngôn. Từ ý nghĩa, bài học của truyện Ếch
ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi học sinh có thể đưa ra giải pháp vận dụng của cá
nhân cho phù hợp.
- Năng lực giao tiếp: Học sinh kể trôi chảy, diễn cảm truyện Ếch ngồi đáy giếng và
Thầy bói xem voi. Trong qúa trình giải quyết vấn đề, học sinh biết đưa ra ý kiến của
mình, phản biện ý kiến của người khác. Kết thúc bài học, học sinh có thể trình bày cảm
nhận của mình về nhân vật chú ếch hay năm ông thầy bói hoặc cảm nhận về một tình
huống, một chi tiết sự việc nào trong truyện mà các em có ấn tượng. Khi học truyện
Ếch ngồi đáy giếng học sinh thấy được con ếch trong truyện rất huênh hoang, nghĩ
mình là chúa tể, nó coi thường các con vật xung quanh, làm cho các con vật đó hoảng
sợ, tránh xa. Giáo viên có thể liên hệ với cuộc sống thực tế của học sinh khi các em ở
trong gia đình, trong lớp học để học sinh biết mình là ai, ở vị trí nào, từ đó hình thành
5


phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh là các em cần biết mình hành xử với mọi
người xung quanh như thế nào để được mọi người yêu quý. Hay trong truyện Thầy bói
xem voi, giáo viên cho học sinh hiểu được năm ông thầy bói không biết lắng nghe ý
kiến của nhau, cuối cùng họ đánh nhau toác đầu chảy máu mà vẫn không biết hình thù
con voi như thế nào. Năng lực giao tiếp ở đây là học sinh cần biết lắng nghe, chia sẻ,
bày tỏ quan điểm của mình nhưng khi trao đổi cần tránh xung đột mới đạt kết quả.
- Năng lực cảm thụ thẩm mỹ: Qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói
xem voi cảm nhận được vẻ đẹp của văn học đó là hình ảnh các nhân vật rất gần gũi với
cuộc sống, trong đó lại ẩn chứa những bài học có ý nghĩa sâu xa. Từ đó hình thành phát
triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh, giúp các em cảm nhận được giá trị của tính khiêm
tốn, có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội, hình thành thế
giới thẩm mĩ cho bản thân.

- Năng lực tự quản bản thân: Trong truyện Ếch ngồi đáy giếng, con ếch chỉ sống trong
giếng không biết mình là ai, tưởng mình là chúa tể, khi ra ngoài giếng nó không biết
về cuộc sống quá rộng lớn mà nó chỉ là chú ếch bé nhỏ; hành động nghênh ngang đi
lại khắp nơi, nhâng nháo không để ý đến chung quanh nên phải trả giá đắt là bị trâu
giẫm bẹp. Năng lực cần định hướng phát triển cho học sinh ở đây là các em cần biết
sống khiêm tốn, phải mở rộng tầm hiểu biết của mình để có cách sống phù hợp với
hoàn cảnh, hay trong truyện Thầy bói xem voi khi đứng trước một vấn đề mà mỗi người
có một ý kiến khác nhau ai cũng cho là mình đúng, để giải quyết được vấn đề đó thì
mỗi người phải biết lắng nghe nhau và biết tự kiềm chế cảm xúc của bản thân để tránh
xảy ra hậu quả xấu như năm ông thầy bói.
- Năng lực sáng tạo: Từ truyện Ếch ngồi đáy giếng, học sinh đề xuất được các phương
pháp học tập để mở rộng tầm hiểu biết của mình. Chẳng hạn ngoài học trong sách vở,
muốn mở rộng tầm hiểu biết thì cần phải tự học trên Internet, trên các nguồn thông tin
chính thống khác. Chuyện Thầy bói xem voi sẽ phát triển năng lực sáng tạo cho học
sinh là cách đánh giá nhận xét đúng một sự vật, sự việc, con người. Hay học sinh có
thể đọc sáng tạo truyện Thầy bói xem voi bằng cách đọc phân vai, hoặc có thể kể chuyện
theo tranh ...
- Năng lực tự học: Học sinh tự học bài, soạn bài, làm bài tập ở nhà. Tìm hiểu đặc điểm
truyện ngụ ngôn, nội dung, ý nghĩa truyện Thầy bói xem voi và truyện Ếch ngồi đáy
giếng thông qua việc chuẩn bị bài và làm bài tập giáo viên yêu cầu.
2. Xây dựng giáo án dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực
cho học sinh.
Bước 1: Xác định vấn đề dạy học trong bài giảng.
Trong chương trình Ngữ văn của từng khối lớp, chúng ta chọn những bài học có mối
liên quan chặt chẽ với nhau về mặt nội dung, ý nghĩa. Xác định nội dung, phạm vi kiến
6


thức liên quan muốn đưa vào bài. Nội dung có thể là sự tích hợp một đơn vị kiến thức
trong nhiều bài, nội dung phải mang tính định hướng vào thực tế cuộc sống (sau khi học

xong bài học, học sinh sẽ giải quyết được những vấn đề thực tiễn gì?). Từ những nội
dung liên quan đó, giáo viên lựa chọn các đơn vị kiến thức để định hướng phát triển
năng lực cho học sinh.
Bước 2: Nội dung của bài học và thời lượng thực hiện.
Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựng bài
giảng. Về thực chất, mỗi bài học này tương ứng với một loại hoạt động học theo tiến
trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực.
Bước 3: Xác định mục tiêu của bài giảng.
Xác định chuẩn KT, KN, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học
dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, từ đó xác định các
năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong chuyên đề sẽ xây dựng. +
Mục kiến thức: Liệt kê các đơn vị kiến thức (căn cứ vào chuẩn kiến thức của chương
trình hiện hành)
+ Mục kĩ năng: Xác định những kĩ năng cần hình thành và rèn luyện dựa trên đơn vị kiến
thức.
Lưu ý: Sử dụng các từ lượng hóa để có thể đánh giá theo các mức (theo thang đánh giá
của Nicko): nhận biết (nhận biết, gọi tên, trình bày, chỉ ra, nêu…), thông hiểu (hiểu đặc
điểm, tóm tắt, lí giải, phân biệt, phân loại, khái quát), vận dụng thấp (so sánh, phân tích,
nhận xét, đánh giá, liên hệ), vận dụng cao (phân tích, suy nghĩ, đánh giá…) để xây dựng
các định hướng phát triển năng lực cho học sinh theo từng bài học.
Bước 4: Lập bảng mô tả các năng lực cần phát triển dựa trên các mức độ yêu cầu
(nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập.
Mô tả rất khái quát để có thể vận dụng cho nhiều nội dung cụ thể của từng bài/ từng đơn
vị nội dung trong chủ đề (chưa có hình thức của câu hỏi). Có thể sử dụng để kiểm tra,
đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học.
Bước 5: Biên soạn các câu hỏi/ bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả.
Mục đích của công việc này là để sử dụng trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy
học và kiểm tra, đánh giá, luyện tập theo chủ đề đã xây dựng. Cụ thể là thiết kế những
câu hỏi cụ thể, bám sát các mức độ yêu cầu đã xác định ở bước 4 và phù hợp với năng
lực cần phát triển cho người học.

Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học.
Để thiết kế tiến trình dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực cho HS,
GV phải hình thành được các hoạt động thực hiện trên lớp và ở nhà. Mỗi tiết học trên
lớp có thể thực hiện một số hoạt động, trong tiến trình dạy học còn một số hoạt động
giao về nhà cho HS thực hiện. Khi tổ chức hoạt động dạy học theo định hướng phát triển
7


năng lực cho HS, GV cần chú ý đặt HS vào các tình huống xuất phát gần gũi với thực tế
cuộc sống để HS dễ cảm nhận, dễ liên hệ thực tế thì việc hình thành năng lực cho HS dễ
dàng hơn. Từ tình huống xuất phát ban đầu, HS có thể hình thành những vấn đề khác
xảy ra trong quá trình tìm hiểu các vấn đề mà GV nêu ra trong các hoạt động dạy học.
Từ đó, HS sử dụng những năng lực của mình như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
tự học… để tìm hiểu và chiếm lĩnh tri thức giáo viên truyền đạt.
Lưu ý khi soạn giáo án dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực
học sinh.
- Phần mục tiêu của bài căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng, xác định mục tiêu của từng
hoạt động cần căn cứ vào mục tiêu chung của bài theo từng đơn vị kiến thức.
- Chú trọng cách tiến hành, cách tổ chức các hoạt động học tập của HS sao cho GV chỉ
là người tổ chức giao việc và chính xác hóa kiến thức, còn học sinh được tự khám phá,
trải nghiệm và chiếm lĩnh kiến thức thông qua các kĩ năng tự học, kĩ năng hợp tác… Cá thể hóa đối tượng học sinh, đặc biệt là nhóm học sinh cần giúp đỡ và nhóm học sinh
cần phát huy năng lực.
- Chỉ rõ nội dung cần giúp đỡ hay cần phát huy cho học sinh.
- Để phát huy lợi thế của việc dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực
cho học sinh, cần vận dụng tốt các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Có nhiều
phương pháp dạy học tích cực như: đàm thoại, thảo luận nhóm, dạy học theo dự án,
đóng vai... Tùy theo bài học mà giáo viên có thể lựa chọn các phương pháp thích hợp
nhất để phát huy được năng lực của mỗi học sinh. Mỗi phương pháp dạy học đều có
điểm mạnh, hạn chế riêng. Vì thế, để phát huy điểm mạnh, khắc phục hạn chế, người
thầy phải vận dụng các kĩ thuật dạy học để hỗ trợ. Chẳng hạn, để phát huy ưu thế của

phương pháp thảo luận nhóm và hạn chế hiện tượng học sinh ỷ lại, không hợp tác khi
thực hiện phương pháp này, người dạy có thể sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn. Đây là kĩ
thuật dạy học đòi hỏi tất cả các thành viên của nhóm đều phải tham gia.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Thời gian thực hiện: tuần 10.
- Viết báo cáo: cô Phan Thị Dung
- Thiết kế giáo án minh họa: cô Đoàn Thị Thu Lan
- Chỉ đạo, kiểm tra nội dung báo cáo và giáo án dạy minh họa: thầy Trần Duy Thiện
- Giáo viên dạy minh họa: cô Đoàn Thị Thu Lan
- Bài dạy minh họa: Truyện ngụ ngôn: Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi – Ngữ
văn 6 (tiết 37, 38) – Năm học 2018-2019 là tiết 37 và 39, nay chuyển về là 37, 38 1.
Lý do chọn bài.

8


Các văn bản truyện ngụ ngôn Việt Nam được biên soạn trong SGK Ngữ văn 6 tập
một với dung lượng vừa phải, phù hợp cho việc giáo dục học sinh qua các bài học ngụ
ngôn gần gũi trong cuộc sống (bài học trong nhận thức thế giới xung quanh, bài học về
việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân...). Trong phân phối chương trình và kế hoạch dạy học
của tổ Ngữ văn chúng tôi đã chọn hai bài này dạy liền nhau và biên soạn thành bài dạy
theo chủ đề (nghĩa rộng). Việc đưa hai văn bản có sự giao thoa, tương đồng về kiến thức,
kĩ năng thành một bài học trong 2 tiết liền nhau có tác dụng phát huy nhận thức, rèn
luyện kĩ năng, hình thành thái độ tích cực cho học sinh. Văn bản Ếch ngồi đáy giếng và
Thầy bói xem voi không những cung cấp cho học sinh kiến thức chung về truyện ngụ
ngôn mà còn hướng các em tới những bài học về đạo lý và lẽ sống. Vì thế chúng tôi chọn
hai văn bản này để thực hiện chuyên đề: Tổ chức dạy học với chủ đề:
Truyện ngụ ngôn cho học sinh lớp 6 qua hai bài “Ếch ngồi đáy giếng” và “Thầy bói
xem voi” theo định hướng phát triển năng lực.
2. Tiến trình dạy học
a. Xác định mục tiêu bài học *

Kiến thức:
- Hiểu thế nào là truyện ngụ ngôn.
- Đặc điểm của nhân vật,sự kiện, cốt truyện trong các truyện ngụ ngôn.
- Ý nghĩa giáo huấn sâu sắc của các truyện ngụ ngôn.
- Hiểu được những bài học về đạo lý và lẽ sống qua những truyện ngụ ngôn.
- Nghệ thuật đặc sắc của truyện:
+ Mượn chuyện loài vật để nói chuyện con người.
+ Ẩn chứa bài học triết lý; tình huống bất ngờ, hài hước, độc đáo.
+ Cách nói bằng ngụ ngôn, cách giáo huấn tự nhiên, sâu sắc.
+ Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ (mượn các bộ phận cơ thể để nói chuyện con người)
* Kĩ năng:
- Đọc – hiểu văn bản truyện ngụ ngôn.
- Liên hệ các sự việc trong truyện với những tình huống, hoàn cảnh thực tế.
- Kể lại được truyện.
- Tự nhận thức giá trị của cách ứng xử khiêm tốn, biết học hỏi trong cuộc sống.
- Giao tiếp: Phản hồi, tích cực lắng nghe, trình bày suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận của bản
thân về giá trị nội dung, nghệ thuật và bài học của các truyện ngụ ngôn.
*Thái độ:
- Khiêm tốn, biết mình, biết người, không chủ quan, kiêu ngạo. Cần học hỏi mở rộng
hiểu biết xung quanh.
9


- Giáo dục học sinh ý thức học tập và thái độ sống với những người xung quanh.
* Định hướng năng lực Năng
lực hợp tác.
Năng lực giải quyết vấn đề.
Năng lực giao tiếp.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
Năng lực tự quản bản thân.

Năng lực sáng tạo.
Năng lực tự học.
b. Tiến trình bài dạy:
- Với chủ đề Truyện ngụ ngôn (Ngữ văn 6), sẽ thực hiện trong 2 tiết học tương ứng với
hai văn bản Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi.
- Tuân thủ theo 5 hoạt động của tiến trình dạy học: Khởi động/ Hình thành kiến thức/
Luyện tập/ Vận dụng/ Mở rộng, bổ sung, phát triển ý tưởng sáng tạo.
- Trong từng hoạt động của tiến trình dạy học, giáo viên cần xác định rõ năng lực cần
hình thành cho học sinh để rồi xác định, mô tả, biên soạn các hoạt động, bài tập hay hệ
thống câu hỏi phù hợp. Cụ thể: Hoạt động 1. Khởi động
- Giáo viên cho học sinh nghe một đoạn bài hát liên quan đến hai truyện ngụ ngôn Ếch
ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi. (hoặc xem một số hình ảnh)
- Học sinh trả lời câu hỏi: Đoạn bài hát vừa nghe (hoặc các hình ảnh vừa được xem) liên
quan đến những câu chuyện dân gian nào mà em biết?
- Từ đó, giáo viên dẫn dắt vào bài mới.
Hoạt động 2. Hình thành kiến thức.
I/ Giới thiệu chung
- Năng lực cần phát triển: năng lực tự học, giải quyết vấn đề.
- Hình thức hoạt động: trên cơ sở tự tìm hiểu bài học ở nhà, giáo viên yêu cầu học sinh
kể một số truyện ngụ ngôn mà mình đã đọc. Từ đó, dẫn dắt học sinh vào tìm hiểu đặc
điểm của truyện ngụ ngôn.
II/ Đọc – hiểu văn bản
Năng lực cần phát triển cho học sinh:
+ Năng lực hợp tác: HS thảo luận nhóm, chia sẻ ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của
bạn để tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách giáo huấn, cách kể chuyện, cùng
nhau tìm hiểu ý nghĩa của truyện Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi.
+ Năng lực giải quyết vấn đề: HS nhận thức, khám phá và tìm các phương pháp giải
quyết các tình huống có vấn đề trong truyện Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi. +
10



Năng lực giao tiếp: HS đọc diễn cảm, kể trôi chảy truyện Ếch ngồi đáy giếng và Thầy
bói xem voi. Trình bày cảm nhận của mình về nhân vật chú ếch hoặc nhân vật năm ông
thầy bói. Học sinh có thể hình thành cho mình kĩ năng giao tiếp, sống hòa đồng với mọi
người xung quanh hay khi bày tỏ ý kiến của mình cần biết lắng nghe, chia sẻ để tránh
xung đột.
+ Năng lực cảm thụ thẩm mĩ: HS cảm nhận được vẻ đẹp của văn học, mượn nhân vật
chú ếch, thầy bói vốn rất gần gũi với đời sống để ẩn chứa những bài học có ý nghĩa sâu
xa. Từ đó, học sinh cảm nhận được giá trị của tính khiêm tốn, biết hình thành cho bản
thân những hành vi tốt đẹp phù hợp với chuẩn mực xã hội.
+ Năng lực tự quản bản thân: HS tự điều chỉnh cách sống của mình, sống hòa đồng với
bạn bè, khiêm tốn với mọi người, biết cách học hỏi để mở rộng tầm hiểu biết của mình,
biết kiềm chế cảm xúc, biết lắng nghe để tránh xảy ra xung đột trong cuộc sống.
+ Năng lực sáng tạo: HS đề xuất các phương pháp học tập của mình để mở rộng tầm
hiểu biết hay tìm ra được các cách đánh giá, nhận xét một sự vật, sự việc, con người.
Cũng có thể sáng tạo trong cách đọc tác phẩm như đọc phân vai hay vào vai nhân vật để
kể lại truyện.
+ Năng lực tự học: HS tự chuẩn bị bài ở nhà, làm bài tập phần vận dụng, mở rộng mà
giáo viên yêu cầu.
Hình thức hoạt động: Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi phát vấn, câu hỏi thảo luận,
yêu cầu học sinh phát hiện chi tiết, sự việc trong truyện, cảm nhận về một vài chi tiết đặc
sắc; giáo viên kết hợp hài hòa giữa nhiều phương pháp dạy học.
Ví dụ: Khi dạy truyện Ếch ngồi đáy giếng và Thầy bói xem voi.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, kể tóm tắt hoặc kể truyện theo tranh, xác định
được bố cục của truyện.
* Truyện Ếch ngồi đáy giếng, giáo viên cho học sinh tìm hiểu:
+ Tìm hiểu môi trường sống của ếch qua các chi tiết trong truyện. Trong môi trường
ấy, ếch có suy nghĩ như thế nào? Điều đó cho thấy đặc điểm gì trong tính cách của ếch?
+ Điều gì đã làm thay đổi hoàn cảnh sống của ếch? Khi hoàn cảnh thay đổi ếch có thay
đổi bản thân mình không? Vì sao?

+ Vì sao ếch bị trâu giẫm bẹp?
Cho học sinh hoạt động nhóm bằng kĩ thuật mảnh ghép: Nhóm
1: Nhận xét về cách xây dựng hình tượng nhân vật.
Nhóm 2: Nhận xét cách giáo huấn, cách nói trong truyện.
Nhóm 3: Nhận xét cách kể chuyện, cách nêu bài học trong câu chuyện.
Nhóm 4: Nêu ý nghĩa truyện.
* Truyện Thầy bói xem voi, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu:
11


+ Các thầy bói xem voi như thế nào? Em có nhận xét gì về cách xem voi của năm ông
thầy bói? Em có ý kiến gì về nhận xét của năm ông thầy bói phán về voi?
+ Tại sao các thầy bói khẳng định ý kiến của mình về con voi là đúng? Các thầy bói có
biết vì sao mình phán về con voi sai hay không?
+ Các thầy bói đã gây ra hậu quả gì? Cho biết ý kiến của em về năm ông thầy bói?
Học sinh thảo luận nhóm bằng kĩ thuật khăn trải bàn.
Nhóm 1 và 2: Từ nhân vật ếch và việc xem voi của năm ông thầy bói em rút ra cho mình
bài học gì trong cuộc sống?
Nhóm 3 và 4: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện Thầy bói xem voi và Ếch ngồi
đáy giếng khác nhau như thế nào? Hoạt động 3: Luyện tập
Năng lực cần phát triển cho học sinh: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp.
Hình thức hoạt động:
- GV yêu cầu học sinh giải thích nội dung hai câu thành ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”, “Thầy
bói xem voi”. Chỉ ra những tình huống trong cuộc sống có nội dung kiểu Ếch ngồi đáy
giếng và Thầy bói xem voi.
- Yêu cầu học sinh rút ra bài học cho bản thân từ hai câu chuyện trên.
Hoạt động 4: Vận dụng (thực hiện ở nhà)
Năng lực cần phát triển cho học sinh: năng lực sáng tạo, năng lực tự học, năng lực tự
quản bản thân.
Nội dung yêu cầu: Học sinh viết đoạn văn 7 đến 10 dòng có nội dung:

- Phê phán những kẻ hiểu biết hạn hẹp mà lại huênh hoang, đồng thời khuyên nhủ phải
mở rộng tầm hiểu biết, không chủ quan, kiêu ngạo.
- Khuyên nhủ con người khi tìm hiểu về một sự vật, sự việc nào đó phải xem xét chúng
một cách toàn diện.
Hoạt động 5: Mở rộng, bổ sung, phát triển ý tưởng sáng tạo. (thực hiện ở nhà) Năng
lực cần phát triển cho học sinh: năng lực sáng tạo, năng lực tự học, năng lực tự quản bản
thân. Nội dung yêu cầu:
- Sưu tầm một số câu ca dao, tục ngữ có nội dung tương ứng với thành ngữ “Ếch ngồi
đáy giếng”, “Thầy bói xem voi”.
- Tìm đọc thêm các truyện ngụ ngôn trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và truyện
ngụ ngôn nổi tiếng của La-phông-ten. Tự rút ra bài học để mở rộng tầm hiểu biết.
BÀI SOẠN MINH HỌA
TỔ CHỨC DẠY HỌC VỚI CHỦ ĐỀ: TRUYỆN NGỤ NGÔN CHO HỌC SINH
KHỐI 6 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC.
Tuần 10, tiết 37, 38 (Biên soạn 2 tiết liền nhau để dạy theo chủ đề - nghĩa rộng)
12


ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG và THẦY BÓI XEM VOI.
(Truyện ngụ ngôn)

C. KẾT LUẬN
Tóm lại việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh không chỉ
chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện các năng lực
gắn với các tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động
thực hành, thực tiễn. Tuy nhiên, để tiến đến thành công đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ của
đội ngũ nhà giáo trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, ý
thức chủ động với việc dạy và học. Việc thực hiện chuyên đề: Tổ chức dạy học với chủ
đề: Truyện ngụ ngôn cho học sinh lớp 6 qua hai bài ”Ếch ngồi đáy giếng“ và ”Thầy bói
xem voi“ theo định hướng phát triển năng lực vẫn là bước đi mới khi biên soạn và dạy

học theo chủ đề (nghĩa rộng) mà Sở Giáo dục và Đào tạo Lâm Đồng triển khai nhưng
chỉ mô tả lý thuyết, không có tiết dạy minh họa. Vì thế, chúng tôi vừa nghiên cứu thực
hiện, vừa rút tỉa kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong
được sự đóng góp chân thành của bạn bè, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.

D. KIẾN NGHỊ
Để việc dạy học theo chủ đề với định hướng phát triển năng lực cho học sinh được
thực hiện đúng hướng, thường xuyên, chúng tôi kiến nghị với lãnh đạo Phòng Giáo dục
và Đào tạo thành phố Bảo Lộc một số vấn đề sau:
1.
Thường xuyên tổ chức hoạt động chuyên môn cấp Thành phố - một năm ít nhất
một lần để giáo viên có cơ hội giao lưu, trao đổi học tập. Sau trường THCS Quang Trung
có thể tổ chức thực hiện ở các trường khác (xa trung tâm) để nghiên cứu, trải nghiệm
với các đối tượng học sinh không ở vùng trung tâm.
2.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đủ điều kiện để dễ dàng thực hiện việc dạy học
theo định hướng phát triển năng lực. (Tổ chức dạy học như hôm nay có nhiều giáo viên
tham dự, khâu chuẩn bị mất nhiều thời gian, thiết kế chỗ đặt các thiết bị không thể thuận
lợi tối đa cho việc dạy của giáo viên và phần làm việc của học sinh như: vị trí đặt bảng,
màn hình để trình chiếu, bục dành cho giáo viên để có độ cao dễ quan sát lớp học, bàn
học cho học sinh... )
3.
Việc biên soạn giáo án dạy học theo chủ đề đối với một số giáo viên vẫn là vấn
đề khó khăn, nhất là giáo viên dự Hội thi giáo viên dạy giỏi. Vậy nên có thể tổ chức
cuộc thi giáo án dạy học theo chủ đề (nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp) để giáo viên có thêm
cơ hội giao lưu trao đổi kinh nghiệm và phát huy khả năng thực hành, sáng tạo.
4.
Cũng cần sự chỉ đạo của Phòng GD Trung học – Sở giáo dục & Đào tạo Lâm
Đồng về khung giáo án. Vì từ năm học 2011 – 2012 có thống nhất khung giáo án bằng
mẫu văn bản và từ đó đến nay, có nhiều nội dung thêm vào giáo án, nhất là dạy học theo

13


chủ đề với định hướng phát triển năng lực cho học sinh thì chưa có văn bản chỉ đạo
chính thức, chỉ nghe qua truyền miệng. Dẫn đến khó thống nhất thực hiện.
Bảo Lộc, ngày 14/10/2019
Tổ Ngữ văn, Trường THCS Quang Trung – Bảo Lộc thực hiện.

14


15


16


17


18


19


20


21



22



×