Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

chuyên đề: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.01 KB, 33 trang )

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI THPT QUỐC GIA
MÔN: NGỮ VĂN; LỚP 12
Tên chuyên đề:

“NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” CỦA NGUYỄN TUÂN
I MỞ ĐẦU
A. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Mô tả chuyên đề
Chuyên đề này gồm các bài: Tiết 46, 47 trong chương trình Ngữ văn 12 chương trình cơ bản.
Tiết 46, 47: “Người lái đò Sông Đà.” ( Nguyễn Tuân)
Các kiến thức cũ trong chương trình Ngữ văn 11
Tiết 40: Tác gia Nguyễn Tuân.
- Lý do chọn chuyên đề:
Tác phẩm kí “ Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nội dung
kiến thức quan trọng trong chương trình thi THPT Quốc gia. Đây là một tác
phẩm hay, xuất hiện nhiều trong các đề thi. Việc tìm hiểu tác phẩm một cách sâu
sắc giúp học sinh hiểu sâu sắc tác phẩm, thuần thục trong kĩ năng nghị luận về
một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi cũng như kĩ năng xử lí và vận dụng tài
liệu trong học tập. Đặc biệt, qua chuyên đề, học sinh có thể củng cố và nâng cao
phương pháp tự học, chủ động tích cực trong tư duy và bước đầu làm quen với
công việc nghiên cứu khoa học.
II. Mạch kiến thức của chuyên đề
1. Kiến thức chung về tác giả.
1.1 Con người Nguyễn Tuân
1.2 Sự nghiệp sáng tác
1.3 Phong cách nghệ thuật
2. Tác phẩm
2.1 Hoàn cảnh sáng tác
2.2 Vài nét về thể loại tùy bút
2.3 Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
III. Hệ thống câu hỏi ôn luyện tác phẩm


1


1. Dạng câu hỏi đọc hiểu
2. Dạng đề phân tích
3. Dạng đề bàn luận về ý kiến trong tác phẩm
4. Dạng đề so sánh
5. Dạng đề liên hệ
IV. Giới thiệu các đề tự giải
V. Kết luận.
B TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO CHUYÊN ĐỀ

I. Mục tiêu cần đạt
1. Mức độ tái hiện kiến thức và thông hiểu
- Những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân: Con người, sự nghiệp,
phong cách văn học.
- Kiến thức về tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thể loại tác
phẩm, giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, ý nghĩa văn bản.
2. Mức độ vận dụng kiến thức (từ cấp độ thấp đến cấp độ cao)
- Cảm nhận được vẻ đẹp đa dạng của con Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ
tình cùng hình ảnh giản dị mà kì vĩ của người lái đò trên dòng sông ấy. Từ đó
thấy được tình yêu, sự đắm say của Nguyễn Tuân trước thiên nhiên và con người
lao động ở miền Tây Bắc tổ quốc.
- Hiểu và yêu mến tài năng nghệ thuật độc đáo của nhà văn thể hiện trên
những trang tùy bút.
- Biết phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình về một hình ảnh, đoạn
văn mà học sinh thấy yêu thích nhất trong thiên tùy bút.

II. Đối tượng giảng dạy
- Học sinh ôn thi THPT Quốc gia.

- Cụ thể là học sinh khối 12.

III. Phương pháp
Để thực hiện chuyên đề, chúng tôi đã kết hợp sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp giảng, bình.
- Phương pháp thảo luận nhóm, đàm thoại: Trong giờ học chuyên đề, giáo
viên cho học sinh tự giải quyết vấn đề qua thảo luận nhóm. Cuối cùng, giáo viên
nhận xét và kết luận. Như thế, học sinh sẽ phải tư duy và chủ động trong việc
chiếm lĩnh tri thức.
- Phương pháp thực hành: Giáo viên cần phải cho học sinh viết bài chuyên
đề như cấu trúc đề thi THPTQG theo định kì (có báo trước) và không theo định
kì (bất chợt), chấm chữa bài và uốn nắn những chỗ còn chưa đạt trong bài viết
của học sinh. Khuyến khích nêu gương những học sinh có bài viết tốt, khen ngợi
kịp thời những học sinh có biểu hiện tiến bộ từ đó thổi bùng lên ở mỗi em ngọn
lửa đam mê, tình yêu văn chương.

2


- Phương pháp thống kê, phân tích dữ liệu để đánh giá mức độ nhận thức
của học sinh từ đó điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp
với tình hình thực tế.
III. Năng lực cần hướng đến:
- Năng lực tự học.
- Năng lực tự giải quyết vấn đề, thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
- Năng lực sáng tạo.
- Năng lực giao tiếp, trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa
của văn bản.
- Năng lực hợp tác, trao đổi, thảo luận.

- Năng lực sử dụng ngôn ngữ bày tỏ quan điểm, cảm nhận sau khi đọc văn
bản.
- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ.
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận
IV. Số tiết ôn tập: 8 tiết
- 02 tiết ôn tập kiến thức cơ bản.
- 04 tiết luyện đề.
- 02 tiết kiểm tra đánh giá.

PHẦN II: NỘI DUNG
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Khái quát về tác giả.
1. Con người Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân là một nhà trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc. Lòng yêu nước của ông luôn gắn với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc và gắn với tiếng mẹ đẻ, với tình yêu quê hương đất nước.
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn là để
khẳng định cá tính độc đáo của mình; là người ham du lịch và có lối sống tự do,
phóng túng.
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa, uyên bác. Ông hiểu biết sâu
rộng về nhiều ngành nghệ thuật ngoài văn chương, thường dùng con mắt của
nhiều ngành văn hóa nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh để
tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật ngôn từ.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thực sự nghề nghiệp của
mình. Ông quan niệm “Nghề văn là nghề đối lập với nghề có tính vụ lợi kiểu
con buôn” và “ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đó không thể có cái đẹp”. Ông
quan niệm, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ
hạnh” và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng
minh cho quan niệm ấy.
2. Sự nghiệp sáng tác

3


Nguyễn Tuân là một nhà văn hóa lớn của văn học Việt Nam. Sự nghiệp
văn học của ông trải ra trên hai chặng đường: trước và sau cách mạng tháng
Tám.
a. Trước cách mạng tháng Tám
- Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn, sáng tác của ông chủ yếu xoay
quanh ba đề tài:
+ Chủ nghĩa xê dịch: Ở đề tài này, Nguyễn Tuân viết về bước chân
của cái tôi lãng tử qua những miền quê, những tác phẩm thuộc về đề tài này làm
hiện ra cảnh sắc và phong vị thiên nhiên, phong vị quê hương, đồng thời cho ta
gặp tấm lòng tha thiết với quê hương (Một chuyến đi, thiếu quê hương)
+ Vang bóng một thời: Ở đề tài này, Nguyễn Tuân viết về những nét
đẹp một thời đã lùi vào dĩ vãng, nay chỉ còn vang bóng. Nét đẹp này gắn với lớp
nho sĩ cuối mùa.
+ Đời sống trụy lạc: Đề tài này đã ghi lại quãng đời hoang mang, bế tắc
của chính nhà văn. Cái tôi lãng tử Nguyễn Tuân đã lao vào rượu, thuốc phiện và
cô đào (chiếc lư đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc).
b. Sau cách mạng tháng Tám
- Nguyễn Tuân trở thành nhà văn cách mạng, ông hòa mình vào cuộc
chiến đấu của dân tộc, sáng tác của ông tập trung vào việc phản ánh hai cuộc
kháng chiến thần thánh.
- Những tác phẩm của Nguyễn Tuân thời kỳ này cho ta gặp hình ảnh
con người Việt Nam vừa tài hoa vừa anh dũng (Đường vui, Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi). Ông cũng viết về công cuộc xây dựng đất nước trong đó hiện lên hình ảnh
người lao động Việt Nam cần cù mà hết mực tài hoa, trí dũng.
c. Phong cách nghệ thuật
- Trước cách mạng, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm
trong một chữ “ngông”. Đó là thái độ khinh đời, làm khác đời dựa trên cái tài

hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình. Thể hiện phong cách này, mỗi
trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa và uyên bác.
->Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp khi ông khám phá sự vật ở phương diện
thẩm mĩ, nhìn con người ở phương diện tài hoa, đối lập với con người bình
thường, phàm tục.
- Sau CMT8 Nguyễn Tuân vẫn ngợi ca những con người tài hoa, vẫn
hướng đến những cái gì phi thường mãnh liệt, vẫn vận dụng tri thức của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát và mô tả vẫn tô đậm phong cách và cá tính
độc đáo của mình. Điều khác là tinh thần dân tộc và lòng yêu nước được phát
huy mạnh mẽ trong tác phẩm của ông. Cái đẹp của con người tài hoa có thể tìm
thấy trong nhân dân trên mọi lĩnh vực.
II. Tác phẩm: “Người lái đò Sông Đà”
1. Hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn
năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong
tập Sông Đà(1960) trong một chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền
Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn,
4


trong chuyến đi ấy ông đã không quên tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên
nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ
mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi đây được ông ví như “chất
vàng mười đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng
cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.
2. Vài nét về thể loại tùy bút
- Ký là tên gọi trong một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học
và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ yếu là văn
xuôi tự sự trong đó:
- Tùy bút là một thể của ký, tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa

là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy
theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng nhận xét đánh giá, trình bày.
Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ
cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá. (Bản thân Nguyễn Tuân từng định nghĩa
một cách khôi hài: Tùy bút là tùy theo bút mà viết).
- Bút ký là một thể của ký, bút ký thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà
văn mắt thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và
sự việc một cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp
khuynh hướng nghị luận, tự sự, trữ tình tùy theo độ đậm nhạt khác nhau của các
phương thức mà ta có bút ký chính luận, bút ký tùy bút.
-> “Người lái đò Sông Đà” là tùy bút pha bút ký.
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
3.1 Hình tượng con sông Đà
Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật”
có hai tính cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng.
a. Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo
- Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự
không gian, bằng nhiều chi tiết đặc sắc. Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá
bờ sông dựng vách thành”, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa)
mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông “như một cái yết hầu”, có quãng con
nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì lòng sông hẹp, bờ sông là vách
đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh.”
- Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng
với hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà
không thận trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
- Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà
Mường Vát. Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở

và kêu như của cống cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào
dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác
giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên một chiếc thuyền
5


thúng, rồi xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim
ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi cho người xem.
- Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có
âm thanh dữ dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác
dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc
đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu
khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu
mộng” gầm thét khi bị cháy rừng.
- Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một
dáng vẻ, nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”.
Sông Đà hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để
gây khó khăn, nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba
vòng vây. Vòng thứ nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”,
một “cửa sinh” nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng
lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên
phải, bên trái đều là “luồng chết” cả, cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu
vệ của con thác.
- Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với
tâm địa độc ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều
lúc đã trở thành “kẻ thù số một” của con người.
b. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng

- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở
nhiều góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên
cao, Sông Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây
Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo
mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu
“lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị:
giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện
lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.
- Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi
cảm “như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba
Đường thi”, cùng với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn
chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc
khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
- Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ
nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương
ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn
búp”, có “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có
một liên tưởng độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
6


nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như
nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
c. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
- Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng
tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú,

sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả,
gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà
văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
Tóm lại hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai
đặc điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con
Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha
thiết của mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở
người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi
đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người.
3.2 Hình tượng người lái đò
a. Tác giả giới thiệu chung về người lái đò
- Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên
Tây Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một của con người. Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người
lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên
chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
b. Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm
- Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà. Thác
Sông Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng
người lái đò dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác.
- Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa
tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất
hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá
bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái
thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một
chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao
núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang
dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như

thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông
thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm
lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông
“cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến
hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ
hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn
tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận”
vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
- Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai
của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa
7


tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa
sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch
qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò.
Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng
đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng
nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con
thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con
thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt”
bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà
chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn
vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không
ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt
xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
- Vượt qua vòng vây thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng vây thứ ba
nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái

đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng
cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba
tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn
được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò
như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ
sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
c. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
- Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử
dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả
đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với
những câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ
sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
Tóm lại bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc
họa thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh
và kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động
Tây Bắc với những phẩm chất cao quí. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện
quan niệm của nhà văn: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có
trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy
bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình
trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu quý.
3.3 Nghệ thuật đoạn trích
Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị.
Từ ngữ sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, nhiều
tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm rãi, trữ tình,…
4. Ý nghĩa văn bản
8



Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và người lao động ở
miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của
Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam.

B. HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN LUYỆN TÁC PHẨM “NGƯỜI
LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”- NGUYỄN TUÂN
I. Dạng câu hỏi đọc hiểu (3 đề)
Đề 1:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“ Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn
là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết
hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện…”
(Nguyễn Tuân - Ngữ văn 12, chương trình chuẩn, tập 1, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2007, tr.186 )
Câu 1: Đoạn văn nằm ở phần nào của thiên tùy bút?
Câu 2: Đoạn văn miêu tả đặc điểm nào của con Sông Đà?
Câu 3: Xác định các phép tu từ được sử dụng trong đoạn văn và nêu tác dụng?
Gợi ý:
Câu 1: Đoạn văn nằm ở phần đầu của thiên tùy bút người lái đò Sông Đà.
Câu 2: Đặc điểm: Hùng vĩ, dữ dội, độ cao và độ xiết của những đá bờ sông phía
thượng nguồn.
Câu 3: - Biện pháp tu từ: Dùng các giác quan: thị giác, xúc giác, cảm giác so
sánh, liên tưởng: vách đá chẹt lại như một cái yết hầu.
- Tác dụng: Nêu lên sự hùng vĩ, hiểm trở, lưu tốc mạnh và ghê gớm.
Đề 2:

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo
gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu,
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy
sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục
hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là
9


một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”
(Nguyễn Tuân - Ngữ văn 12, chương trình chuẩn, tập 1, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2007, tr.187 )
Câu 1: Nêu phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên?
Câu 2: Nội dung chủ yếu của đoạn trích trên là gì ?
Câu 3: Trong đoạn trích, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều biện pháp tu từ về từ. Xác
định biểu hiện các phép tu từ đó và nêu tác dụng của hình thức nghệ thuật này là
gì?
Câu 4: Đoạn trích trên Nguyễn Tuân đã sử dụng tổng hợp tri thức của những
ngành nào? Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng đó là gì?
Gợi ý:
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn là miêu tả.
Câu 2: Tả về thác nước và đá ở Sông Đà
Câu 3: So sánh: thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…
- Nhân hoá: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.., rống

lên , mai phục, nhổm cả dậy, ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó …
- Tác dụng của hình thức nghệ thuật này là: gợi hình ảnh con sông Đà hùng
vĩ, dữ dội. Không còn là con sông bình thường, Sông Đà như có linh hồn, đầy
tâm địa, nham hiểm. Qua đó, ta thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của
Nguyễn Tuân.
Câu 4: - Âm nhạc: tả âm thanh tiếng thác: “nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên”
- Hội hoạ: vẽ bộ mặt của đá: “nhăn nhúm méo mó”
- Quân sự: “mai phục”
- Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng đó là: thể hiện phong cách tài
hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân khi tả dòng Sông Đà. Con sông được nhìn ở
nhiều góc độ, trở nên sống động, mạnh mẽ, ấn tượng, thể hiện tình yêu thiên
nhiên sâu đậm của nhà văn.
Đề 3:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“ Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như
đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.
Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy luống ngô non đầu mùa. Mà
tịnh không một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn búp. Một
đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe
lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt
mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách
Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm
10


xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước
sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải sông Đà bọt nước

lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa
quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những
hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
(Nguyễn Tuân - Ngữ văn 12, chương trình chuẩn, tập 1, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2007, tr.187 )
Câu 1: Nêu nội dung chính của đoạn trích trên?
Câu 2: Trong đoạn văn “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…” tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ
gì? Tác dụng của của biện pháp tu từ đó?
Câu 3: Viết một văn ngắn (không quá 10 dòng) trình bày cảm nhận của anh
(chị) về hình tượng sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân trong đoạn văn trên?
Gợi ý:
Câu 1: Nội dung: Nhà văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của Sông Đà ở
đoạn hạ lưu.
Câu 2: Biện pháp tu từ: Nghệ thuật so sánh, liên tưởng mới lạ, độc đáo, bất
ngờ giúp nhà văn khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng, thơ mộng, trữ tình của
cảnh vật ven Sông Đà nơi hạ lưu.
Câu 3: Viết một đoạn văn ngắn: Học sinh có thể viết theo cách hiểu của mình
nhưng phải đảm bảo được nội dung của đoạn văn là miêu tả vẻ đẹp thơ mộng,
lãng mạn, trữ tình của Sông Đà.

II. Dạng đề phân tích (4 đề)
Đề 1:
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả
Sông Đà: “Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng
có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn
bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt
cái hút xoáy tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào
dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng

đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.”
Và “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục VN, 2015, tr186 và 191)
Anh( chị) hãy phân tích hình tượng Sông Đà trong hai đoạn trích trên,
từ đó nhận xét về sự độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên của Nguyễn
Tuân.
11


Gợi ý:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò
Sông Đà”, vị trí của hai đoạn trích.
- Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại.Nói
đến ông là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn tài hóa, uyên bác và có một cách
diễn đạt độc đáo.
- Người lái đò Sông Đà là một tùy bút thành công của Nguyễn Tuân, được rút ra
từ tập tùy bút Sông Đà.
- Hình tượng nổi lên qua hai đoạn trích là con Sông Đà. Dưới cái nhìn nghệ sĩ
của Nguyễn Tuân, con Sông Đà không là một tạo vật thiên nhiên vô tri vô giác
mà là một sinh thể có tâm hồn, cá tính và tâm trạng đầy phức tạp.
* Phân tích hình tượng con Sông Đà trong hai đoạn văn
- Hình tượng con Sông Đà trong đoạn văn thứ nhất:
+ Vị trí: Đoạn văn miêu tả Sông Đà ở quãng Tà Mường Vát với những cái
hút nước khủng khiếp. Đây là một trong những đoạn dữ dội, hiểm nguy nhất của
Sông Đà.
+ Về nội dung:
++ Diện mạo sống động: như cái giếng bê tông, như cửa cống cái bị sặc, lừ
lừ những cánh quạ đàn.

++ Sức mạnh khủng khiếp: Nước thở và kêu…xoáy tít đáy…quay lừ lừ
++ Sông Đà quãng này là sự sợ hãi với bất cứ người nào đi qua đây, không
thuyền nào dám men gần…chèo nhanh để lướt quãng sông y như là ô tô sang số
ấn ga.
+ Về nghệ thuật: Biện pháp so sánh, nhân hóa, câu văn giàu nhạc điệu, giàu
hình ảnh liên tưởng, vận dụng am hiểu về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.
- Hình tượng con Sông Đà trong đoạn thứ hai:
+ Vị trí: Miêu tả Sông Đà trữ tình, thơ mộng thông qua dáng vẻ mềm mại của
dòng sông từ trên cao nhìn xuống.
+ Về nội dung:
++ Dòng chảy mềm mại, uyển chuyển, ẩn hiện như mái tóc người thiếu nữ
Tây Bắc với vẻ đẹp trẻ trung duyên dáng.
++ Vẻ đẹp của dòng sông hòa quyện với những nét đặc trưng của thiên nhiên
Tây Bắc.
+ Về nghệ thuật: Câu văn giàu chất họa, chất nhạc, vận dụng linh hoạt các
biện pháp tu từ, quan sát, miêu tả tỉ mỉ, tinh tế.
* Nhận xét về sự độc đáo trong cách miêu tả thiên nhiên của Nguyễn
Tuân.
- Độc đáo trong cách khám phá: là nhà văn của những tính cách độc đáo ông
đã
tìm thấy ở Sông Đà cảm hứng mãnh liệt bởi đó không phải là một dòng sông
vô tri vô giác mà là một sinh thể có linh hồn, tính cách, thậm chí đối lập nhau,
vừa hung bạo vừa trữ tình.
12


- Độc đáo trong cách thể hiện: Ngôn ngữ giàu hình ảnh, câu văn giàu nhịp
điệu co duỗi nhịp nhàng” vận dụng linh hoạt, các biện pháp tu từ, liên tưởng độc
đáo, kiến thức uyên bác.
=> Cách khám phá miêu tả trên chính là những nét tiêu biểu trong phong

cách nghệ thuật của Nguyên Tuân.

Đề 2:
Phân tích đoạn văn sau trong bài tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của
Nguyễn Tuân:
“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những
cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có
lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện…”Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của
một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi
tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có
phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy
vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi
mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh
bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của ‘‘một người tình nhân chưa quen
biết" (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá
thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng
nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những
con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình
dây cổ điển trên dòng trên…”
Gợi ý:
* Giới thiệu khái quát vể tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút“ Người lái đò Sông
Đà” vị trí của hai đoạn trích.
* Phân tích hình tượng con Sông Đà trong đoạn văn

- Nội dung:
+ Vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả, hiền hòa 
++ Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng,
mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên Sông
Đà”. Cái ý “lặng tờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất
đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
13


Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, nghĩa là không thể “lặng tờ”
hơn được nữa!
++ Thiên nhiên thật hài hoà và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, miêu tả vẻ
đẹp trữ tình, thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông.
++ Thần thái của dòng sông: Dòng sông như một sinh thế mang nặng tâm
trạng, cảm xúc.
++ Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”.
+ Cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình trên Sông Đà
++ Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm
ngưỡng vẻ đẹp bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, một người yêu.
++ Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của
quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền
thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh
vật thực tại.
++ Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết; hòa nhập tâm hồn mình với thiên
nhiên. Người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất
thấu hiểu thiên nhiên.
++ Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây
Bắc xa xôi của Tổ quốc.
- Nghệ thuật:

++ Thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp câu trúc cú pháp.
++ Những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc:
++ Gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ
++ Cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa.
* Đánh giá:
- Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình
yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính,
hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm
năng của Tổ quốc Việt Nam.
Đề 3:
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lái đò Sông Đà.
Gợi ý:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút“ Người lái đò
sông Đà”, hình tượng người lái đò Sông Đà.
- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, độc đáo, thành tựu trên các các thể loại:
truyện ngắn và tùy bút. Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật và
cuộc sống.
- Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được sáng tác nhân một chuyến đi công
tác của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc và được in trong tập tùy bút “Sông
Đà”(1960).
14


- Hình tượng nổi lên trong tùy bút là hình tượng người lái đò. Dưới ngòi
bút của Nguyễn Tuân, người lái đò trở thành một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt
thác ghềnh và hội tụ rất nhiều những vẻ đẹp khác nhau.
* Phân tích hình tượng lái đò trong đoạn trích, đánh giá khái quát
- Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên
nhiên Tây Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ
thù số một của con người. Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của

người lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao”
trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
+ Ngoại hình và hoàn cảnh sống
++ Ông lái đò được nhà văn miêu tả với những nét ngoại hình và tố
chất khá đặc thù cho những người lao động trên sông nước: tay ông lêu nghêu,
chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh.
++ Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên
nhiên- một thứ thiên nhiên Tây Bắc dữ dội để giành lấy sự sống từ tay nó về tay
mình.
+ Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm
++ Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà.
Thác Sông Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền.
Nhưng người lái đò dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây
của thác
/ Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa
tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất
hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá
bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái
thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một
chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao
núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang
dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như
thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông
thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm
lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông
“cố nén vết thương”, hai chân 3 vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến
hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ
hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn

tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận”
vòng thứ nhất của thác Sông Đà. Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục
phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà.
/ Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh
lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm
“lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông
15


lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu
rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến
của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng,
ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa
sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến
vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi
vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa
thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để
mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo
hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu
khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì
bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé – Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải
vượt qua vòng thứ ba nữa.
/ Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái
đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng
cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba
tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn
được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò

như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ
sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
+ Phong thái ung dung
++ Sau cuộc vượt thác đầy gian nan, nguy hiểm, ông đò nhìn những thử
thách đã qua bằng một cái nhìn giản dị mà lãng mạn. cái tài của ông đò không
có chút kiêu bạc mà rất gần gũi với đời thường: ngồi trong hang đá họ chỉ bàn
tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng
vừa qua nơi cửa ải nước có đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
* Nghệ thuật xây dựng hình tượng
– Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã
sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác
giả đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với
những câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ
sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
=> Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa
thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và
kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây
Bắc với những phẩm chất cao quý. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan
niệm của nhà văn: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có
trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy
bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình
trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam
Đề 4:
Anh/chị hãy phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con
16


sông hung dữ trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó,
hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt của tác giả, thiên nhiên Tây Bắc quý như
vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất

nước ta.
Gợi ý:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò Sông
Đà và hình tượng người lái đò.
*Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến với con Sông Đà hung
dữ
+ Thoạt nhìn đó là cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên
này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên
hàng thần thánh, có sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận
với ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào
và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí
trên tay chỉ là chiếc cán chèo- những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga
sóng thác trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi.
+ Cuối cùng vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự
nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia
của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng
qua bộ mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm
sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông. Nguyễn Tuân cho thấy, nguyên
nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó chính là sự ngoan
cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác
xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá,
để từ đó khuất phục dòng thác hồng hộc hơi thở của hùm beo.
=> Để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thủy chiến giữa ông
lái đò với thác dữ sông Đà, Nguyễn Tuân đã tung ra đạo binh ngôn từ hùng hậu
cùng tất cả sự tài hoa, uyên bác trong ngòi bút của mình.
* Lí giải :
Từ việc làm rõ sức mạnh, sự ngoan cường, chí quyết tâm, kinh
nghiệm đò giang của người lái đò-một người lao động bình thường trên mảnh
đất Tây Bắc nước ta – qua cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chúng ta hiểu
rằng, chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ

dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp
và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc
thẩm mĩ của tác giả Người lái đò sông Đà, con người đẹp hơn tất cả và quý giá
hơn tất cả. Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca
ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới
thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy
chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những
người lao động nói chung.
* Đánh giá chung về hình tượng ông lái đò, về tác phẩm và tài năng nghệ
thuật của Nguyễn Tuân.
17


III. Dạng đề bàn luận về ý kiến trong tác phẩm (2 đề)
Đề 1:
Về nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”.
Từ cảm nhận về nhân vật ông lái đò, anh/chị hãy bình luận những ý kiến
trên?
Gợi ý:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm “Người lái đò
sông Đà”.
* Nêu vấn đề nghị luận: Trích dẫn hai ý kiến
* Giải thích ý kiến
+ Ý kiến 1: Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa: là những người có rung
động tâm hồn mãnh liệt trước mọi vui buồn của đời sống và có khả năng thể
hiện những rung động ấy bằng những phương tiện nghệ thuật đặc thù.Ở ý kiến
này, người nghệ sĩ tài hoa được hiểu là người đạt tới trình độ điêu luyện trong
ngề nghiệp và có đời sống tâm hồn đậm chất nghệ sĩ.

+ Ý kiến 2: Người lao động bình thường là người lao động thầm lặng, vô
danh, không tên tuổi. Giống như bao người lao động khác trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
=> Hai ý kiến trên bổ sung cho nhau, làm hoàn thiện chân dung, tính cách
người lái đò Sông Đà.
* Chứng minh-bình luận ý kiến
+ Ông lái đò-một nghệ sĩ tài hoa.
++ Ông lái đò có tính cách phóng khoáng, thích đối mặt với thử thách
mạo hiểm, gian nguy.
++ Ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá như một nghệ sĩ điêu
luyện cao cường.
++ Cuộc băng ghềnh vượt thác ngoạn mục đã khẳng định vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ của một tay lái ra hoa.
+++ Vòng vây thứ nhất, Sông Đà bày ra nhiều cạm bẫy. Ông lái đò bị
sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm. Nhưng bằng tinh thần dũng cảm, ông đã
tỉnh táo chỉ huy sáu mái chèo, chiến thắng trùng vi thạch trận đầy nguy hiểm.
+++ Ở vòng vây thứ hai, Sông Đà đã thay đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá, xác định đúng cửa sinh và chiến thắng
thằng đá tướng đứng chiến ở cửa giữa.
+++ Vòng vây thứ ba Sông Đà tiếp tục thay đổi chiến thuật, bên trái bên
phải đều là cửa tử. Ông lái đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền
như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được. Thế là hết thác.
+ Ông lái đò là một người lao động bình thường.
18


++ Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước
như bao người lái đò khác nơi thượng nguồn Sông Đà khuất nẻo.
++ Ông có đời sống tâm hồn giản dị, không nói nhiều về chiến công dù

đi đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường.
* Nghệ thuật thể hiện:
- Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, hài hòa, kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn
và đặc sắc.
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo.
- Sử dụng bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú
vị.
- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật, góp phần miêu
tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật.
* Đánh giá:
- Qua hình tượng ông lái đò, có thể thấy ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa
trên sông nước, đồng thời cũng là một người lao động giản dị bình thường.Vẻ
đẹp của ông đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân lao động vùng Tây Bắc tổ
quốc…Hai ý kiến trên không đối lập mà bổ sung cho nhau đem đến một cái nhìn
đầy đủ, toàn diện về nhân vật.
Đề 2:
Về đoạn trích tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân ở sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 (tập 1), có ý kiến cho rằng: "Đó là một công trình khảo
cứu công phu". Nhưng ý kiến khác lại nhấn mạnh: "Đó là một áng văn giàu
tính thẩm mĩ".
Từ việc cảm nhận đoạn trích đã học, anh/chị hãy bình luận những ý
kiến trên.
Gợi ý:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
* Nêu vấn đề nghị luận: Trích dẫn 2 ý kiến
* Giải thích ý kiến
- Công trình khảo cứu công phu: Là một tác phẩm được tạo nên từ
công sức tìm tòi, nghiên cứu dựa trên các tài liệu phong phú. Nó thể hiện vốn
sống và tầm hiểu biết sâu rộng của nhà văn. Nó đem đến cho người đọc những
hiểu biết phong phú về các đặc điểm, tính chất của đối tượng được đề cập...

- Áng văn giàu tính thẩm mĩ: Là tác phẩm nghệ thuật đạt đến độ
hoàn hảo trong việc tái hiện cái đẹp, khơi gợi những hứng thú và khả năng cảm
nhận cái đẹp ở người đọc thông qua cách viết tài hoa, độc đáo của người nghệ
sĩ...
* Phân tích biểu hiện:
- Công trình khảo cứu công phu:
+ Tác giả huy động một vốn kiến thức tổng hợp khá đồ sộ về rất
nhiều ngành khoa học và nghệ thuật.
++ Địa lí: Đặc điểm địa hình, địa thế, dòng chảy của sông, các con
thác dọc sông Đà, sắc nước mỗi mùa...
19


++ Lịch sử: Tên sông qua các thời kì và lịch sử sông Đà: thời tiền
sử, thời Hùng Vương, thời phong kiến, thời kháng chiến, thời xây dựng chủ
nghĩa xã hội...
++ Văn học, văn hoá: Hình ảnh con sông Đà trong thơ văn: Nguyễn
Quang Bích, gợi nhớ thơ Lí Bạch, thơ Ba Lan, Tản Đà... Đời sống vật chất (đốt
lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam) và tinh thần (bàn cá anh vũ, cá dầm
xanh...)
++ Các kiến thức khác: quân sự, thể thao, âm nhạc, hội hoạ, điện
ảnh, sân khấu...
++ Sự am hiểu tường tận về công việc lái đò, và khả năng chinh
phục thiên nhiên của người dân lao động Tây Bắc...
- Áng văn giàu tính thẩm mĩ:
+ Người đọc có được khoái cảm thẩm mĩ thực sự trước vẻ đẹp
tuyệt vời của con sông Đà hung bạo và trữ tình; vẻ đẹp của ông đò anh hùng và
nghệ sĩ. Bên cạnh đó, người đọc còn được thưởng thức vẻ đẹp của một thiên anh
hùng ca và một bản tình ca say đắm về thiên nhiên và cuộc sống. (Chứng minh
qua chi tiết nghệ thuật)

+ Nhà văn đã biến những thông tin khô khan, tư liệu lạnh lùng
thành hình tượng sống động, có đời sống, có tâm lí, tính cách, số phận cụ thể.
(Chứng minh qua chi tiết nghệ thuật)
+ Giá trị thẩm mĩ còn thể hiện ở thể văn Tuỳ bút vừa thực tế vừa
tự do phóng túng, ở tài năng lựa chọn ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Tuân.
* Bình luận hai ý kiến
- Hai ý kiến đều đề cập đến những vẻ đẹp khác nhau của đoạn trích tuỳ
bút. Ý kiến thứ nhất nhấn mạnh trí tuệ uyên bác, lao động nghệ thuật nghiêm
túc, công phu và tình yêu đối với những người lao động bình thường của nhà
văn. Ý kiến thứ hai thể hiện chất tài hoa, tài tử, sự sáng tạo độc đáo trong cách
miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên và con người của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
Tám...
- Bàn luận chung: Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ
sung cho nhau, giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và thấu đáo hơn về vẻ đẹp
của tác phẩm và sự vận động trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Tuân sau Cách mạng tháng Tám...
* Đánh giá
- Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Với sự tài hoa, uyên bác của
mình nhà văn đã khắc họa thành công vẻ đẹp con người và thiên nhiên Tây Bắc.
Qua đó, tác giả gửi gắm tình yêu thiên nhiên, con người nơi đây vốn được xem
như "chất vàng mười", một thứ vàng đã qua thử lửa. Tác phẩm này vừa là" một
công trình khảo cứu công phu" vừa là "một áng văn giàu tính thẩm mĩ" mà
Nguyễn Tuân đã để lại cho muôn đời sau.
- Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta thấy yêu hơn về vẻ đẹp phong phú của
thiên nhiên và con người Việt Nam. Từ đó, chúng ta hiểu rõ hơn về trách nhiệm
20



của bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thên nhiên tuyệt đẹp của quê hương
đất nước mình.
IV. Dạng đề so sánh (3 đề)
Đề 1:
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm
"Người lái đò Sông Đà" – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác
phẩm "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó,
trình bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê
hương, đất nước.
Gợi ý:
* Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và “Người lái đò Sông Đà”
- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương, Sông Đà, và về
việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
* Phân tích
- Nét tương đồng của hai dòng sông
+ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một
nhân vật trữ tình có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện
tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước.
+ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ
dội.
-> Vẻ đẹp hùng vĩ của Sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội
của nó trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá
sông Đà như đang bày trùng vi thạch trận.
-> Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa một bản
trường ca của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại....
- Đánh giá
+ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:

++ Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu
nước thay đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính...
++ Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của
người con gái ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được
ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế...
+ Cả hai đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
++ Tài hoa: hai dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa,
thẩm mĩ.
+++ Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên
Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.

21


+++ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca,
của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân
xứ Huế.
++ Uyên bác: cả hai tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến
thức trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng hai dòng sông.
- Nét độc đáo riêng trong từng hình tượng dòng sông
a/ Sông Đà
- Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội
của sông Đà giống như một kẻ thù hiểm độc và hung ác. Thể hiện rõ nhất qua
hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận chực lấy đi
mạng sống của con người. Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi
thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng,
đá trên sông Đà mỗi viên đều mang một khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến...
- Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật
sự tài hoa, tài trí của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như một chiến địa dữ

dội. Và mỗi lần vượt thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với
thần sông, thần đá...
b/ Sông Hương:
- Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm
và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có
tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man
dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như
người tài nữ đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại
chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.
- Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó
như người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao
đời nay.
- Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy
trình của sông Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi
chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như một tiếng "vâng" không nói ra của
tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng
chia tay người yêu, thể hiện một nỗi niềm vương vấn với một chút lẳng lơ kín
đáo.
=> Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể
hiện nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.
* Trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của
quê hương, đất nước.
- Trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như:
+ Yêu quý, bảo vệ môi trường.
+ Quảng bá thắng cảnh...
* Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn
- Qua vẻ đẹp tương đồng của hai dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng
độc đáo của hai tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ
đẹp của non sông đất nước Việt Nam.
22



- Mỗi nhà văn đều có hai phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể
hiện hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú,
đa dạng về vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình.
Đề 2:
Cảm nhận vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông lái đò trong đoạn trích Người lái
đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Từ đó so sánh với nhân vật Huấn Cao
trong Chữ người tử tù để thấy sự chuyển biến trong cách xây dựng nhân vật
của nhà văn.
Gợi ý:
1. Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và “Người lái đò Sông Đà”
- Giới thiệu nhân vật người lái đò và nhân vật Huấn Cao
2. So sánh hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò Sông Đà
* Phân tích nhân vật người lái đò Sông Đà
- Ông là người anh hùng sông nước:
+ Con người gần bảy mươi tuổi đã hàng trăm lần qua lại trên dòng sông
có gần 73 con thác.
+ Mười năm trong nghề lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông
lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò
lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái
bến xa nào đó trong sương mù, bả vai ông có vết củ nâu tròn - dấu tích tì sào của
nghề lái đò được Nguyễn Tuân ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
=> Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc
vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh người lái đò gần gũi với môi trường
lao động trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời
chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương
Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại

hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người
đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói,
“hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.
- Ông lái đò là nghệ sĩ tài hoa.
+ Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục
trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con
người trí dũng ngoan cường.
+ Đó cũng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch
trận của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi
én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông
đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn.
+ Những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như dàn sẵn trận địa…
dụ thuyền đối phương… đánh khuýp quật vu hồi… đã nhân cách hóa dòng sông
khiến cho thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hãn,
hiểm ác như một thứ kẻ thù số một của con người.
23


+ Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc
của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm, méo mó, xấc xược thách
thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh… một loạt những động từ đặt trong các nhịp
câu ngắt ngắn, nhanh, dồn dập: nước thác reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gẫy…
đá trái… thúc gối… đội thuyền… bám lấy thuyền… rồi sử dụng cấu trúc điệp để
tả nước xô đá, đá xô sóng… hay sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn
âm… Tất cả đã làm hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc
các sức mạnh thiên nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc
và con người nhỏ bé. Thiên nhiên sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn
trận tấn công con người. Để đưa con thuyền vượt thác sông Đà khúc thượng
nguồn, những người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng
dông, trong đó, vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn…

vòng hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn…
vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống… lại ở ngay giữa
bọn đá hậu vệ của con thác…
 Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là
những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của
mình khi người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan
cường, dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi
thạch trận trên dòng sông. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò
là một “tay lái đò tài hoa”.
=>Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược
bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò để đi sâu vào khắc họa ngoại
hình, hành động của nhân vật.
* Phân tích nhân vật Huấn Cao
- Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là
một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong
sáng.
- Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục,
cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
=> Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao
chúng ta dễ thấy được những nét chung và điểm khác biệt trong cách tiếp cận
con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
* Đánh giá:
- Nét chung:
+ Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của
nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
+ Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả
năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co
duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
- Nét riêng (tính khác biệt):

+ Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và
ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách
24


mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy
ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân
+ Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích
chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu
cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà
văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó.
Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã
nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống
đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất
nhân văn của chế độ mới
++ Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên
lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước
Cách mạng. Người lái đò Sông Đà ca ngợi con sông Đà và người lái đò Sông
Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống
mới, con người mới.
++ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn
“vang bóng"; ông lái đò là con người của hiện tại, của hôm nay.
++ Huấn Cao là người đặc biệt, siêu phàm; ông lái đò là con người
bình thường của cuộc sống thường nhật.
++ Huấn Cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội
bất công; ông lái đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây
dựng quê hương, đất nước.
- Về cảm hứng thẩm mĩ
+ Qua nhân vật Huấn Cao: tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người
kiệt xuất thuộc quá khứ “vang bóng một thời”

+ Qua nhân vật ông lái đò: tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân đại chúng,
thể hiện trong lao động và chiến đấu.
- Về cách tiếp cận con người:
+ Trong Chữ người tử tù: ca ngợi những “con người đặc tuyển, những
tính cách phi thường”, ca ngợi cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.
+ Trong Người lái đò Sông Đà: ca ngợi những nhân vật tài hoa có
thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, ca
ngợi cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi
đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ
mới.
* Đánh giá chung:
- Hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Chữ người tử tù đã nói lên phần
nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận
động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.
Đề 3:
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, có đoạn Nguyễn Tuân viết: “Đá
ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có
25


×